Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiến trình quản lý trường hợp với người khiếm thị ( nghiên cứu trường hợp cụ thể chị Nguyễn Thị H)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.77 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
²
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: NGƯỜI KHUYẾT TẬT, CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HÀNH
MÔN: NGƯỜI KHUYẾT TẬT, CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HÀNH
ĐỀ TÀI: Tiến trình quản lý trường hợp với người khiếm thị ( nghiên cứu
trường hợp cụ thể chị Nguyễn Thị H)



Giáo viên hướng dẫn
: PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà
: PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Học viên
: Nguyễn Thị Vân Anh
: Nguyễn Thị Vân Anh
Lớp
: CTXH 1 -2012
: CTXH 1 -2012

Hà Nội – 04/2014
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Theo thống kê trên Thế giới cho biết “Cứ 5 giây trôi qua lại có thêm
một người bị mù và cứ một phút trôi qua lại có một đứa trẻ vĩnh viễn không
nhìn thấy ánh sáng”. Hàng năm cả thế giới phải tiêu tốn hơn 42 tỷ đôla Mỹ
cho việc chữa trị các bệnh về mắt. Ông bà ta vẫn nói: “Giàu hai con mắt, khó


hai bàn tay”. Vì thế, có thể nói, những người khiếm thị chính là những người
“nghèo” nhất. Thế nhưng, họ vẫn sống, vẫn vươn lên bằng nghị lực phi thường
với khát khao được hoà nhập cộng đồng. Tuy mỗi người có một hoàn cảnh
khác nhau nhưng họ đều đang cố gắng hoàn thiện mình để trở thành người có
ích cho xã hội. Hơn ai hết, người khiếm thị phải chịu nhiều thiệt thòi, mất mát
trong cuộc sống thường nhật nên họ rất cần sự cảm thông và chia sẻ của toàn
xã hội. Nghĩa cử đó dù là tinh thần hay vật chất cũng đều đem lại cho người
khiếm thị niềm hạnh phúc lớn lao để họ vững tin vươn lên học tập, lao động,
sống hoà nhập cộng đồng, bởi chỉ có ánh sáng của tri thức mới bù đắp được
sánh sáng của đôi mắt.
Trong những năm qua , Đảng và nhà nước ta đã luôn nỗ lực quan tâm
đến vấn đề việc làm cho người khuyết tật đặc biệt là người khiếm thị. Đã có
rất nhiều chương trình và chính sách trợ giúp trong việc hỗ trợ tạo việc làm
cho người khiếm thị, tuy nhiên trong công tác hỗ trợ vẫn còn nhiều bất cập và
thiếu sót, một số đối tượng là người khiếm thị vẫn phải sống cuộc sống khó
2
khăn, thiếu thốn về cả vật chất và tinh thần, sống phụ thuộc vào gia đình trong
khi họ rất muốn có việc làm tạo thu nhập để giảm gánh nặng cho gia đình và
xã hội. Chính vì vậy chúng ta cần quan tâm hơn nữa tới những người khiếm
thị đặc biệt là quan tâm đến nhu cầu có việc làm để cho người khiếm thị vơi đi
phần nào sự mặc cảm tự ti về số phận, tăng khả năng thích ứng với xã hội, tạo
cơ hội cho họ tham gia vào các hoạt động xã hội và cống hiến tài năng bản
thân vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bài cuối kỳ sẽ đi sâu vào
nghiên cứu tiến trình quản lý trường hợp với người khiếm thị ( nghiên cứu
trường hợp cụ thể) làm đề tài nghiên cứu cuối kỳ.
2. Ý nghĩa đề tài
- Ý nghĩa lý luận – khoa học
Đề tài vận dụng kiến thức công tác xã hội cũng như tiến trình quản lý ca
với người khuyết tật nói chung và người khiếm thị nói riêng. Đây là một đề tài

nghiên cứu khám phá để tạo đà cho những nghiên cứu mang tính khoa học hơn
vể đề tài người khiếm thị.
- Ý nghĩa thực tiễn
Qua quá trình nghiên cứu, tìm tài liệu, tìm hiểu thực tế nhà nghiên cứu
có cơ hội áp dụng những lý thuyết trong công tác xã hội vào thực tiễn, có sự
hiểu biết sâu sắc về đặc điểm tâm, sinh lý, nhu cầu của người khuyết tật nói
chung và người khiếm thị nói riêng. Từ đó, giúp nhà nghiên cứu nắm vững
kiến thức, kỹ năng và có thêm nhiều kinh nghiệm cho những nghiên cứu tiếp
theo.
3. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: nghiên cứu sử dụng phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm nền tảng.
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Phương pháp thu thập thông tin: Để có số liệu cụ thể về vấn đề nghiên
cứu, nhà nghiên cứu đã tìm hiểu một số tài liệu liên quan đến vấn đề người
3
khuyết tật, người khiếm thị từ đó làm rõ nhiều khía cạnh của vấn đề quản lý
trường hợp với người khiếm thị và đưa ra những đánh giá đúng, khách quan,
phù hợp với đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp phân tích tài liệu: trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu và
các tài liệu về người khuyết tật, người khiếm thị, dựa vào các thông tin thu
thập được nhà nghiên cứu tiến hành lập kế hoạch trợ giúp đối tượng, phân tích,
đánh giá những nguồn lực thực hiện để giúp đối tượng lựa chọn vấn đề ưu tiên
giải quyết.
4. Bố cục của bài viết
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của bài nghiên cứu được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Tiến trình quản lý trường hợp với người khiếm thị
Chương 3: Kết luận

4
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
I. Cơ sở lý luận
1. Một số khái niệm
1.1. Khái niệm Công tác xã hội
Công tác xã hội là một khoa học xã hội ứng dụng, là một nghề chuyên
môn có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của con người, của mỗi quốc
gia. Sự ra đời và phát triển của công tác xã hội đã đóng góp đáng kể vào việc
ngăn ngừa và giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần bảo đảm công bằng xã
hội và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Theo Từ điển Công tác xã hội ( 1995): “ Công tác xã hội là một khoa học
xã hội ứng dụng nhằm giúp con người hoạt động có hiệu quả về mặt tâm lý xã
hội và tạo ra những thay đổi trong xã hội để đem lại sự an sinh cao nhất cho
con người”.
Theo Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thì: “ Công tác xã hội là
hoạt động chuyên nghiệp để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng
cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những
điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Nghề công tác xã hội
thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con
người, tăng năng lực và giải phóng cho con người nhằm giúp cho cuộc sống
của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con
người và hệ thống xã hội. Công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con
người với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên
tắc căn bản của ngành”.
1.2. Khái niệm khuyết tật
Trong hệ thống phân loại Quốc tế ICF, WHO định nghĩa khuyết tật như
sau: “ Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận
động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác giữa cá
5

nhân một người ( về mặt tình trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của
người đó (bao gồm yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác).
1.3. Khái niệm người khuyết tật
Theo Pháp lệnh về người tàn tật ngày 30/7/1998: Người khuyết tật
(không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật) là người bị khiếm khuyết một hay
nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác
nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập
gặp nhiều khó khăn. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng Khuyết
tật được phân thành nhiều loại: tật vận động, tật giác quan, tật trí tuệ…
Theo mô hình từ thiện: Người khuyết tật như là một nạn nhân của suy
giảm chức năng, tình trạng rất bi đát, bất hạnh, chịu nhiều đau khổ họ cần các
dịch vụ y tế đặc biệt, dịch vụ xã hội đặc biệt và trường học đặc biệt.
Theo đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa:
“người khuyết tật là người người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây
ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống”.
Theo Công ước quốc tế (30/3/2007) thì: “ Người khuyết tật là những
người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc các giác
quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia
đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như
những người khác trong xã hội”.
Theo luật người khuyết tật được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
17/06/2010: “ Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến
cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
1.4. Khái niệm về Công tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tật là hoạt động chuyên nghiệp của
nhân viên công tác xã hội giúp đỡ những người khuyết tật tăng cường hay khôi
phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ, huy động nguồn lực, xác
định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợ người khuyết tật, gia đình và cộng đồng
6

triển khai hoạt động chăm sóc trợ giúp họ một cách hiệu quả, vượt qua những
rào cản, đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hội trên nền tảng sự
công bằng như những người khác trong xã hội.
1.5. Khái niệm người khiếm thị
Người khiếm thị là người sau khi được điều trị và hoặc điều chỉnh khúc
xạ mà thị lực bên mắt tốt vẫn còn từ dưới 3/10 đến trên mức không nhận thức
được sáng tối, và bệnh nhân vẫn còn khả năng tận dụng thị lực này để lên kế
hoạch và thực thi các hoạt động hàng ngày. Trong ngôn ngữ thường ngày để
nói tránh người ta gọi người mù là người khiếm thị nhưng thực ra hai khái
niệm này khác nhau, người mù hoàn toàn không có khả năng nhận thức sáng
tối. Để chỉ chung người khiếm thị và người mù người ta dùng thuật ngữ người
mù lòa (visually impaired) mà đôi khi còn có tên khác là người suy giảm thị
lực.
2. Phân loại khuyết tật
- Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động
đầu, cổ, chân tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
- Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói
hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong
giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.
- Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm
nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi
trường bình thường.
- Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư
duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật,
hiện tượng, giải quyết sự việc.
- Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể
khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không
thuộc các trường hợp được quy định tại các dạng trên.
3. Đặc điểm tâm, sinh lý của người khuyết tật
7

Là một nhân viên công tác xã hội muốn giúp đỡ và giải quyết những
khó khăn của người khuyết tật thì trước hết phải hiểu về đặc điểm tâm, sinh lý,
nhu cầu của các nhóm người khuyết tật. Ngoài những nhu cầu chung nhất họ
còn có những đòi hỏi riêng mà nhà công tác xã hội cần chú ý:
- Sự thiếu hụt về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của
người khuyết tật có thể giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong
sinh hoạt, lao động, học tập…Do đó gia đình và xã hội cần có hỗ trợ, ưu tiên
đặc biệt cho nhóm đối tượng này như: chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức
năng, làm tay chân giả, cung cấp xe lăn, máy trợ thính, thiết bị tiện nghi, nhà
ở…cần có đuợc các dịch vụ giáo dục đặc biệt dành cho người khuyết tật.
Cơ chế bù trừ chức năng của các cơ quan cảm giác ở người khuyết tật
được thể hiện rõ nét: khi họ mất đi khả năng hoạt động của các cơ quan cảm
giác nào đó thì ở họ khả năng hoạt động của các cơ quan còn lại rất phát triển
và sự nhận biết thế giới xung quanh thực hiện chủ yếu thông qua giác quan
còn lại này.
Do mất hoặc giảm khả năng hoạt động một trong các cơ quan tiếp nhận
thông tin cần thiết cho hoạt động nhận thức nên phần lớn một số người khuyết
tật giác quan, tật thần kinh hoạt động tư duy có phần bị giảm sút về tốc độ do
khối lượng thông tin cần tiếp thu bị hạn chế. Chính vì vậy trong hoạt động
giáo dục, dạy nghề ta cần cung cấp thông tin của nhiều kênh, nhiều nguồn
bằng nhiều biện pháp để tăng cường lượng thông tin cho hoạt động nhận thức
của đối tượng.
Do bị bệnh tật, khó khăn đi lại hoặc giao tiếp nên hoạt động lao động,
giao lưu hạn chế hơn so với người bình thường nếu không có hỗ trợ xã hội thì
phạm vi quan hệ xã hội ở người khuyết tật sẽ bị thu hẹp. Do đó, gia đình và xã
hội cần tạo điều kiện cho đối tượng hoà nhập vào cuộc sống xã hội của những
người bình thường.
Do sự thiếu hụt dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động trên
nên người khuyết tật thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu
8

gắt, nóng nảy/…Ngay cả khi như vậy họ cũng cần được chấp nhận, tôn
trọng Cộng đồng và xã hội cần giáo dục mọi người tránh cử chỉ, hành vi miệt
thị xa lánh, cần loại bỏ những tên gọi theo dị tật như “ thằng què, con cụt” xúc
phạm đến họ.
Cần động viên khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của thân chủ.
Bên cạnh những khó khăn trên mà người khuyết tật phải trải qua, nhưng họ lại
là những người rất giàu về nghị lực để vượt qua khó khăn của tật nguyền. Với
sự hỗ trợ thích hợp của gia đình và xã hội một số người khuyết tật đã đạt được
nhiều thành tích cao trong lao động và học tập.
Mặt khác họ là người có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị, họ rất
thông cảm với những khó khăn của người khác hơn cả so với người bình
thường. Chính vì vậy, họ là những người hoạt động rất có hiệu quả trong các
nhóm tự giúp. Tại đây họ giúp nhau vượt qua khó khăn của bệnh tật, chia sẻ
kinh nghiệm với nhau để thích nghi tốt hơn.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề người khuyết tật
Mục tiêu quan trọng của chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước ta
là hướng vào con người, lấy con người làm trung tâm, phát triển vì con người
và do con người. Vì vậy hoàn thiện hệ thống chính sách trợ giúp xã hội nói
chung và công tác chăm sóc nuôi dưỡng đối với các đối tượng người khuyết
tật là từng bước thực hiện chiến lược này.
Xuất phát từ tình hình thực tế ở nước ta trong những năm qua Đảng ta
đã không ngừng đổi mới hệ thống chính sách về chăm sóc người khuyết tật
nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác trợ giúp xã hội.
Người khuyết tật không phải là gánh nặng của xã hội, họ cũng có niềm
tin, giá trị , mong muốn đóng góp cho xã hội. Vì thế Nhà nước, cộng đồng, xã
hội cần quan tâm tạo cơ hội cho người khuyết tật nói chung và người khiếm
thị nói riêng được phát triển.
9
Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã có những biện pháp hữu

hiệu nhằm ngăn chặn khuyết tật, phục hồi chức năng cho người tàn tật, nhằm
đem lại sự bình đẳng và tạo cơ hội cho người tàn tật trong xã hội. Điều đó
được thể hiện bằng hệ thông các chính sách, các văn bản pháp luật cụ thể:
- Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
- Nghị định 55/ 1999/ NĐ – CP ngày 10/7/1999 của Chính phủ về quy
định tyhi hành một số điều của pháp lệnh người tàn tật
- Quyết định số 590/TTg ngày 04/12/1993 của Chính phủ về việc thành
lập hội cứu trợ trẻ em bị tàn tật.
- Quyết định số 81/CP ngày 23/11/1995 của Chính Phủ về việc quy định
và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật lao động về người tàn tật
- Thông tư liên bộ số 13/TTLB/LĐTBXH – GDDT ngày 17/6/1995 của
Bộ lao động TB%XH và Bộ GDĐT hướng dẫn triển khai thực hiện NĐ 26/CP
ngày 17/4/1995 của Chính phủ về việc giao nhiệm vụ dạy văn hoá cho trẻ em
bị tàn tật.
- Thông tư liên tịch số 13/TTLB/LĐTBXH – GDĐT ngày 17/6/1995
của Bộ Lao động TB$XH và Bộ GDĐT hướng dẫn triển khai thực hiện NĐ
26/CP ngày 17/4/1995 của Chính Phủ về việc giao nhiệm vụ dạy văn hoá cho
trê bị tàn tật.
- Nghị định 67/2007 – NĐ – CP ngày 13/4/2007 của Chính Phủ về
chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội
- Thông tư số 09/2007/ TT – BLĐTBXH ngày 13/7/2007. Hướng dẫn
một số điều của Nghị định số 67/2007 – NĐ – CP.
- Nghị định số 62/2009/NĐ – CP ngày 27/7/2009 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế
Ngoài ra còn một số các chương trình dự án trong và ngoài nước cũng
đã và đang đuợc thực hiện trên cả nước nhằm hỗ trợ cho người khuyết tật
trong việc học hành, tạo việc làm tăng thu nhập cải thiện đời sống và chăm sóc
sức khoẻ chỉnh hình.
10
Song nhìn chung số đối tượng được hưởng thụ còn ít nhất là từ các

chương trình dự án, mức trợ cấp còn thấp chủ yếu mới chỉ giải quyết được
việc xoá đói thực tế chưa giảm được nghèo nhất là trong điều kiện công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như hiện nay. Với nền kinh tế - xã hội phát
triển thì các chính sách đối với những người yếu thế, tàn tật càng phải được
quan tâm nghiên cứu sửa đổi bổ sung để đáp ứng với tình hình thực tế và nhu
cầu về chất lượng cuộc sống ngày càng cao của xã hội nói chung của người
khuyết tật nói riêng.
2. Phản ứng của xã hội đối với người khuyết tật
Vấn đề người khuyết tật ở nước ta hiện nay đã được Đảng ,Nhà nước và
toàn xã hội quan tâm với các chính sách, chương trình hỗ trợ, trợ giúp. Tuy
nhiên phản ứng của xã hội đối với người khuyết tật vẫn còn những hạn chế
nhất định như: thái độ kỳ thị, miệt thị, xa lánh…khiến cho người khuyết tật
mất dần niềm tin vào cuộc sống và gặp những khó khắn trong quá trình học
tập, lao động và hòa nhập cộng đồng.
Trước đây những người khuyết tật thường bị coi là sự trừng phạt của
thượng đế.
Thời Hy Lạp cổ đại, thời kỳ coi vẻ đẹp của con người là một cơ thể khỏe
mạnh, vì thế con người ra thường chú trọng tới vẻ đẹp của thể xác và hình
dáng đẹp được coi là biểu hiện của những điều kiện, những điều tốt lành, của
sự hợp nhất giữa linh hồn và thể xác. Do vậy những ai bị khuyết tật thì bị
người đời khinh bỉ, chế giễu, xa lánh.
Sau đó vài thế kỷ với những người La Mã cổ đại, Trung cổ thì người
khuyết tật bị coi là người thừa trong xã hội, là những người bị quỷ ám và vì
vậy họ bị đem đi giết. Nhưng đến thế kỷ XIX, vấn đề người khuyết tật đã được
xã hội quan tâm hơn, những người khuyết tật nhận được trợ cấp xã hội. Sự
quan tâm này được thể hiện thông qua đạo luật giành cho người nghèo của nữ
hoàng Anh Elizabeth(1609).
11
Từ thế kỷ XIX đến nay, tại nhiều nước trên thế giới, vấn đề người khuyết
tật không những được quan tâm hơn mà họ còn được coi trọng. Nhiều luật lệ

chính sách và chương trình giáo dục dạy nghề cho người khuyết tật ra đời. Tại
đây, dựa vào những khuyết tật của mình mà người khuyết tật được đào tạo một
nghề cho phù hợp với bản thân, ngoài đường còn có các lề đường giành riêng
cho những người khuyết tật để họ có thể đi lại được dễ dàng, ở các ga xe lửa,
thang máy còn được thiết kế sao cho người khuyết tật có thể lên xuống được
dễ dàng và điều quan trọng nhất là hiện nay đã có sự tham gia của cộng đồng
vào việc chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật tại các trung tâm.
Ở Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta cũng đã quan tâm tới những người bị
khuyết tật, ngoài các chính sách cho thương binh theo các cấp bậc nặng, nhẹ,
tiền trợ cấp hàng tháng, các cơ sở tập trung cho người già, người tàn tật, các
trường học giành cho trẻ mù, câm, điếc, trẻ chậm phát triển trí tuệ….Tuy
nhiên trên thực tế cách nhìn nhận của con người xã hội đối với những người
khuyết tật vẫn còn những mặt hạn chế nhất định.
Những người bị khuyết tật, cho dù là khuyết tật về thể chất hay khuyết tật
về trí tuệ thì về mặt tình cảm và xã hội cũng đều bị con người xã hội nhìn nhận
như nhau, có nghĩa là họ đều bị cô lập, bị gạt ra ngoài xã hội. Họ thường sợ
hãi, sợ bị mất tình thương. Nhiều người khác trong xã hội còn cho rằng người
bị khuyết tật chức năng này thường bị khuyết tật luôn những chức năng khác
cho nên họ quan niệm những người khuyết tật là bị thua kém những người
bình thường khác do đó cần phải thương hại họ.
Trong khi đó trong gia đình có người bị khuyết tật, nhiều cha mẹ, anh chị
em lại có những biểu hiện chán nản, u buồn, lo lắng, mệt mỏi thậm chí là xấu
hổ…khi trong gia đình mình có người bị khuyết tật, họ cảm thấy ngại ngùng
khi quan hệ với bạn bè, hàng xóm, với cộng đồng xung quanh. Nhiều người
còn cho rằng : những “ gia đình có người bị khuyết tật” là những “ gia đình vô
phúc”, là những gia đình kiếp trước ăn ở không có hậu nên bây giờ bị trừng
phạt.
12
Những điều trên đã làm cho người khuyết tật mặc cảm, thấy mình vụng
về, kém tự tin bởi họ là những người rất nhạy cảm, họ không thích những giao

tiếp giả tạo, không thích bị đối xử khác thường chỉ vì mình bị khuyết tật.
Xu hướng mới hiện tại với sự tham gia của cộng đồng xã hội vào việc
phục hồi cho người khuyết tật ngay tại địa phương là cách tiếp cận ít tốn kém
và có hiệu quả, lại phù hợp với truyền thống “ tương thân tương ái”, lá lành
đùm lá rách”, “ chị ngã em nâng” của người dân Việt Nam. Đây là cơ hội
không chỉ giúp cho người khuyết tật mà còn giúp cho cộng đồng, cho chính
bản thân gia đình những người bị khuyết tật nhận thức rõ hơn về người khuyết
tật trong gia đình, trong cộng đồng của mình để từ đó giữ vai trò chính yếu
trong việc đáp ứng nhu cầu cho người khuyết tật có cơ hội trở thành người hữu
ích và tìm được cuộc sống hạnh phúc giữa cộng đồng thân yêu.
Trước tiên để giúp người khuyết tật có được sự tự tin trong cuộc sống
hàng ngày và giúp con người xã hội xóa bỏ dần cách nhìn nhận lệch lạc về
người khuyết tật thì những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước là
điểu rất quan trọng. Phục hồi về mặt y học hay kỹ thuật giáo dục cho người
khuyết tật đòi hỏi phải có những phương tiện nhưng đó còn là điều làm được
và dễ làm, còn phục hồi về mặt xã hội mới là điều khó khăn và phức tạp. Nó
đòi hỏi một hệ thống kiến thức về tâm lý xã hội, giáo dục đặc biệt là một chính
sách xã hội có luật pháp bảo vệ, chăm sóc người khuyết tật cùng với một đội
ngũ nhân viên công tác xã hội có chuyên môn, kỹ năng và có quy chế rõ ràng.
Điều đó cho thấy vai trò vô cùng to lớn của Công tác xã hội đối với người
khuyết tật để giúp cho người khuyết tật có thể sống tự lực không phụ thuộc
vào ai, có cơ hội để học tập, lao động và nhất là có mối quan hệ với mọi người
một cách bình thường.
13
Chương 2: Tiến trình quản lý trường hợp với người khiếm thị
1. Trường hợp can thiệp
Gia đình chị Nguyễn Thị H gồm có 5 người, năm nay chị H 35 tuổi,
chồng chị là anh Nguyễn Văn T 38 tuổi, anh chị có 3 cô con gái, trong đó 2 cô
chị đang trong độ tuổi đi học, cô em út mới chỉ 5 tuổi. Cách đây 5 năm sau khi
sinh con gái út chị H trở lại công ty nơi chị làm việc để tiếp tục công việc thì

không may chị bị tai nạn lao động dẫn đến đôi mắt bị mù. Tai nạn này khiến
cho gia đình anh chị ngày càng khó khăn hơn, khi trước đây cuộc sống của cả
gia đình chỉ trông chờ vào đồng lương ít ỏi làm công nhân của chị H, anh T do
sức khỏe yếu nên chỉ ở nhà phụ giúp chị công việc nhà. Hiện tại nguồn thu
nhập chính của gia đình có được từ kinh doanh quán nước ven đường. Gia
đình anh chị không có nguồn thu nhập nào khác, trong khi phải nuôi các con
ăn học. Kinh tế gia đình thật sự khó khăn. Trong khi đó từ khi bị tai nạn dẫn
đến đôi mắt bị mù chị H thường xuyên bị chồng tỏ thái độ coi thường, khinh
bỉ, xem là đồ bỏ đi, không giúp ích gì được cho gia đình. Chị H rất đau khổ và
hụt hẫng trước thái độ cư xử của chồng, chị tỏ ra trầm tính, ít nói, tự ti về hoàn
cảnh khuyết tật của bản thân.
2. Tiến trình quản lý trường hợp
- Tiếp nhận thông tin, đánh giá sơ bộ
- Xác minh, đánh giá toàn diện
- Lập kế hoạch cụ thể
- Tổ chức thực hiện và triển khai kế hoạch
- Giám sát, đánh giá, kết thúc
3. Các bước tiến hành
3.1. Bước 1: Tiếp nhận thông tin, đánh giá sơ bộ về thân chủ
Thu thập thông tin về thân chủ:
Họ và tên: Nguyễn Thị H
Giới tính: Nữ
Tuổi: 35
14
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: không
Nghề nghiệp: buôn bán tự do (kinh doanh quán nước ven đường)
Tình trạng sức khỏe: đôi mắt bị mù
Những vấn đề về tâm lý: lầm lì, ít nói, trầm cảm
Thành phần gia đình:

stt Họ và tên Tuổi Quan hệ với đối tượng Nghề nghiệp
1 Nguyễn Văn T 38 Chồng Buôn bán tự do
2 Nguyễn Thị A 15 Con gái Học sinh
3 Nguyễn Thị H 11 Con gái Học sinh
4 Nguyễn Thị C 5 Con gái Còn nhỏ
=> Nhận xét: Gia đình chị H có 3 con gái. Là gia đình đông người nhưng thu
nhập thấp, chỉ trông chờ vào việc kinh doanh quán nước ven đường, hơn thế
do đôi mắt bị mù nên chị H không thể đảm đương được hết công việc nhà, anh
T không thông cảm cho vợ lại thường xuyên tỏ thái độ coi thường, mắng nhiếc
chị H. Vì gia đình nghèo nên các con không được tạo điều kiện học hành. Có
thể nhận thấy hoàn cảnh của chị H rất khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Do
cảm giác về việc bản thân là gánh nặng cho gia đình nên mới bị chồng ghét bỏ,
mắng chửi dẫn tới chị H có tâm lý trầm cảm, ít tiếp xúc, nói chuyện với ai, có
bán hàng thì cũng chỉ lầm lũi làm việc với sự giúp đỡ của các con.
Khi làm việc với chị H nhân viên xã hội cần nhận định và đánh giá về
tình trạng chung của chị. Tránh những thành kiến về những dị tật khi đối diện
với người khiếm thị, tạo điều kiện, cơ hội cho chị H được học tập, lao động và
phát triển.
Cần tìm hiểu và có những thông tin về bệnh tật của thân chủ, bày tỏ sự cảm
thông, chân thành mà không thương hại đối với thân chủ. Bởi họ là những
người trong cuộc sống, đối khi đã từng bị chế giễu, bị hắt hủi, bị bỏ rơi trong
gia đình và xã hội…nên họ rất nhạy cảm và vì vậy rất dè dặt khi tiếp xúc lần
đầu với người lạ.
Xác định điểm tích cực và hạn chế của thân chủ, gia đình thân chủ và
môi trường xung quanh
15
Chị H Chồng Con Làng xóm
Điểm mạnh
- Hiền lành,
chịu khó,

thương chồng
con.
- Được làng
xóm quý
mến.
- Chịu khó lao
động nhưng do
sức khỏe yếu
nên k làm được
nhiểu
- Thương con
- Ngoan ngoãn,
chăm chỉ, lễ
phép bố mẹ.
- Thương mẹ
rất nhiều.
- Học khá
- Bà con hàng
xóm rất quan
tâm đến nhau,
thường xuyên
giúp đỡ chị H.
- Thông cảm cho
hoàn cảnh của
chị và gia đình
Điểm yếu
- Đôi mắt bị

- Ít nói, sống
nội tâm.

- Xem mình
là gánh nặng
của gia đình.
- Nhận thức còn
hạn chế, thường
không làm chủ
được bản thân,
mắng chửi vợ.
- không có việc
làm ổn định.
- Tuổi còn nhỏ. - Không chủ
động can thiệp
vào chuyện của
chị H.
3.2. Bước 2: Xác minh, đánh giá toàn diện
Xác định vấn đề
Cây vấn đề:
16
Nhận xét cây vấn đề:
- Vấn đề ưu tiên thực hiện: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, chị H thường xuyên
bị chồng khinh bỉ, coi thường nên gặp vấn đề về tâm lý, tự ti về hoàn cảnh của
bản thân.
- Nguyên nhân vấn đề: do nhiều nguyên nhân nhưng
+ Trước hết là do tư tưởng của chị chưa đúng đắn. Chị luôn tự ti về việc
khuyết tật của bản thân, xem đó là gánh nặng cho gia đình.
+ Thứ hai là do các phương tiện truyền thông ở địa phương hoạt động kém
hiệu quả, không cung cấp được cho chị những thông tin cơ bản nhất về người
khuyết tật, quyền cũng như những nhu cầu, đặc điểm tâm, sinh lý của người
khuyết tật.
+ Nguyên nhân về kinh tế: Do hoàn cảnh gia đình chị H rất khó khăn, phải

nuôi các con ăn học, gia đình lại đông người nên chi phí sinh hoạt cần nhiều
hơn, trong khi thì nguồn thu nhập giảm sút, chỉ trông chờ vào việc kinh doanh
quán nước ven đường, có thể nói nguồn thu nhập rất bấp bênh. Do vậy gây nên
17
Hoàn cảnh gia đình khó khăn, thường
xuyên bị chồng khinh bỉ, coi thường
Tư tưởng của chị
không đúng đắn
Không nhận được sự
hỗ trợ
Phương tiện truyền
thông yếu, kém
Hi
sinh vì
chồng
con
Có tư
tưởng
tự ti về
h.cảnh
bản
thân
Chính
quyền
không
quan
tâm
Hội phụ
nữ hoạt
động

yếu
Gặp vấn đề về tâm lý
tâm lý chán chường, bất lực của anh T, từ đó dẫn tới hành vi chửi mắng, khinh
thường chị H. Chị H từ khi bị mù đôi mắt không thể đi làm công nhân để kiếm
tiền nuôi các con ăn học lại không nhận được sự quan tâm từ phía người
chồng, đã thế chị thường xuyên bị anh T mắng chửi, coi thường, nên dẫn tới
tâm lý tự ti, mặc cảm về bản thân, xem mình như gánh nặng của gia đình.
Biểu đồ sinh thái
Gia đình chị H có mối quan hệ tương tác với Hệ thống pháp luật, chính
sách xã hội nhưng chỉ là mối quan hệ tương tác thực hiện đầy đủ các quy định
của pháp luật nhưng chưa được sự quan tâm của 2 hệ thống này tới những vấn
18
Anh
T
Chị
H
A H
C
Hàng
xóm
Hội phụ
nữ
Hệ thống
pháp luật
Việc làm
Chính
sách
XH
Hội
nông

dân
đề của gia đình chị như: vấn đề hỗ trợ gia đình người khuyết tật có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn.
Gia đình chị H có mối quan hệ xa cách với chính quyền, các hội, đoàn
thể địa phương như: Hội nông dân, hội phụ nữ. Gia đình chị cũng chưa tìm
đến sự trợ giúp của các tổ chức này.
Bước 3: Lập kế hoạch can thiệp
“ Thương người như thể thương thân”, đạo lý truyền thống sâu sắc ấy của
dân tộc đã được thấm nhuần và in đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Trong
những năm qua, Đảng và Nhà Nước, nhân dân ta đã dành nhiều công sức giúp
đỡ, chăm sóc, chăm lo đời tinh thần cho người khiếm thị, họ là một bộ phận
chịu thiệt thòi nhất trong xã hội, để họ có thể có từng bước hoà nhập với cộng
đồng. Tuy nhiên vẫn cần sự quan tâm nhiều hơn nữa của toàn xã hội đến đời
sống vật chất, tinh thần cho người khiếm thị để họ bớt đi phần nào sự mặc
cảm, tự ti và vươn lên hoà nhập cộng đồng, xã hội. Đối với trường hợp của chị
H, để có thể hỗ trợ chị trong việc giải quyết các vấn đề theo thứ tự ưu tiên thì
trước tiên NV CTXH cần lập kế hoạch can thiệp cụ thể:
STT Mục tiêu theo
ưu tiên của
chị H
Nguồn lực
Lý thuyết,
kỹ năng sử
dụng
Thời gian Kết quả
mong đợi
Bên
trong
Bên ngoài
1 Gia đình chị H

được hỗ trợ
vốn để sản
xuất kinh
doanh
Chị H,
anh T
NVCTXH,
Hội phụ
nữ, chính
quyền địa
phương,
ngân hàng
chính sách
xã hội
Thuyết
hành vi, kỹ
năng
thuyết
phục, tư
vấn
2 tuần Anh T và
gia đình
được hỗ trợ
vay vốn,
phát triển
sxkd, ổn
định kinh
tế
2 Chị H được
đối xử bình

đẳng trong gia
đình và xã hội,
không còn bị
chồng mắng
chửi, coi
thường.
Chị H,
anh T,
hàng
xóm
NVCTXH,
Hội phụ
nữ, chính
quyền địa
phương
Thuyết
hành vi, kỹ
năng
thuyết
phục, kỹ
năng tham
vấn
4 tuần Chị H nhận
được sự
quan tâm,
chăm sóc,
yêu thương
từ chồng
19
3 Xóa bỏ tâm lý

mặc cảm, tự ti
của chị H,
giúp chị vui vẻ
trở lại.
Chị H NVCTXH,
Hội phụ
nữ
Kỹ năng
tạo lập mối
quan hệ, kỹ
năng
thuyết
phục
3 tuần Giúp chị
thay đổi
nhận thức,
giúp chị có
được niêm
tin trong
cuộc sống
4 Chị H, anh T
được cung cấp
thông tin về
chăm sóc
người khiếm
thị
Chị H,
anh T
NVCTXH,
hội phụ

nữ, chính
quyền địa
phương
Kỹ năng
thuyết
trình, tham
vấn, kỹ
năng chia
sẻ
3 tuần Chị H nhận
được sự
cảm thông,
quan tâm,
chăm sóc
từ a T và
các con
Bước 4: Tổ chức thực hiện và triển khai
STT Mục tiêu Hoạt động Người thực
hiện
Hình thức,
biện pháp
thực hiện
Kết quả
mong đợi
1 Gia đình chị
H được hỗ
trợ vốn để
sản xuất kinh
doanh, anh T
có việc làm

có thu nhập
ổn định
- Liên hệ với
các cơ sở cung
cấp nguồn vốn
để giúp gia
đình chị H
được vay vốn
SXKD.
-NV CTXH,
anh T, ngân
hàng chính
sách xã hội
địa phương
- Liên hệ, vận
động chính
quyền địa
phương, ngân
hàng chính
sách xã hội,
hội phụ nữ
cho vay vốn
gia đình chị
H được vay
vốn,
- Giúp a T
được hỗ trợ về
kỹ thuật trong
sản xuất
-NV CTXH,

anh T, hội
nông dân,
hội phụ nữ
- Liên hệ
chính quyền
địa phương,
hội nông dân
hỗ trợ kỹ
thuật, làm
mẫu
anh T được
hỗ trợ về kỹ
thuật trong
sản xuất
2 Chị H được
đối xử bình
đẳng trong
gia đình và
xã hội, không
còn bị chồng
mắng chửi,
coi thường.
- Giúp chị H
hiểu được
quyền được
đối xử công
bằng trong gia
đình và xã hội
- NVCTXH,
Hội phụ nữ,

chính quyền
địa phương,
gia đình anh
T
- Truyền
thông
tổ chức các
buổi tọa đàm
lồng ghép với
các buổi sinh
hoạt của hội
phụ nữ
Chị H được
đối xử bình
đẳng trong
gia đình,
20
Giúp chị H
và gia đình
nâng cao kiến
thức luật
người khuyết
tật, đặc điểm
tâm, sinh lý,
nhu cầu của
người khiếm
thị.
- Liên hệ cho
chị H cùng
sinh hoạt với

nhóm người
khuyết tật
-
NVCTXH,
Hội phụ nữ,
chính
quyền địa
phương, gia
đình anh T
- Truyền
thông
tổ chức các
buổi tọa đàm
lồng ghép
với các buổi
sinh hoạt của
hội phụ nữ,
hội nông
dân.
anh T cảm
thông với
hoàn cảnh
của vợ, yêu
thương,
quan tâm,
chăm sóc
vợ, không
còn thái độ
coi thường
vợ

3 Xóa bỏ tâm
lý mặc cảm,
tự ti của chị
H, giúp chị
vui vẻ trở
lại.
Cung cấp cho
chị H những
thông tin liên
quan tâm lý
của người
khiếm thị,
giúp chị thay
đổi nhận thức
rằng chị k
phải là người
thừa, người
bỏ đi trong
gia đình
- Liên hệ cho
chị H cùng
sinh hoạt với
nhóm người
khuyết tật
-
NVCTXH,
Hội phụ nữ,
chính
quyền địa
phương, gia

đình anh T
- Tham vấn,
cung cấp
thông tin cho
chị H
Giúp chị
thay đổi
nhận thức
rằng chị k
phải là
người thừa,
người bỏ đi
trong gia
đình, giúp
chị có được
niêm tin
trong cuộc
sống
4 Chị H, anh
T được cung
cấp thông
tin về chăm
sóc người
khiếm thị
- Giúp gia
đình chị H có
được những
hiểu biết cơ
bản đặc điểm,
nhu cầu của

người khiếm
thị, từ đó có
-
NVCTXH,
Hội phụ nữ,
chính
quyền địa
phương, gia
đình anh T
- Lồng ghép
trong buổi
sinh hoạt của
hội phụ nữ

- Tổ chức
buổi tọa
Chị H nhận
được sự
quan tâm,
yêu thương
từ phía gia
đình, làng
xóm.
21
cách chăm
sóc tốt nhất
cho chị H.
đàm, chia sẻ
thông tin về
người khiếm

thị
NVCTXH cần phải tìm hiều tâm trạng của người chị H giúp chị bày tỏ
nỗi niềm về mối lo âu, buồn bã, gây lòng tin tưởng và bày tỏ sự cảm thông với
những khó khăn mà chị trải qua. Giúp gia đình chị nhận đinh được những biến
chuyển và tiến trình của bản thân chị trong việc phục hồi chức năng, đặc biệt
cần nhận rõ được vai trò của các tổ chức, chính quyền địa phương trong việc
giúp đỡ, hỗ trợ gia đình và bản thân chị H
Cần phải xác định mục tiêu trong công tác xã hội với người khiếm thị, với
gia đình người khiếm thị để giúp chị H tăng thêm chức năng tự túc sinh hoạt
và giáo dục gia đình người khiếm thị đặc biệt là anh T về việc chăm nuôi,
phục hồi cho chính bản thân chị H, để a cảm thông, chia sẻ với những khó
khăn của vợ, xóa bỏ những suy nghĩ không tốt về người vợ khuyết tật của
mình. Bản thân nhân viên xã hội cần phải có những hoạt động bảo vệ, biện hộ
cho người khiếm thị. Bên cạnh đó còn phải tham gia đề xuất các chính sách
bảo vệ cho chị. Tìm các nguồn hỗ trợ tại cộng đồng để hỗ trợ cho chị H như
liên hệ với: trung tâm hội người khuyết tật địa phương và tạo lập được mạng
lưới các câu lạc bộ, hội người khuyết tật để giúp chị đạt đến sự cân bằng về
trạng thái trong xã hội.
Bước 5: Giám sát, đánh giá, kết thúc
Giám sát, đánh giá
Việc thực hiện việc trợ giúp chị H được thực hiện theo đúng kế hoạch
với sụ giúp đỡ của các nguồn lực bên trong và bên ngoài, chủ yếu là sự nỗ lực
học tập, thay đổi nhận thức từ phía thân chủ, xóa bỏ mặc cảm về hoàn cảnh
của bản thân, vươn lên sống có ích, được sự cảm thông, yêu thương từ chồng
và các con.
22
Với khoảng thời gian thực hành quản lý trường hợp với người khiếm thị
nhân viên công tác xã hội đã vận dụng được cơ bản những kiến thức của
chuyên ngành mình được học vào trong qúa trình thực hành giúp đỡ đối tượng.
Bước đầu đã thu được những kết quả khả quan đó là thân chủ của mình đã có

nhiều tiến bộ,có những kiến thức đúng đắn và cơ bản nhất luật người khuyết
tật, có sự nâng cao và thay đổi trong nhận thức về vấn đề hòa nhập với cuộc
sống, cộng đồng, không còn tâm lý tự ti, hoảng loạn. Tuy nhiên do kinh
nghiệm còn hạn chế nên trong quá trình làm việc chưa vận dụng được các lý
thuyết vào việc thực hành.
1- Về phía đối tượng
* Mặt đạt được:
- Gia đình được hỗ trợ vay vốn để sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc
sống
- Được cung cấp những thông tin cơ bản nhất về luật người khuyết tật.
- Thể hiện sự thay đổi nhận thức, k còn tâm lý tự ti về việc mình mang
tật.
* Mặt tồn tại:
- Trình độ còn hạn chế nên tiếp thu thông tin chưa nhanh nhạy.
2 - Về phía nhân viên xã hội
- Đã vận dụng được những kiến thức được học vào trong quá trình thực
hành trợ giúp đối tượng.
- Vận dụng có hiệu quả một số lý thuyết, kỹ năng trong CTXH vào quá
trình làm việc với thân chủ.
- Đã sử dụng các lý thuyết, kỹ năng trong CTXH trong quá trình làm
việc
Tuy nhiên còn có nhiều vội vã trong khi gặp một số đại diện của thân
chủ, sử dụng các kỹ năng chưa linh hoạt khi làm việc, còn rơi vào thế bị động,
lúng túng khi làm việc với đối tượng.
23
Kết thúc
Trong quá trình thực hiện các bước, NVCTXH luôn tiến hành đánh giá
sau mỗi buổi làm việc, quan sát các buổi tiếp xúc với thân chủ thấy bước đầu
đã thực hiện được các mục tiêu đặt ra ban đầu và nhận thấy sự chuyển biến
tích cực từ phía thân chủ. Sau khi kết thúc các bước kế hoạch trị liêu

NVCTXH đã tiến hành gặp gỡ thân chủ và một số đối tượng liên quan để tiến
hành lượng giá và nhận thấy thân chủ đã đạt được mục đích ban đầu đề ra đó
là thay đổi nhận thức, thái độ, suy nghĩ về hoàn cảnh bản thân, vươn lên sống
có ích cho gia đình và xã hội, bên cạnh đó thân chủ còn nhận được sự quan
tâm, yêu thương, chăm sóc từ phía gia đình, xã hội. Bên cạnh đó gia đình chị
H còn được hỗ trợ vay vốn để sản xuất và ổn định cuộc sống.
24
KẾT LUẬN
Có rất nhiều câu chuyện về những mảnh đời bất hạnh của những người
khiếm thị. Mỗi mảnh đời là một câu chuyện dài của nghị lực, của ý chí vượt
khó vươn lên, là nỗi khắc khoải và trái tim khát khao cuộc sống. Rất khó để
nhận thấy được một sự mặc cảm hay chán nản trên gương mặt của những
người khiếm thị. Trên gương mặt họ luôn toát lên sự kiên định và nghị lực
đáng khâm phục. Câu trả lời duy nhất mà khi trợ giúp thân chủ NVCTXH
nhận được khi hỏi về ước mơ, dự định của các họ là luôn là khát khao được đi
làm, được cống hiến để không trở thành gánh nặng cho gia đình. Với phương
châm “Khơi dậy tinh thần tự lực là chính, sau đó mới kêu gọi xã hội hoá”,
những năm qua Đảng và Nhà nước đã có những chương trình hỗ trợ thiết thực
cho người khiếm thị. Tuy nhiên hiện nay, số lượng người khiếm thị ở nước ta
là khá cao và trong tương lai con số này vẫn sẽ tiếp tục tăng lên bởi nhiều
nguyên nhân khác nhau như bệnh tật, tai nạn… Đây là một vấn đề lớn của xã
hội cần được quan tâm! Mỗi chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn về người
khuyết tật nói chung và người khiếm thị nói riêng, cần nhìn nhận đúng những
khả năng và giá trị của họ, khích lệ họ vượt lên khó khăn để sống tốt và đóng
góp những khả năng của mình cho xã hội. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề
riêng của cá nhân họ mà là vấn đề cần được cả gia đình, xã hội quan tâm, giúp
đỡ.
25

×