Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng công nghiệp và kinh tế công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 152 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu
Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



NGUYỄN THỊ THANH HÒA


GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP





LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC










Thái Nguyên, năm 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu
Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



NGUYỄN THỊ THANH HÒA


GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60140101

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nông Khánh Bằng


Thái Nguyên, năm 2013
Số hóa bởi trung tâm học liệu

i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thầy
TS. Nông Khánh Bằng. Các kết quả và số liệu đảm bảo tính khách quan, trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thanh Hòa


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nông Khánh Bằng, người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Tâm lý - Giáo dục và Phòng Sau đại
học Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các giảng viên và các em sinh viên
trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ
trong suốt quá trình khảo sát, thực nghiệm và khảo nghiệm.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn
động viên, khích lệ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 03 năm 2013
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thanh Hòa
Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các biểu đồ viii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
SINH VIÊN 5
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 5
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài 5
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước 6
1.2. Một số khái niệm công cụ 7
1.2.1. Pháp luật 7
1.2.2. Giáo dục pháp luật 8
1.2.3. Biện pháp giáo dục pháp luật 11
1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật 12
1.4. Quá trình giáo dục pháp luật cho sinh viên 13
1.4.1. Chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật 13
1.4.2. Mục đích của giáo dục pháp luật 16
1.4.3. Nội dung giáo dục PL 17

1.4.4. Phương pháp giáo dục pháp luật 19
1.4.5. Hình thức giáo dục pháp luật 21
1.4.6. Một số yêu cầu có tính nguyên tắc trong GDPL cho SV 23
1.4.7. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình GDPL 25
1.5. Kết luận chương 1 27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN 29
TRƢỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP 29
2.1. Khái quát về trường CĐCN & KTCN 29
Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv
2.2. Một số vấn đề chung 29
2.2.1. Mục đích khảo sát 29
2.2.2. Đối tượng khảo sát 29
2.2.3. Nội dung khảo sát 30
2.2.4. Phương pháp khảo sát 30
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN 30
2.3.1. Chương trình GDPL trường CĐCN & KTCN 30
2.3.2. Các điều kiện đảm bảo chương trình GDPL ở trường CĐCN & KTCN 32
2.3.3. Khảo sát nhận thức và nhu cầu hiểu biết pháp luật của sinh viên 33
2.3.4. Khảo sát hành vi vi phạm PL của SV trường CĐCN & KTCN 37
2.3.5. Các nội dung GDPL của trường CĐCN & KTCN 42
2.3.6. Hiệu quả của công tác GDPL trường CĐCN & KTCN 45
2.3.7. Thực trạng triển khai các biện pháp GDPL trường CĐCN & KTCN 48
2.3.8. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình GDPL trường CĐCN & KTCN 53
2.3.9. Một số tồn tại, hạn chế của công tác GDPL trường CĐCN & KTCN 55
2.4. Kết luận chương 2 57
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP 58
3.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp giáo dục pháp luật cho SV 58

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, tính liên tục 58
3.1.2 Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích 58
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn 59
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo thực hiện mục tiêu của giáo dục CĐ, ĐH 59
3.1.5. Nguyên tắc giáo dục pháp luật phải là một bộ phận của quá trình giáo dục
đào tạo trong nhà trường 60
3.1.6. Nguyên tắc giáo dục pháp luật đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục 60
3.2. Một số biện pháp GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN 61
3.2.1. Tích hợp NDGDPL thông qua dạy học các môn học có ưu thế 61
3.2.2. Đổi mới phương pháp GDPL 64
3.2.3. Đa dạng hoá các hình thức giáo dục pháp luật cho SV 65
Số hóa bởi trung tâm học liệu

v
3.2.4. Phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để nâng cao hiệu quả của GDPL 68
3.2.5. Nâng cao nhận thức cho các lực lượng GDPL 70
3.2.6. Xây dựng và hoàn thiện các điều kiện đảm bảo chất lượng GDPL 72
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp 74
3.4. Đánh giá tính hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp 74
3.4.1. Tổ chức thực nghiệm sư phạm 74
3.4.2. Tổ chức khảo nghiệm 80
3.5. Kết luận chương 3 83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC



















Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
Viết đầy đủ
11
1
Cán bộ giảng viên
CBGV
2
Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công
nghiệp
CĐCN & KTCN
3
Công tác học sinh sinh viên

CTHSSV
4
Đại học, Cao đẳng
ĐH, CĐ
5
Đường lối cách mạng Đảng
ĐLCMĐ
6
Giáo dục Đào tạo
GDĐT
7
Giáo dục pháp luật
GDPL
8
Giảng viên
GV
9
Học sinh, sinh viên
HS, SV
10
Ký túc xá
KTX
11
Nội dung giáo dục pháp luật
NDGDPL
12
Pháp luật
PL
13
Pháp luật đại cương

PLĐC
14
Quyết định

15
Thông tư
TT
16
Tư tưởng Hồ Chí Minh
TTHCM
17
Vi phạm pháp luật
VPPL
18
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
Số hóa bởi trung tâm học liệu

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Nhận thức của SV về mục đích của công tác GDPL 33
Bảng 2.2. Nhận thức của SV về vị trí, vai trò của công tác GDPL 34
Bảng 2.3: Nhận thức của SV về một số văn bản pháp luật 37
Bảng 2.4: Số liệu SV vi phạm kỷ luật năm học 2011-2012 trường CĐCN & KTCN 38
Bảng 2.5: Hiệu quả của hình thức tích hợp lồng ghép GDPL 48
Bảng 2.6: Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình tới quá trình GDPL 53
Bảng 3.1: Ý kiến của CBGV về tính cần thiết của các biện pháp 81
Bảng 3.2: Đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp 83


Số hóa bởi trung tâm học liệu

viii
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Nhu cầu hiểu biết của SV đối với một số ngành luật 36
Biểu đồ 2.2: Nhận thức của SV về các hành vi vi phạm kỷ luật 39
Biểu đồ 2.3: Các hành vi vi phạm kỷ luật của sinh viên 40
Biểu đồ 2.4: Đánh giá của SV về mức độ triển khai các NDGDPL 42
Biểu đồ 2.5: Đánh giá của GV về mức độ triển khai các NDGDPL 44
Biểu đồ 2.6: Đánh giá của SV về hiệu quả của công tác GDPL 45
Biểu đồ 2.7: Đánh giá của GV về hiệu quả công tác GDPL 46
Biểu đồ 2.8: Các phương pháp GDPL 49
Biểu đồ 2.9: Hình thức GDPL 50
Biểu đồ 2.10: Những biện pháp nâng cao chất lượng GDPL 51
Biểu đồ 2.11: Sự kết hợp các lực lượng GD trong quá trình GDPL 52
Biểu đồ 2.12: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới quá trình GDPL 54
Biểu đồ 3.1: Nhận thức của SV về hành vi vi phạm kỷ luật nhà trường
trước khi thực nghiệm 76
Biểu đồ 3.2: Nhận thức của SV về hành vi vi phạm kỷ luật nhà trường
sau khi thực nghiệm 77
Biểu đồ 3.3: Tính khả thi của các biện pháp 82
Số hóa bởi trung tâm học liệu

1


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nhân loại đang đứng trước những vấn đề phức tạp cần phải giải
quyết như: Xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề vũ khí hạt nhân, vấn đề hiểm họa thiên
tai do sự tàn phá môi trường, nạn suy thoái đạo đức, vấn đề bùng nổ dân số và những
vấn đề khác trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Để giải quyết các vấn đề đó, cộng đồng
quốc tế phải tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ và sử dụng nhiều công cụ, phương
tiện khác nhau. Một trong số những công cụ đó chính là PL. Tuy nhiên PL không
phải là phương tiện duy nhất để điều chỉnh hành vi của con người, quản lý xã hội mà
còn có các quy phạm xã hội khác như quy phạm đạo đức, phong tục, luật tục… cùng
hỗ trợ bổ sung cho nhau, trong đó quy phạm PL và quy phạm đạo đức giữ vị trí trung
tâm. Vì vậy, việc trang bị những kiến thức PL cho thế hệ trẻ là một trong những điều
kiện cơ bản nhất để bảo đảm cho nước ta không chỉ phát triển bền vững mà còn thực
hiện có hiệu quả quá trình hội nhập quốc tế.
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh
đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đã đưa đất nước vượt qua
được thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết một
cách có hiệu quả những vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội. Nhưng một thực tế đáng
buồn là cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, đời sống ngày càng được nâng
cao, thì tình trạng VPPL ngày càng tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng.
Trong đó, một số lượng không nhỏ các vụ VPPL do SV gây ra.
GDPL trong các nhà trường có vị trí đặc biệt quan trọng trong các hình thức,
con đường GDPL nói chung, có ý nghĩa chiến lược trong việc hình thành một cách
vững chắc thế hệ công dân đáp ứng các yêu cầu của xã hội tương lai. Do đó Đảng và
chính phủ đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị trong đó khẳng định một hình thức, biện
pháp cơ bản, chiến lược và hữu hiệu để xây dựng và nâng cao ý thức PL của nhân
dân là “đưa việc GDPL vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến ĐH, trung
học chuyên nghiệp và các trường của các đoàn thể nhân dân” [10]. Để làm được điều
đó thì một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là làm cho SV dần hình
thành được một cách tự giác những hành vi ứng xử theo những chuẩn mực nhất định
Số hóa bởi trung tâm học liệu


2
trong đó có chuẩn mực PL. Vì vậy hiểu biết PL là một bộ phận quan trọng không thể
thiếu được của học vấn phổ thông đến ĐH và GDPL cho HS, SV hiện nay là một nhu
cầu bức thiết nhìn dưới góc độ đối tượng giáo dục.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an về trật tự an
toàn xã hội trong vòng 5 năm trở lại đây tình trạng VPPL của HSSV đang có chiều
hướng gia tăng về số vụ và mức độ nghiêm trọng, với trên 47.000 vụ. Sáu tháng đầu
năm 2009, trên cả nước xảy ra 25.508 vụ vi phạm PL hình sự trong đó tỷ lệ HSSV vi
phạm là 3.6%. Những hành vi VPPL được đăng trên mặt báo chỉ là tảng băng nổi,
thực tế còn nhiều hơn nữa. Các hành vi VPPL và tội phạm của HSSV nổi lên gần đây
có nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng như: Giết bạn cùng lớp, cùng trường; giết
người cướp tài sản; hiếp dâm; ma túy…ngoài ra còn gây rối trật tự công cộng, vi
phạm về trật tự an toàn giao thông.
Về tình hình vi phạm kỷ luật trong nhà trường, theo thống kê của các trường
ĐH, CĐ trong thời gian gần đây tỷ lệ HSSV vi phạm kỷ luật ngày càng nhiều như:
Tình trạng bỏ giờ, bỏ học thường xuyên, tình trạng quay cóp bài trong giờ kiểm tra,
tình trạng thi hộ, học hộ, say rượu bia khi đến lớp, trộm cắp tài sản của nhà trường,
lôi kéo bạn sử dụng ma túy, tổ chức đánh nhau gây thương tích….Bên cạnh đó tình
trạng vi phạm về trật tự an toàn xã hội cũng gây nên những bức xúc trong dư luận.
Theo số liệu thống kê trong năm học 2011-2012 của trường CĐCN & KTCN
số SV VPPL chủ yếu là vi phạm kỷ luật tăng cả nhanh về số lượng như: Bỏ giờ, đi
học muộn, sử dụng tài liệu khi làm bài kiểm tra, nói chuyện trong giờ học, thi hộ, học
hộ, say rượu bia khi đến lớp… ngoài ra còn có một số SV thường xuyên tụ tập gây
rối trật tự công cộng, đánh nhau.
, môi , môi tr
thì m
GDPL cho SV
th PL
. Bởi vậy công tác GDPL nhằm nâng

cao ý thức PL cho mọi đối tượng trong xã hội, đặc biệt với đối tượng SV là những
vấn đề thiết yếu.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện tình hình GDPL của nhà trường
nhằm đưa ra những giải pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng VPPL trong SV có ý nghĩa
về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện,
để SV trở thành những người lao động có trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo để
sống trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với xu thế hội nhập quốc tế, môi
trường toàn cầu hóa mà không đánh mất bản sắc và truyền thống của dân tộc. Xuất phát
từ những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài: “Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường
Cao đẳng Công nghệ và kinh tế Công nghiệp” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích đề xuất một số biện pháp GDPL phù hợp
góp phần nâng cao ý thức PL và chất lượng GDĐT của nhà trường.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục trong trường CĐCN & KTCN.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN.
4. Giả thuyết khoa học
GDPL có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách cho SV. Chất lượng của quá trình giáo dục, đào tạo của nhà trường sẽ
được nâng cao nếu đề xuất được một số biện pháp GDPL phù hợp với thực tiễn, đảm
bảo tính khoa học và tính giáo dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề GDPL cho SV.
5.2. Khảo sát thực trạng GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN.
5.4. Tổ chức thực nghiệm và khảo nghiệm để đánh giá tính hiệu quả và tính khả
thi của các biện pháp đề xuất.

6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Nội dung
Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số biện pháp GDPL
của nhà trường bao gồm chương trình GDPL và các biện pháp giáo dục SV thực hiện
nội quy, quy chế đào tạo trong trường CĐCN & KTCN.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
6.2. Khách thể điều tra
Chúng tôi tiến hành khảo sát lấy ý kiến trên 195 sinh viên và 60 CBGV trường
CĐCN & KTCN.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Đọc và phân tích, tổng hợp hóa, khái quát hóa các tài liệu lý thuyết liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra bằng anket.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp thống kê toán học.
8. Cấu trúc của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục pháp luật cho SV.
- Chương 2: Thực trạng GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN.
- Chương 3: Một số biện pháp GDPL cho SV trường CĐCN & KTCN.
Ngoài ra luận văn còn có phần mở đầu, phụ lục, kết luận, kiến nghị.

Số hóa bởi trung tâm học liệu


5

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Hiện nay GDPL được xem là một nội dung có tầm quan trọng đặc biệt vì thế
hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc giáo dục đạo đức, nhân cách
và ý thức PL cho SV. Tại nhiều nước đã rất chú trọng đưa chương trình GDPL vào
trường học bằng nhiều nội dung và hình thức phong phú, phù hợp với môi trường
giáo dục của từng quốc gia. Có thể dẫn ra những mô hình giáo dục của một số nước
sau đây:
- Giáo dục đạo đức cho HS tiểu học ở Macao.
- Ở Braxin, chương trình GDPL tập trung vào vấn đề giáo dục nghĩa vụ đóng
thuế của công dân. Giáo dục cho SV hiểu - hành động nghĩa vụ với quốc gia.
- Ở Italia, nhà trường đưa chương trình anh hùng chống tham nhũng vào giáo
dục với đề tài Anh hùng hàng ngày.
- Tại Hoa Kỳ, giáo dục đạo đức trong nhà trường, một chương trình kiểu mới
đã có những kết quả tốt trong việc giáo dục nhận thức, lối sống, đạo đức và ý thức
tuân thủ pháp luật cho SV ở Mỹ.
- Ở Achentina tuy là một quốc gia phát triển nhưng vẫn còn tình trạng thiếu
dân chủ, độc đoán trong bộ máy chính quyền. Để giải quyết điều này, nhà trường
Achentina đặt ra kế hoạch hướng dẫn khuyến khích SV tham gia những cuộc đối
thoại với người làm chính sách để phát triển và cải cách hành chính xã hội.
Như vậy, nghiên cứu các tài liệu ngoài nước liên quan đến vấn đề GDPL có
thể nhận thấy: NDGDPL của các nước dành cho SV rất phong phú. Thời gian trong
phạm vi giáo dục nhà trường dành cho nhiệm vụ này rất đáng kể, chưa tính đến các

hoạt động của các lực lượng khác như: Cơ quan PL, nhà thờ, cộng đồng…tham gia
GDPL cho SV. Phương thức giáo dục rất hiệu quả, huy động mọi nguồn lực và sáng
tạo nhiều mô hình giáo dục thông minh và coi trọng năng lực thực hành cho SV.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc
GDPL là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan tâm. Trong thời gian
gần đây, ở Việt nam đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu lớn trong nước đề cập
đến vấn đề GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường nói riêng như đề tài: Ý thức
pháp luật và GDPL ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Đình Lộc (1977); Về tâm lý xã
hội đối với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và
việc tổ chức phòng ngừa các tội phạm đó của tác giả Đào Trí Úc (1989); Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới (đề tài
khoa học cấp Bộ năm 1994 của Bộ Tư pháp); Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục
có hiệu quả trong một số dân tộc ít người (đề tài khoa học cấp Bộ năm 1995 của
Bộ Tư pháp); Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật của Đào Trí Úc (đề tài KX
- 07 - 17); Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN của tác
giả Trần Ngọc Đường (1988).
Bên cạnh đó, có đề tài đề cập sâu đến việc GDPL trong trường học như: Tác
giả Lê Quý Đình: Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông ở nước ta hiện nay
(1991); Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật (Hà Nội, 1995) tác giả Đào Trí
Úc; Luận văn thạc sĩ: “Thực trạng và một số biện pháp ngăn ngừa giáo dục trẻ em
phạm pháp ở huyện Long Thành - tỉnh Đồng Nai” của tác giả Lê Minh Hoàng; Sổ tay
hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật (Hà Nội, 2002); Luận văn thạc sĩ
“Nghiên cứu một số hình thức giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường Đại học ở
Hà Nội”.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập đến những khía cạnh lý luận và
thực tiễn của vấn đề GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường nói riêng. Tuy

nhiên, cho đến nay việc tiếp tục nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về cơ sở lý
luận, bản chất, đặc trưng, nội dung, hình thức GDPL, nhất là việc khái quát thực tiễn
GDPL trong tình hình mới, để từ đó có sự đổi mới, hoàn thiện công tác GDPL trong
trường CĐ cho phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước vẫn là một
việc làm cần thiết.
Gần đây nhiều đề tài mới đã ra đời bàn về đạo đức SV, thực trạng phạm tội
của HSSV, biện pháp giáo dục lối sống SV như: Báo cáo khoa học tổng kết đề tài
Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
của tác giả Phùng Khắc Bình về Nghiên cứu phân loại đạo đức sinh viên - thực trạng
và tiêu chí đánh giá (Hà Nội, 2000); Vương Thanh Hương (Viện Nghiên cứu và Phát
triển giáo dục) và Nguyễn Minh Đức (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) với đề tài
“Thực trạng phạm tội của học sinh - sinh viên Việt Nam trong mấy năm gần đây và
vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường”(Hà Nội, 1995); Tác giả Mạc Văn
Trang trong đề tài “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng,
biện pháp giáo dục lối sống sinh viên”.
Như vậy, ở trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề GDPL,
một số công trình đã đi sâu nghiên cứu một số lĩnh vực nội dung và phương thức
GDPL, song chưa có công trình nào tập trung đi sâu tìm hiểu một cách có hệ
thống về cơ sở lý luận, về thực tiễn giáo dục và các biện pháp tổ chức GDPL cho
SV các trường CĐ nói chung và trường CĐCN & KTCN nói riêng trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Pháp luật
Khái niệm PL có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Theo Khổng Tử: PL theo ông chỉ là luật hình mà chủ yếu là hình phạt, được
đặt ra và áp dụng cho những người không hiểu và không theo được lễ, theo tinh thần
“lễ nghi không tới thứ dân, hình phạt không tới trượng phu” [13].
- Hàn Phi Tử- đại diện cho Phái pháp gia lại cho rằng: “Pháp là hiến lệnh

công bố ở các nước công sở, thưởng hay phạt dân tin chắc là thi hành, thưởng người
cẩn thận hay giữ PL, phạt kẻ phạm pháp như vậy bề tôi sẽ theo pháp” [13].
- Montesquieu thì cho rằng: “Luật, theo nghĩa rộng nhất, là những quan hệ tất
yếu từ trong bản chất của sự vật. Với nghĩa này thì mọi vật đều có luật của nó. Thế
giới thần linh, thế giới vật chất, những trí tuệ siêu việt, cho đến các loài vật, và loài
người đều có luật của mình [59].
- Theo từ điển luật học:
1. Nghĩa rộng: PL là những quy định do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đặt ra để hướng dẫn cách xử sự bắt buộc mọi người, mọi tập thể, tổ chức và là căn cứ
để xử lý những xử sự không đúng với các quy định ấy.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
2. Nghĩa hẹp: PL là những quy phạm do Quốc hội ban hành theo hình thức
hiến pháp, luật (đạo luật, bộ luật), nghị quyết và do Ủy ban thường vụ quốc hội ban
hành dưới hình thức pháp lệnh, nghị quyết. Những quy định của các cơ quan khác
gọi là pháp quy [46].
- Theo từ điển tiếng Việt: “PL là tổng hợp các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế” [44].
- Theo sổ tay pháp lý thông dụng: PL là tổng hợp các quy tắc xử sự thể hiện ý
chí của nhà nước có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra, hoặc thừa nhận được
nhà nước đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế [35].
Như vậy, khái niệm PL đã được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng ở
Việt Nam hiện tại khá phổ biến theo quan niệm trên cơ sở của chủ nghĩa Mác- Lênin
và từ góc độ bản chất của nó. Theo quan niệm này thì: PL là hệ thống các quy tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo
thực hiện thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội [13].
1.2.2. Giáo dục pháp luật
Để tiếp cận với khái niệm GDPL, trước hết các nhà khoa học xuất phát từ khái

niệm giáo dục. Theo quan niệm của khoa học sư phạm:
- Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được
tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ
giữa người giáo dục với người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh kinh
nghiệm của xã hội loài người.
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là một phận của quá trình sư phạm, quá trình giáo
dục theo nghĩa rộng - Là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm,
thái độ, những nét tính cách của nhân cách XHCN, những hành vi và thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội [31]
Xuất phát từ khái niệm giáo dục có thể thấy GDPL là hình thức giáo dục cụ
thể, là “cái riêng”, “cái đặc thù” trong mối quan hệ với giáo dục nói chung. GDPL
với tư cách là một bộ phận trong hệ thống giáo dục vừa mang những nét của giáo
dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung vừa có những nét
Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
đặc thù. Những nét riêng đó được thể hiện ở mục đích giáo dục là hình thành tri thức
(mục đích nhận thức), hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật (mục đích cảm
xúc) và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp (mục đích hành vi).
Khi PL ra đời thì đồng thời cũng phát sinh nhu cầu về GDPL, GDPL có
những nét đặt thù so với hoạt động truyên truyền, phổ biến PL ở các điểm sau:
- Một là, GDPL có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt động nhằm hình
thành tri thức, tình cảm và thói quen của sự phù hợp với quy định của PL, làm cho
công dân tự giác tuân thủ PL, có ý thức PL cao, góp phần tăng cường hiệu quả của PL.
Mục đích này được xác định trong những tiêu chuẩn của giáo dục nhà trường.
- Hai là, GDPL có nội dung riêng. Đó là sự tác động có định hướng với nội
dung cơ bản là chuyển tải tri thức về Nhà nước và PL mà trong đó, thực hiện PL của
Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng nhất. Những nội dung này có giá trị pháp lí
cao hơn và gắn liền với môn học.
- Ba là, xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương

pháp thì GDPL ở trường CĐ cũng có nét riêng. Chẳng hạn, so với các hình thức giáo
dục khác thì ở trường CĐ, GDPL là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu
dài, không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế,
GDPL trở thành hoạt động thường xuyên trong các gia đình, trường học, các tập thể
lao động, tổ chức Đảng, Nhà nước và Đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành
vi và hành động hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa
người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng).
Như vậy, có thể nói: Bản chất của GDPL là hoạt động định hướng có tổ chức,
có chủ định của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp khác nhau
tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục
đích hình thành ở họ tri thức PL, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các
quy định PL hiện hành. Vì vậy, GDPL không đơn thuần là sự tác động đơn giản, nhất
thời mà là một loại hoạt động có tổ chức với cấu trúc đồng bộ của nó bao gồm chủ
thể, khách thể, đối tượng, nguyên tắc, mục đích và cách thức triển khai trong điều
kiện hoàn cảnh cụ thể. GDPL là một hoạt động giáo dục vừa có tính chất khoa học
(với tư cách là một nội dung khoa học), vừa có tính chất xã hội - nhân văn (với tư
cách là một hoạt động gắn bó và gần gũi với cuộc sống của chủ thể). Do đó, đòi hỏi
Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
cách tiến hành giáo dục vừa thận trọng, tôn trọng các quy luật khách quan của hoạt động
giáo dục, vừa đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của các thành phần tham gia, trong đó bản
thân người học là yếu tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Qua nghiên cứu các nguồn tài liệu trong nước về quan niệm: “GDPL” chưa có
một cách hiểu hay quan điểm nhất quán nên đã gây ra khó khăn trong nhận thức cũng
việc như triển khai chương trình, hình thức, biện pháp GDPL.
Từ kết quả tổng thuật các tài liệu, có thể nêu lên các quan điểm sau đây:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: GDPL không phải là một bộ phận độc lập
trong hệ thống giáo dục ở trường phổ thông. Nó là một nội dung, một bộ phận giáo
dục chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức. Một khi giáo dục chính trị, tư tưởng và

giáo dục đạo đức được tiến hành tốt thì ý thức tôn trọng PL ở mỗi người dân sẽ được
nâng lên. Quan niệm này về thực chất là coi trọng ý thức chính trị, ý thức đạo đức
của người công dân bao trùm toàn bộ vấn đề, có thể “thế chỗ” cho một hình thái ý
thức xã hội khác cần thiết khách quan trong đời sống xã hội của cá nhân, đó là ý
thức, là hiểu biết, thái độ đối với PL.
- Quan điểm thứ hai đã đồng nhất GDPL với việc tuyên truyền phổ biến giải
thích PL, đó là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách, các phương tiện thông tin
đại chúng và cả bộ máy tuyên truyền. Quan điểm này tách rời nhiệm vụ giáo dục,
tuyên truyền PL giữa các cơ quan chức năng. Chức năng tuyên truyền và định hướng
xã hội rất quan trọng nhưng không thể thay thế được giáo dục. Giá trị của truyên
truyền, của giáo dục là to lớn nhưng không thể thay thế được các biện pháp xử lí của
các cơ quan hành pháp.
- Quan điểm thứ ba ngược lại quan điểm nêu trên khi cho rằng GDPL đồng
nghĩa với dạy và học PL ở các nhà trường. Còn việc tuyên truyền, phổ biến về PL ở
ngoài xã hội thì không phải là GDPL. Quan điểm này nhìn GDPL ở một phạm vi rất
hẹp trong nhà trường, chưa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa nhà trường với xã hội
và làm giảm tính phong phú đa dạng của hoạt động GDPL trong nhà trường.
- Quan điểm thứ tư cho rằng không có khái niệm GDPL. Bởi PL là những quy
tắc xử sự có tính bắt buộc chung, mỗi người phải có nghĩa vụ tuân thủ. Do đó không
cần đặt vấn đề GDPL mà chỉ cần phổ biến PL để mỗi người tự tìm hiểu mà có cách
xử sự cho đúng. Quan điểm này một mặt xuất phát từ chỗ cho rằng bản thân PL của
Số hóa bởi trung tâm học liệu

11
nhà nước ta đã có vai trò giáo dục. Vai trò này có giá trị tư tưởng lớn và nó sẽ tác
động, ảnh hưởng đến nhận thức ý thức của con người. Mặt khác, đánh giá thấp vai
trò của ý thức PL, tình cảm đối với PL của người dân trong việc tiến hành hành vi
hợp pháp mà PL quy định.
Có thể nhận định rằng, những quan niệm được nêu trên đây còn phiến diện,
giản đơn, một chiều, chưa thấy hết đặc thù của sự tác động hoặc giá trị xã hội của

PL. Vì vậy, các quan niệm ấy đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò và giá trị xã hội
của PL. Thực ra, mỗi quan niệm trên đây chỉ mới nhìn thấy GDPL ở một khía cạnh
nào đó, chưa thấy đầy đủ vai trò giáo dục chung của PL đối với nhận thức và hành vi
xã hội của cá nhân.
Qua đây chúng ta có thể hiểu: GDPL là một nội dung của hoạt động sống của
con người trong quá trình phát triển. Do vậy, việc hình thành văn hóa PL cho thế hệ
trẻ phải được xác định là nhu cầu tất yếu của cá nhân, là điều kiện bắt buộc của xã
hội đối với cá thể khi con người gia nhập vào chỉnh thể xã hội. Theo đó, GDPL là
một phạm trù rộng lớn, là nhiệm vụ của toàn xã hội, gia đình và nhà trường, trong đó
vai trò định hướng dẫn dắt bởi các nội dung và hình thức giáo dục trong nhà trường
có tầm quan trọng đặc biệt. Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu chúng tôi cho rằng:
GDPL là hoạt động có tổ chức, có mục đích có tính định hướng tác động lên các đối
tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức PL, tình cảm, niềm tin đối với PL
và hành vi xử sự phù hợp với PL hiện hành.
1.2.3. Biện pháp giáo dục pháp luật
Khái niệm biện pháp GDPL, theo từ điển tiếng Việt thì: “Biện pháp là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [44]. Trong giáo dục học, biện pháp giáo
dục là yếu tố hợp thành của phương pháp giáo dục, phụ thuộc vào phương pháp giáo
dục. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, phương pháp và biện pháp có thể chuyển hóa
cho nhau. Ở đây, các biện pháp GDPL bao hàm hai tầng bậc: Biện pháp lớn là cách
giải quyết vấn đề có tính khái quát (cách tổ chức hoạt động GDPL có tính vi mô),
loại biện pháp nhỏ nằm trong biện pháp lớn là những cách giải quyết, cách làm cụ
thể (triển khai công tác GDPL thông qua các phương pháp, cách thức cụ thể). Như
vậy, khi đề cập đến biện pháp giáo dục là nói đến cách giải quyết một vấn đề giáo
dục cụ thể, một tình huống giáo dục cụ thể.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
Như vậy, biện pháp GDPL là những cách thức cụ thể mà các lực lượng giáo
dục sử dụng để tác động đến đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở đối tượng được

giáo dục ý thức, thái độ, hành vi PL đúng đắn, tạo ra nếp sống, thói quen - hành vi chấp
hành PL từ những yêu cầu cụ thể đến những nội dung các luật trong một thể chế, đích
cuối cùng là hình thành một nhân cách có văn hoá PL trong xã hội văn minh.
1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật
Vai trò của GDPL bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của PL. Nếu như
PL là phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội và là phương tiện để công
dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì GDPL giúp cho các cơ quan nhà
nước và công dân biết sử dụng phương tiện đó trong công việc và đời sống hàng
ngày. Đây là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên
đối tượng giáo dục. Với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau GDPL giữ vai trò
rất to lớn:
Thứ nhất, GDPL tác động vào ý thức đối tượng, góp phần hình thành và nâng
cao ý thức PL của công dân. Ý thức PL của một cá nhân thể hiện mối quan hệ của
con người đối với PL, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp
trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước và các tổ chức xã hội. GDPL là một trong những biện pháp có vai trò
quan trọng tác động đến đối tượng GDPL góp phần hình thành và nâng cao ý thức
PL của cá nhân nói riêng và của xã hội nói chung. Trước hết, GDPL tác động đến ý
thức của đối tượng hình thành chu trình: Không để ý đến PL - để ý - biết - hiểu -
chấp hành - thực hiện. Từ chỗ người được GDPL không có ý thức về sự tồn tại của
PL đến việc bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với PL rồi từ sự quan tâm đến
PL là sự tiếp cận, tìm hiểu và hành động, nhờ đó không chỉ nâng cao về hiểu biết PL
mà còn định hướng hành vi xử sự đúng yêu cầu và quy định của PL nâng cao ý thức
PL. Giáo sư, tiến sĩ Đào Trí Úc khẳng định: "Sự hiểu biết PL của nhân dân là yếu tố
đầu tiên để hình thành ý thức PL. PL trải qua nhiều hình thức khác nhau mới đến
được với người dân và trở thành sự hiểu biết về PL, ý thức PL" [52].
Thứ hai, GDPL luật góp phần hình thành niềm tin của đối tượng GDPL. Rõ
ràng, việc PL được thực thi một cách nghiêm chỉnh không chỉ phụ thuộc vào sự đe
dọa, cưỡng chế mà còn phụ thuộc vào sự giáo dục, phụ thuộc vào sự nhận thức về vị
Số hóa bởi trung tâm học liệu


13
trí vai trò của PL trong đời sống xã hội, từ đó tạo ra được ý thức, động cơ đúng đắn
trong việc thực hiện PL và đấu tranh tích cực với các hành vi VPPL.
Thứ ba, GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện PL. Thực
hiện PL là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của PL đi
vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của chủ thể. Thực hiện PL bao
gồm những cấp độ khác nhau, từ việc tuân thủ đến việc chấp hành nghiêm chỉnh các
quy định của PL, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà PL quy định (sử dụng PL) và cao
nhất là việc áp dụng PL. GDPL giữ vai trò cung cấp cho người dân biết quyền và
nghĩa vụ của mình, về những việc mà PL quy định được phép làm và những việc mà
PL không cho phép làm hoặc nghiêm cấm, về cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. GDPL đó chính là sự hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết PL
của SV giúp họ nhận thức được những giá trị cao đẹp của PL và biết sử dụng hữu
hiệu công cụ đó trong cuộc sống.
Thứ tư, GDPL góp phần thực hiện mục tiêu GD toàn diện. GDPL trong nhà
trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển toàn diện con người Việt Nam trong đó
có việc hình thành ý thức PL, văn hoá pháp lý trong nhân dân.
Đưa GDPL vào nhà trường là việc sử dụng các thiết chế bộ máy, các cơ sở vất
chất của nhà trường, thông qua chức năng giáo dục của nhà trường, thực hiện mục
đích của GDPL. Trang bị cho các em những tri thức PL cần thiết, bồi dưỡng tình cảm
và đặc biệt là xây dựng và hình thành trong các em ý thức PL làm cơ sở cho sự hình
thành hành vi và thói quen hành có các hành vi phù hợp PL, phù hợp với chuẩn mực
đạo đức, với kỷ cương, nề nếp xã hội.
1.4. Quá trình giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.4.1. Chủ thể và đối tƣợng giáo dục pháp luật
* Chủ thể giáo dục pháp luật
Trong lý luận giáo dục học, chủ thể giáo dục học là những thầy giáo, cô giáo
và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào chủ thể GDPL, chủ
thể GDPL là tất cả những người theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã

tham gia hoặc góp phần thực hiện mục tiêu GDPL
Chủ thể GDPL trong các trường CĐ là toàn bộ những lực lượng tham gia vào
quá trình GDPL như GV giảng dạy PL, GV chủ nhiệm, GV giảng dạy bộ môn khác,
Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
phòng đào tạo, phòng CTHSSV, phòng tổ chức, phòng khảo thí, Đoàn thanh niên,
hội SV, lực lượng bảo vệ Cụ thể:
GV giảng dạy PL: Đây là những chủ thể chủ yếu của của công tác GDPL
trong các trường CĐ. Họ có trình độ chuyên môn pháp lý vững vàng, có ý thức PL
đầy đủ, có tâm huyết với công tác GDPL.
Các lực lượng GDPL khác: Trong các trường CĐ, tùy theo cơ cấu, tổ chức
từng trường thì phòng công tác HSSV, Ban quản lý KTX hoặc phòng Đào tạo cũng
đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức các hoạt động GDPL, đôn đốc, kiểm tra,
giám sát việc học tập, lao động, việc thực hiện nội quy trường học. Mỗi nhà trường
đều có nội quy, quy chế đào tạo riêng góp phần giáo dục về đạo đức, lối sống và thi
hành kỷ luật với mỗi SV. Bộ phận quản lý nội trú, Đoàn thanh niên, các Phòng,
Khoa, Trại thí nghiệm thực hành, GV bộ môn khác, GV chủ nhiệm và những người
làm công tác giáo dục có tác động sâu sắc đối với việc GDPL thông qua hoạt động
ngoài giờ, thông qua các bài giảng và tác phong lối sống của chính những chủ thể đó.
* Đối tượng giáo dục PL
Đối tượng GDPL trong các trường CĐ là SV. Họ là những người đã trải qua
học tập và rèn luyện trong suốt quá trình học phổ thông. Khi tốt nghiệp CĐ, SV trở
thành những người lao động có tri thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo nghề
ở trình độ được đào tạo CĐ. Trong quá trình GDPL, SV chịu sự tác động có tổ chức
định hướng, vì thế sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm tâm, sinh lý, nghề nghiệp của
người được giáo dục là yêu cầu hàng đầu. Đồng thời người giáo dục có trách nhiệm
phải nắm vững tri thức PL, biết cách giáo dục, phải là tấm gương mẫu mực về sự tôn
trọng và chấp hành PL. Ưu điểm của SV là tầng lớp xã hội tiến bộ, được tiếp thu có
hệ thống tri thức tinh túy của nhân loại nói chung và của dân tộc, đất nước nói riêng.

Họ là những người có khả năng sáng tạo, tính tích cực nhạy bén, năng động trong
học tập, nghiên cứu, ứng dụng cũng như trong các quan hệ xã hội. SV có khả năng
và mong muốn trở thành lao động trí óc do đó luôn tò mò, ham hiểu biết, chịu khó
học hỏi, thích cái mới và thường có quyết tâm cao để thể hiện các ý định của mình.
Tuy nhiên, SV cũng có những hạn chế nhất định như nông nổi, bồng bột, dễ bị kích
động, khó kiềm chế, đôi khi tự cao, tự mãn hoặc tự ti, tự phụ, thích tự do phóng
khoáng hay đua đòi
Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
Ý thức PL của SV chưa đầy đủ toàn diện, sâu sắc như một số nhóm xã hội
khác. SV là tầng lớp xã hội trẻ tuổi đang trong quá trình học tập và rèn luyện, họ
chưa có điều kiện và khả năng để có những tư tưởng, quan niệm, quan điểm về các
hiện tượng PL trong đời sống xã hội một cách đầy đủ, hệ thống, sâu sắc như là đội
ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước, đội ngũ nghiên cứu khoa học pháp lý. Sự hiểu
biết PL của SV mới đang từng bước được hình thành, bồi đắp và làm sâu sắc thêm
qua quá trình học tập và sinh hoạt dưới sự tác động ảnh hưởng của gia đình, nhà
trường và xã hội. Hiện nay, trong nhà trường SV chưa được giáo dục đào tạo về PL
một cách chuyên sâu, có hệ thống họ chưa được tham gia vào nhiều hoạt động PL
thực tiễn, chưa có kinh nghiệm thực tiễn vì thế, những hiểu biết PL, những quan
niệm về giá trị PL ở SV còn hạn hẹp rất nhiều.
Thực tế hiện nay cho thấy ý thức PL của SV còn thấp, sự hiểu biết PL còn rất
hạn hẹp, thiếu chính xác và hệ thống, chưa đủ để bước vào cuộc sống, chưa ý thức
được đầy đủ trách nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện PL, chưa
thấy hết được vai trò của PL đối với đời sống xã hội nói chung, từng công dân nói
riêng, chưa có thói quen xử sự và đối chiếu những quy định của PL.
Ý thức PL của SV dễ biến động, dễ chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của môi
trường và ý thức PL của những người xung quanh. Trước hết, có thể nói ý thức PL
của SV phụ thuộc rất lớn vào trình độ nhận thức và ý thức tự giác chấp hành PL của
bố mẹ, những người thân trong gia đình, cũng như dư luận xã hội. Mặt khác, do khả

năng bản thân và phát triển quan hệ xã hội của SV ngày càng lớn phù hợp với việc
học tập, sinh hoạt của họ, cho nên cùng với ảnh hưởng của gia đình, lớp người này
đồng thời chịu sự tác động của xã hội, nhà trường, tổ chức đoàn, hội, nhóm bạn
bè trong những môi trường này, nếu trình độ am hiểu PL càng cao, ý thức chấp
hành tuân thủ PL càng nghiêm thì sẽ giúp cho SV hiểu biết PL đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn và càng hướng cho họ đi vào đúng quỹ đạo cuộc sống theo yêu cầu PL, tránh
được sự sa ngã, sai lầm một cách thiếu tự giác của SV.
Vì thế, việc GDPL để nâng cao ý thức PL của SV, không chỉ quan tâm tập
trung cho mỗi đối tượng này mà phải đồng thời tác động đến những người thường
xuyên giao tiếp với SV bằng các chương trình với nội dung, hình thức, phương pháp,
phương tiện thích hợp và đồng bộ.

×