Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Rút ngắn khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương cho học sinh THPT miền núi khi dạy và học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 111 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
–––––––––





NGUYỄN THỊ NGUYỆT MINH





RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH TIẾP NHẬN TÁC PHẨM
VĂN CHƢƠNG CHO HỌC SINH THPT MIỀN NÚI KHI
DẠY VÀ HỌC TRUYỆN NGẮN "CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA" CỦA NGUYỄN MINH CHÂU


Chuyên ngành: Lí luận và PPDH Văn-Tiếng Việt
Mã số: 60.14.01.11



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS.Trần Thế Phiệt








Thái Nguyên - 2013




Số hóa bởi trung tâm học liệu

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Thế Phiệt.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông
tin, số liệu trích dẫn trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thái nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn






Nguyễn Thị Nguyệt Minh



XÁC NHẬN
CỦA KHOA CHUYÊN MÔN





TS. Cao Thị Hảo
XÁC NHẬN
CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN





PGS.TS Trần Thế Phiệt
Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Thế Phiệt, người đã
tận tâm, tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng quản lý sau đại học, các
thầy cô giáo khoa Ngữ Văn - Trường ĐHSP Thái Nguyên, cùng toàn thể thầy

cô trong hội đồng bảo vệ luận văn đã nhiệt tình, giúp đỡ và tạo điều kiện cho
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và bảo vệ tốt luận văn của mình.
Cuối cùng xin cảm ơn Ban giám hiệu và các thầy cô giáo của các trường
THPT trên địa bàn Huyện Bắc Quang - Tỉnh Hà Giang đã tận tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình khảo sát và làm thực nghiệm.
Thái nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả



Nguyễn Thị Nguyệt Minh
Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan……………………………………………………………………i
Lời cảm ơn…………………………………………………………………… ii
Mục lục……………………………………………………………………… iii
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt……………………………………………vii
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………… 1
2. Lịch sử vấn đề…………………………………………………………… 3
3. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………… 8
4. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………… 8
5. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………… 8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………… 8
7. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………… 9

8. Cấu trúc của luận văn ………………………………………………….…….9
NỘI DUNG………………………………………………………………… 10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÚT NGẮN
KHOẢNG CÁCH TIẾP NHẬN TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG CHO HỌC
SINH MIỀN NÚI…………………………………………………………….10
1.1. Cơ sở lý luận………………………………………………………… … 10
1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận………………………………………………….… 10
1.1.2. Khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương……………………… 14
1.1.3. Quan điểm lý luận dạy học văn hiện đại…………………………… 16
1.1.4. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" ………………………………….17
1.2. Cơ sở thực tiễn.……………………………………………………………26
1.2.1. Khảo sát thực trạng tiếp nhận tác phẩm văn chương ở học sinh THPT
Miền núi khi học "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu …… 26
1.2.2. Kết quả khảo sát……………………………………………………… 28
Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv


1.2.3. Đánh giá về khoảng cách tiếp nhận của học sinh THPT miền núi tại Bắc
Quang khi học truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa".……………………… 32
1.2.4. Nguyên nhân ảnh hưởng đến việc tiếp nhận tác phẩm“Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu……………………………………………34
Chƣơng 2: NHỮNG BIỆN PHÁP RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH TIẾP
NHẬN CHO HỌC SINH THPT MIỀN NÚI KHI HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU ……….39
2.1. Những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975……… 39
2.1.1. Xu thế đổi mới chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1975……………39
2.1.2. Đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975…………… 48
2.2. Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương

cho học sinh THPT miền núi Bắc Quang - Hà Giang khi dạy và học truyện
ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu………………………53
2.2.1. Biện pháp 1: Thăm dò khả năng tiếp nhận, hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bài ở nhà……………………………………………………………………….53
2.2.2. Biện pháp 2: Tạo tâm thế văn học ở học sinh trong giờ học tác phẩm văn
chương……………………………………………………………………… 54
2.2.3. Biện pháp 3: Giúp học sinh vượt qua hàng rào ngôn ngữ của văn học 59
2.2.4. Biện pháp 4: Đặt tác phẩm trong mối qua hệ đa chiều xã hội - lịch sử -
văn hoá… .………………………………………………………………… 64
2.2.5. Biện pháp 5: Giúp học sinh thâm nhập vào thế giới nghệ thuật trong tác
phẩm……………………………………………………………………… 67
2.2.6. Biện pháp 6: Phối hợp giảng dạy chính khoá với tổ chức hoạt động ngoại
khoá văn học………………………………………………………………… 69
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM………………………………… 72
3.1. Định hướng thực nghiệm…………………………………………………72
3.1.1. Mục đích thực nghiệm………………………………………………….72
Số hóa bởi trung tâm học liệu

v


3.1.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm………………………… 72
3.1.3. Quy trình thực nghiệm………………………………………………….72
3.2. Thiết kế bài dạy thực nghiệm………………………………………… 73
3.3. Giải thích thiết kế……………………………………………………… 93
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm…… ………………………………… 94
3.4.1. Những nội dung thực nghiệm……………………………………… 94
3.4.2. Kết quả thực nghiệm………………………………………………… 94
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………… 101

PHỤ LỤC……………………………………………………………………
Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sĩ
GS : Giáo sư
PP : Phương pháp
DH : Dạy học
GD : Giáo dục
TPVC : Tác phẩm văn chương
THPT : Trung học phổ thông
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
TP : Tác phẩm
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
NXB : Nhà xuất bản
ĐHSP : Đại học sư phạm
SP : Sư phạm
KHXH : Khoa học xã hội
Số hóa bởi trung tâm học liệu

1



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cuộc sống xã hội diễn biến phức tạp, khiến khoảng cách tiếp nhận
tác phẩm văn chương ngày càng mở rộng trong dòng chảy lịch sử ấy. Những
biến động và biến đổi càng gay gắt dữ dội bao nhiêu, càng bộc lộ khoảng cách
giữa văn hóa ngoài xã hội với văn hóa trong nhà trường, giữa nội dung giảng
dạy và tâm lý học sinh.
Khoảng cách tiếp nhận (Rezeptionsdistanz) là một hiện tượng phổ biến
trong đời sống văn học; thường xảy ra giữa người đọc với tác phẩm, giữa bạn
đọc với bạn đọc, giữa các nhà nghiên cứu phê bình với nhau và ở chính bản
thân mỗi bạn đọc. Do các yếu tố thời đại, tâm lý tiếp nhận, điều kiện kinh tế, xã
hội và không gian sống, mỗi người tiếp nhận tác phẩm qua lăng kính chủ quan
của mình. Tựu trung chỉ vì sức cảm, hiểu của người đọc đối với tác phẩm văn
chương còn bất cập, lúc thì ở phía tác phẩm, khi thì lại ở phía người đọc nên sự
xuất hiện khoảng cách tiếp nhận là một tất yếu, luôn tồn tại trong tiếp nhận văn
chương. Như một quy luật tất yếu vĩnh hằng, các tác phẩm luôn tồn tại trong nó
những khuynh hướng tiếp nhận khác nhau làm nên khoảng cách thẩm mỹ.
Trong nhà trường, sức mạnh của tác phẩm văn chương luôn được nhân
lên hoặc cộng thêm bởi tài ba của người giáo viên “Tiếng nói của các nhà văn,
nhà thơ được các nhà giáo tiếp sức đã ngân vang sâu xa trong tâm hồn trẻ”
[31,tr.5]. Người giáo viên phải biết làm thức dậy được nguồn cảm xúc sâu lắng
đang tiềm ẩn dưới các dòng chữ, trên các trang sách, tiếp sức khơi nguồn sáng
tạo, làm phong phú cho tâm hồn và nhu cầu tinh thần của các em. Việc xác
định được khoảng cách tiếp nhận và biết cách thu hẹp dần khoảng cách ấy là
việc làm cần thiết để từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy.
1.2. Vốn gắn bó chặt chẽ với đời sống và vận mệnh dân tộc nên từ sau
1975, nền văn học cũng dần chuyển sang một thời kỳ mới với những đặc điểm
và quy luật vận động khác trước; đó là sự vận động ở chiều sâu với những tìm
Số hóa bởi trung tâm học liệu


2


tòi thầm lặng mà quyết liệt ở một số nhà văn có mẫn cảm với những đòi hỏi của
cuộc sống và có ý thức, trách nhiệm cao với ngòi bút của mình. Người “mở
đường tinh anh và tài năng” [38,tr.11] đã đi được xa nhất ở chặng đầu này là
Nguyễn Minh Châu.
Trên hành trình tư tưởng của mình, Nguyễn Minh Châu đau đáu tìm cội
nguồn đích thực của một nền văn học mang tính nhân bản và nhân loại, khám
phá những vấn đề thuộc số phận con người; đồng thời tạo cho mình một nghệ
thuật trần thuật xây dựng nhân vật rất độc đáo đầy tính sáng tạo và nhân văn
sâu sắc. Nguyễn Minh Châu đã trở thành một nhà văn đặt nền móng toàn diện
và sâu sắc cho sự nghiệp đổi mới cả về quan niệm nghệ thuật lẫn phương thức
biểu đạt. Ông được đánh giá là nhà văn lớn, có nhiều đóng góp hữu ích cho đời
sống văn học nước nhà giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ sau 1975.
Để lại một gia tài văn học khá đồ sộ với một loạt các bài phê bình, tiểu
luận cùng những tiểu thuyết, truyện ngắn, không chỉ phản ánh sinh động cho
bước chuyển âm thầm mà quyết liệt trong quan niệm nghệ thuật mà còn tạo cho
Nguyễn Minh Châu môt vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của
văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của
nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút
trẻ tài năng sau này”[38,tr.508].
Đặc biệt những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sáng tác sau 1975
đã trở thành hiện tượng văn học được giới sáng tác, phê bình và dư luận xã hội
đặc biệt quan tâm và đã được đưa vào chương trình SGK phổ thông ở cả hai
cấp THCS và THPT từ sau 1985; đó là một trong những mảng sáng “làm cho
văn học nhà trường hạn chế bớt những khoảng cách giữa xã hội, thế hệ trẻ và
văn chương nhà trường”[33,tr.19].
1.3. Tuy nhiên nhận thức đúng và dạy đúng tác phẩm của Nguyễn Minh
Châu trong nhà trường phổ thông nói chung và ở các huyện miền núi có học

sinh là con em đồng bào dân tộc nói riêng không phải là công việc thuận lợi,
Số hóa bởi trung tâm học liệu

3


vẫn đang là một thử thách đối với giáo viên dạy văn; nhất là với giáo viên tâm
huyết thì đó là thách thức đầy hấp dẫn muốn được thử sức để thấy quý hơn “hạt
ngọc” nghệ thuật của nhà văn.
Bắc Quang nơi người thực hiện đề tài này sinh sống và công tác là một
huyện của tỉnh miền núi Hà Giang, nơi biên cương địa đầu của tổ quốc; có đặc
trưng vùng miền, nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. Qua thực tế giảng
dạy và các đợt cùng đoàn công tác của huyện, của tỉnh tại các trường trên địa
bàn, tác giả luận văn nhận thấy khả năng nhận thức và sự khác biệt ngôn ngữ là
rào cản lớn nhất tạo nên khoảng cách trong tiếp nhận. Những chi tiết tưởng như
đơn giản nhưng các em lại không thể hình dung ra bởi điều kiện kinh tế, xã hội
và ít được tiếp xúc với tác phẩm văn chương; nhất là với những tác phẩm giàu
suy tư, triết lý, chú trọng thế giới bên trong với nhiều diễn biến phức tạp, đa
dạng, nhân văn, nhân bản và mới được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn lớp
12 như “Chiếc thuyền ngoài xa”. Hơn nữa ở tác phẩm này còn là sự khác biệt
về không gian sống, không gian miền biển vùng phá nước vốn xa lạ với học
sinh miền núi, sự tiếp nhận của học sinh còn mơ hồ, giáo viên còn nhiều cách lí
giải và soạn giảng khác nhau.
1.4. Với tâm thế là người con huyện miền núi Bắc Quang của tỉnh Hà
Giang, cùng sự trân trọng văn tài và cảm quan nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Minh Châu, thôi thúc người viết chọn đề tài “Rút ngắn khoảng cách tiếp nhận
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu cho học sinh THPT
miền núi” để góp thêm một cách nhìn về tài năng sáng tạo của Nguyễn Minh
Châu và góp phần thiết thực cho việc đổi mới phương pháp dạy học thực thi
chương trình mới.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu
“Người ta hay nói đến việc dạy học không có địa chỉ” để phê phán lối
dạy học thoát li đối tượng, những điều sách viết ra và những điều giáo viên suy
Số hóa bởi trung tâm học liệu

4


nghĩ lại xa lạ với học sinh” [34,tr.103]. Nếu thế, giờ học văn không thể có được
sự “đồng cảm, đồng tình, đồng ý”[34,tr.103]. Đây là vấn đề được đặt ra trong
việc dạy tác phẩm văn chương cho học sinh miền núi nói chung và học sinh
miền núi ở Bắc Quang - Hà Giang nói riêng. Vấn đề này đã được các nhà Giáo
dục quan tâm, nghiên cứu để tìm ra hướng đi thiết thực, hiệu quả hơn cho việc
dạy tác phẩm văn chương ở miền núi, nhất là những công trình của các thầy cô
giáo công tác tại trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, nơi người viết học tập,
nghiên cứu như:
- “Dạy văn và học văn miền núi” (1991), của hai tác giả Trần Thế Phiệt
- Vi Hồng, công trình nghiên cứu cấp trường, ĐHSP Việt Bắc.
- Luận án tiến sĩ Giáo dục học của tác giả Hoàng Hữu Bội với đề tài
“Con đường hướng dẫn học sinh PTTH miền núi chiếm lĩnh thế giới hình
tượng trong tác phẩm văn chương” (1995) do GS. Phan Trọng Luận hướng dẫn.
- “Những biện pháp hạn chế khoảng cách tiếp nhận thơ kháng chiến
Việt Nam 1946-1954 ở học sinh THPT miền núi” (2002), Luận văn thạc sỹ
khoa học giáo dục của tác giả Lý Thị Mai Hương.
- Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh
trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (2007),
Luận văn thạc sỹ khoa Ngữ văn ĐHSP Thái Nguyên của tác giả Hoàng Thị
Hồng Minh.
- “Biện pháp nâng cao chất lượng bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” ở lớp 12

THPT theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” (2012), luận
văn thạc sỹ của Hoàng Thị Phương Thùy.
- “Về cách phô diễn của học sinh tày nùng và vấn đề dạy văn cho học
sinh dân tộc”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục tháng 12/1990, của tác giả Trần
Thế Phiệt.
- “Mấy suy nghĩ về người giáo viên văn học miền núi” của tác giả Trần
Thế Phiệt, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục tháng 11/1990.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

5


- “Dạy học văn miền núi”(1992) của tác giả Vi Hồng, Tạp chí Văn học
số tháng 2/1992.
- “Văn học vùng” miền núi trong văn học nhà trường”(1994) của tác giả
Vi Hồng, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục tháng 7/1994.
- “Việc giải tỏa hàng rào ngôn ngữ cho học sinh dân tộc ít người khi
tiếp nhận tác phẩm văn học” (1995), của hai tác giả Nguyễn Huy Quát và
Hoàng Hữu Bội, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục tháng 11/1995.
- “Dạy và học tác phẩm văn chương ở trường PTTH miền núi” (1997)
của tác giả Hoàng Hữu Bội.
- “Về trình độ tư duy của học sinh PTTH miền núi”, Tạp chí Nghiên
cứu Giáo dục tháng 9/1991, của hai tác giả Phùng Đức Hải - Nguyễn Bá Dương
- “Về vấn đề nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian miền núi”
(1996), của tác giả Vũ Anh Tuấn, những vấn đề Ngữ văn.
- “Giảng dạy tác phẩm theo loại thể ở trường phổ thông miền
núi”(1996) của tác giả Ngô Đức, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 6/1996.
2.2. Thiết kế dạy học tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà văn
Nguyễn Minh Châu, có những tác giả đề cập trong những cuốn sách sau:
2.2.1. Sách giáo viên

- Sách giáo viên Ngữ văn lớp 12, chương trình nâng cao, do GS.Trần
Đình Sử tổng chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục 2008.
- Sách giáo viên Ngữ văn lớp 12, chương trình chuẩn, do GS.Phan
Trọng Luận tổng chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục 2008.
2.2.2. Sách thiết kế
- Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 do GS. Phan Trọng Luận tổng chủ biên,
nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008.
- Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 (nâng cao) của tác giả Hoàng Hữu Bội,
nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008.
- Kỹ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 12 của tác giả Nguyễn Kim
Số hóa bởi trung tâm học liệu

6


Phong, nhà xuất bản Hà Nội, năm 2008.
- Giới thiệu giáo án Ngữ văn 12, tập II của tác giả Nguyễn Khắc Đàm-
Nguyễn Lê Huân, nhà xuất bản Hà Nội, năm 2008.
- Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập II của tác giả Nguyễn Văn
Đường, nhà xuất bản Hà Nội, năm 2008.
- Thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” của sách giáo viên Ngữ văn
12, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008.
2.2.3. Sách bình giảng, phân tích:
- Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 12 - Nâng cao do tác giả
Nguyễn Đăng Mạnh làm chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008.
- Phân tích Ngữ văn lớp 12 của tác giả Trần Nho Thìn, nhà xuất bản
Giáo dục, năm 2009.
2.3. Nhận xét rút ra từ các công trình, bài viết
Trong phạm vi tư liệu thu được cho đến thời điểm này, người viết rút ra
một số nhận xét như sau:

- Tuỳ từng mức độ và phạm vi của các vấn đề khoa học mà các tác giả
đề cập đến, các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định vào việc
nêu lên hoặc góp phần giải quyết những khó khăn trở ngại của việc dạy và học
văn ở các trường PTTH miền núi nói chung. Mỗi công trình, bài viết đăng trên
tạp chí là một vấn đề rất cụ thể, thiết thực đóng góp một tiếng nói, một giải
pháp khoa học vào vấn đề dạy học văn ở nhà trường PTTH miền núi.
- Trong số những công trình của các thầy cô giáo công tác tại trường
Đại học sư phạm Thái Nguyên, thì công trình nghiên cứu sớm nhất (Từ năm
1991) khiến người viết tâm đắc là "Dạy văn và học văn miền núi" của hai tác
giả Trần Thế Phiệt và Vi Hồng, là hai nhà giáo có nhiều năm công tác ở khoa
văn trường ĐHSP Việt Bắc trước kia, nay là trường ĐHSP Thái Nguyên, nơi
đào tạo đội ngũ giáo viên THCS và THPT cho các tỉnh miền núi Việt Bắc và
Tây Bắc của tổ quốc. Với vốn hiểu biết sâu sắc cùng tận tâm nghề nghiệp các
Số hóa bởi trung tâm học liệu

7


tác giả đã chỉ ra được những nguyên nhân, hiện tượng cơ bản và phổ biến về
những khó khăn trong việc tìm hiểu văn và cảm văn của các em, đi sâu nghiên
cứu:
+ Chiến lược con người với việc dạy văn ở miền núi.
+ Người giáo viên văn học ở miền núi.
+ Người học sinh miền núi với việc tiếp nhận văn chương.
+ Những đề xuất mang tính giải pháp.
Đúng như lời kết thúc các tác giả khẳng định: "Công trình của chúng
tôi thiên về những vấn đề cụ thể, mục đích thực hành nhiều hơn Dù vậy
chúng tôi thấy rằng, nếu các thầy dạy văn ở miền núi chịu khó tìm hiểu và áp
dụng những kiến thức cụ thể của chúng tôi trong công trình này chắc chắn sẽ
góp phần nâng cao chất văn ở miền núi" [22,tr.4].

- Tiếp đến là công trình của tác giả Hoàng Hữu Bội "Dạy và học tác
phẩm văn chương ở trường THPT miền núi" (1997), nhà xuất bản Giáo dục,
cũng là một nhà giáo có nhiều năm công tác ở trường ĐHSP Việt Bắc, nay là
ĐHSP Thái Nguyên. Với tâm huyết nghề nghiệp, tác giả đã nghiên cứu thực tế
dạy học văn ở các nhà trường THPT miền núi, chỉ ra những khó khăn trở ngại
mà học sinh miền núi gặp phải trong quá trình tiếp nhận như "Vốn hiểu biết về
cuộc sống và con người miền núi còn hạn chế"[1,tr.29], hay tư duy văn học của
người miền núi và học sinh miền núi "Cảm nhận văn chương một cách giản
đơn, bộc trực. Họ thường đối chiếu hình tượng nghệ thuật với thực tại mà nó
phản ánh để đánh giá hình tượng"[1,tr.33]. Từ những phát hiện đó, tác giả đề
xuất những biện pháp khả thi để dẫn dắt học sinh miền núi khám phá hình
tượng tác phẩm văn chương:
+ Giải toả tâm lí mặc cảm khép kín ở học sinh miền núi.
+ Giúp học sinh miền núi vượt qua hàng rào ngôn ngữ.
+ Giúp học sinh miền núi rút ngắn khoảng cách lịch sử- văn hoá.
+ Tăng cường rèn luyện tư duy văn học cho học sinh miền núi.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

8


+ Tăng cường khả năng tác động của văn chương đối với chủ thể tiếp
nhận bằng các biện pháp đặc thù của giảng dạy văn học.
Kế tiếp thành tựu của các công trình khoa học đi trước, luận văn tập
trung nghiên cứu việc rút ngắn khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương
cho học sinh THPT miền núi, khi dạy và học tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa"
của Nguyễn Minh Châu.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát phát hiện những khoảng cách tiếp nhận ở học sinh
THPT miền núi tại huyện Bắc Quang khi học truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài

xa" của Nguyễn Minh Châu:
- Đề xuất một số biện pháp để rút ngắn khoảng cách tiếp nhận cho học
sinh THPT miền núi.
- Từ đó xây dựng những kỹ năng về nhận thức khoảng cách tiếp nhận,
những hiểu biết cần thiết về đối tượng học sinh của mình, để có một phương
thức rút ngắn khoảng cách tiếp nhận cho học sinh không chỉ tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu mà còn cả với các tác giả khác nữa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương ở học sinh lớp
12 THPT miền núi tại huyện Bắc Quang thuộc tỉnh Hà Giang trong quá trình
tiếp nhận truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" - Ngữ văn lớp 12, tập II.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai thời kỳ
sáng tác, chú trọng đặc sắc nội dung và nghệ thuật của "Chiếc thuyền ngoài xa"
- Điều tra khoảng cách tiếp nhận ở học sinh lớp 12, THPT miền núi tại
huyện Bắc Quang khi học "Chiếc thuyền ngoài xa" - Nguyễn Minh Châu.
- Đề xuất một số biện pháp rút ngắn khoảng cách tiếp nhận cho học
sinh THPT miền núi trong quá trình tiếp nhận truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài
xa" của Nguyễn Minh Châu.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

9


- Kiểm chứng bằng thiết kế thể nghiệm và dạy thực nghiệm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Rút ngắn khoảng cách tiếp nhận truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu cho học sinh THPT miền núi, người
viết sử dụng các phương pháp sau:
6.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý luận

Nhằm tìm hiểu những cơ sở lý luận về truyện ngắn, đặc điểm truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của
truyện ngắn „Chiếc thuyền ngoài xa”, đặc điểm tiếp nhận tác phẩm văn chương
của học sinh miền núi qua các công trình nghiên cứu ở phần lịch sử vấn đề.
6.2. Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, phân tích, khái quát .
Sử dụng phương pháp này để phát hiện khoảng cách tiếp nhận ở học
sinh lớp 12 tại huyện Bắc Quang khi học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”-
Nguyễn Minh Châu. Xử lý số liệu thu thập được trong quá trình điều tra khảo
sát, thực nghiệm sư phạm.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Tiến hành thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa”- Nguyễn Minh
Châu, phù hợp với tâm lý tiếp nhận của học sinh THPT miền núi và tổ chức
dạy thực nghiệm tại huyện miền núi Bắc Quang thuộc tỉnh Hà Giang.
7. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở phân tích cơ sở lí thuyết và thực tiễn, luận văn đề xuất những
biện pháp cụ thể để rút ngắn khoảng cách tiếp nhận TPVC cho học sinh THPT
miền núi khi dạy và học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu góp phần thực hiện nhiệm vụ của môn học.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên và học sinh khi dạy
và học để có thể rút ngắn khoảng cách tiếp nhận cho học sinh THPT miền núi.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo và phụ lục, luận
Số hóa bởi trung tâm học liệu

10


văn gồm có 03 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rút ngắn khoảng cách
tiếp nhận tác phẩm văn chương cho học sinh THPT miền núi.

Chương 2: Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách tiếp nhận tác phẩm
văn chương cho học sinh THPT miền núi khi học truyện ngắn "Chiếc thuyền
ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
NỘI DUNG
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rút ngắn khoảng
cách tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng cho học sinh THPT miền núi
1. 1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý thuyết tiếp nhận
1.1.1.1. Khái niệm
Theo SGK Ngữ văn 12, tập II, chương trình chuẩn, nhà xuất bản Giáo
dục, 2008 viết: "Tiếp nhận văn học chính là quá trình người đọc hoà mình vào
tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên
bằng ngôn từ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài
nghệ của người nghệ sỹ sáng tạo"[ tr.184]
Cùng quan niệm về tiếp nhận văn học, SGK Ngữ văn 12, tập 2, chương
trình nâng cao, nhà xuất bản Giáo dục, 2008 viết: "Tiếp nhận là một hoạt động
nắm bắt thông tin trong quá trình giao tiếp"[tr.173].
Cuốn từ điển thuật ngữ văn học, nhà xuất bản Giáo dục, 1992 cũng cho
ta biết: “Về nội hàm của thuật ngữ, tiếp nhận văn học được xem là hoạt động
chiếm lĩnh giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của các tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự
cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan
niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn
tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo”[48,tr. 221].
Số hóa bởi trung tâm học liệu

11


“Tiếp nhận văn học được xem như “Thi pháp ứng dụng”, từng bước

chuyển chủ thể tiếp nhận vào chủ thể văn học để người đọc trực tiếp tham gia
những tình huống văn học, tạo điều kiện để người tiếp nhận được cắt nghĩa, thể
nghiệm, nếm trải, sẻ chia và tạo nên sự đồng cảm nghệ thuật; đồng thời người
tiếp nhận cũng bộc lộ được một số phương diện về thiên hướng, năng lực thẩm
mỹ và phẩm chất của mình. Tiếp nhận văn học cũng được xem như một quá
trình đối tượng hóa sức mạnh bản chất người của cá thể trong xã hội. Để thực
hiện quá trình đó, chủ thể tiếp nhận không chỉ dựa vào những phân tích văn bản
ngôn từ một cách máy móc rồi khái quát giá trị hay ý nghĩa của tác phẩm, bởi
thực chất của tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp đặc biệt giữa người đọc
với nhà văn qua tác phẩm”[15,tr.53].
Về bản chất có thể xem tiếp nhận văn học là một quá trình tác động
thẩm mỹ. Người đọc tiếp nối và tham gia mục đích sáng tạo của nhà văn, hiện
thực hóa ý đồ nghệ thuật của nhà văn qua sự đồng điệu và nhân lên cảm xúc,
qua sự lay thức tâm hồn và mở ra những hiểu biết mới mẻ về cuộc đời.
Tiếp nhận văn học bắt đầu hình thành lý thuyết với một số khái niệm
quan trọng của nó như: tác phẩm, người đọc, việc đọc, khoảng cách tiếp nhận,
sự đồng nhất thẩm mỹ, chân trời đón đợi, đề án tiếp nhận, kết cấu vẫy
gọi…Như vậy tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp, một cuộc
đối thoại giữa bạn đọc với nhà văn thông qua tác phẩm. Cuộc đối thoại này đòi
hỏi người đọc phải vận dụng tất cả tri giác, cảm giác và năng lực cảm thụ của
mỗi người và tác phẩm văn học chỉ trở thành đích thực khi người đọc đón nhận
được thông điệp thẩm mỹ mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm đó.
1.1.1.2. Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào việc dạy và học văn
Lý thuyết tiếp nhận hiện nay cơ bản đã được công nhận do những quan
điểm mang tính khoa học, những thành tựu về lý luận và thực tiễn ứng dụng.
Mặc dù lý thuyết tiếp nhận không đặt ra vấn đề dạy và học văn như thế nào ở
trường phổ thông hay đại học một cách trực tiếp, song quan điểm và những vấn
Số hóa bởi trung tâm học liệu

12



đề mà nó đặt ra lại mang tính ứng dụng cao trong thực tiễn dạy và học văn. Nó
khẳng định vai trò khá quan trọng của người đọc, đó cũng là khâu cuối cùng
trong chu trình sáng tạo của tác phẩm văn học. Nếu không diễn ra quá trình tiếp
nhận, cắt nghĩa, giải mã thì sản phẩm nghệ thuật của nhà văn mãi là những văn
bản “cứng đờ” nằm im trên trang giấy mà thôi. Vì vậy hoạt động dạy và học
văn trong nhà trường là một trong những hình thức tiếp nhận văn học đặc thù.
Tiếp nhận văn học là một quá trình đồng sáng tạo. Muốn chiếm lĩnh
được thế giới hình tượng thông qua ngôn từ thì buộc người đọc phải chủ động
tích cực, phải hiểu được nghĩa của từ, hình ảnh, nhớ những điều đã học, phát
hiện được mối quan hệ giữa các câu, các phần, giải thích được những chỗ mâu
thuẫn, vô lý của văn bản tác phẩm. Qúa trình người đọc tự tìm hiểu, tự giải đáp,
sống với nhân vật trong tác phẩm, hiểu và phát hiện được ý nghĩa tác phẩm,
cho đến khi tác phẩm của nhà văn trở thành tác phẩm của người đọc, hoà quyện
với tư tưởng tình cảm của người đọc thì đó là lúc người đọc đã hoàn thành một
quá trình đồng sáng tạo với nhà văn.
Qúa trình tiếp nhận văn học của học sinh diễn ra rất phức tạp, trong quá
trình tiếp nhận nội dung và kết quả lĩnh hội tri thức phải được tái tạo bởi chính
học sinh thông qua những hiện tượng văn học cụ thể. Do đó hiệu quả giáo dục
cuối cùng phụ thuộc chủ yếu vào mức độ hoạt động độc lập, tự giác của học
sinh khi tiếp nhận tác phẩm văn học. Tác phẩm văn chương, đối tượng tiếp
nhận của học sinh, vốn đã không đơn giản nhưng quá trình tiếp nhận văn học
của học sinh trong nhà trường lại càng phức tạp hơn. Đó là quá trình bao gồm
những hoạt động ngôn ngữ, hoạt động tâm lý, hoạt động văn hóa và sư phạm.
Học sinh đi từ trình độ tự nhiên hồn nhiên, tự phát, mang tính chất ngây thơ
đến năng lực tiếp nhận văn học có ý thức dưới tác động định hướng sư phạm.
Đó là hoạt động kết hợp hài hòa giữa cảm thụ cụ thể cảm tính với lĩnh hội tri
thức khoa học và hoạt động thể nghiệm, nếm trải thẩm mỹ của bản thân chủ thể
học sinh. Qúa trình tiếp nhận diễn ra thường chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đặc

Số hóa bởi trung tâm học liệu

13


điểm tâm lý, khả năng phát triển, thiên hướng, đời sống nội tâm của người tiếp
nhận và sự tác động nhất định của dư luận xã hội cũng như xu thế thời đại. Bởi
thế, tiếp nhận văn học cũng đòi hỏi người đọc không chỉ có khả năng tâm lý
sáng tạo mà còn có những phẩm chất riêng. Để hiểu đúng thực chất quá trình
tiếp nhận trong dạy học văn trước tiên phải nhấn mạnh mối quan hệ giữa quá
trình tiếp nhận của học sinh đối với quá trình giáo dục, đào tạo của giáo viên.
Tổ chức xã hội trong phạm vi quan hệ dạy và học, trong bản chất xã hội thẩm
mỹ của nội dung tài liệu và các mối liên hệ rộng lớn giữa văn chương với thời
đại, nhà văn, bạn đọc là những điều kiện tạo nên các bước của quá trình tiếp
nhận trong dạy học văn. Người giáo viên cần phân biệt sự khác nhau về đặc
điểm tâm lý học sinh, khi các em học văn trên lớp với khi đọc tác phẩm văn
chương tự chọn. Tổ chức hệ thống hóa kiến thức gắn liền với kế hoạch giảng
dạy, với chương trình văn học là đặc điểm sư phạm quan trọng của hoạt động
tiếp nhận tác phẩm văn chương trong nhà trường. Sự tiếp nhận văn học của học
sinh thực hiện dưới nhiều hình thức, tùy theo nội dung tài liệu giảng dạy và
mục đích giáo dục nhằm củng cố sự thể nghiệm và thưởng thức thẩm mỹ. Hoạt
động tiếp nhận văn học của học sinh ở nhà trường vừa mang tính chất tập thể
vừa mang tính chất cá thể, bởi vì đặc điểm tiếp nhận văn học của cá nhân được
thể hiện trong mối quan hệ với kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghệ thuật
gần gũi nhau trong tập thể lớp.
Ý kiến phê phán của từng học sinh góp phần hình thành những quan
điểm chung của tập thể. Người giáo viên có trách nhiệm định hướng và điều
khiển quá trình tiếp nhận trong dạy học văn sao cho quá trình đó diễn ra phù
hợp với điều kiện và đặc điểm của quá trình nhận thức bộ môn trên cơ sở khoa
học. Mối quan hệ giữa giảng dạy, tiếp nhận và nhận thức làm cho quá trình lĩnh

hội văn học ở học sinh diễn ra hợp quy luật. Quy thức hay cơ chế phức tạp của
quá trình nhận thức đòi hỏi người giáo viên không những nắm vững các tri thức
khác nhau về quá trình truyền thụ và lĩnh hội tác phẩm văn chương trong dạy
Số hóa bởi trung tâm học liệu

14


học văn mà còn phải có trình độ vận dụng sáng tạo quá trình đó vào những tình
huống diễn ra phức tạp, sinh động, có khi vượt ngoài dự kiến của giáo viên. Đó
là khả năng nhìn thấy ở học sinh những cảm xúc tinh tế thường ẩn kín để giáo
viên kịp thời phản ứng đúng đắn và chính xác. Giáo viên phải đánh thức ở các
em cảm xúc thẩm mỹ tạo ra hưng phấn và động cơ sáng tạo tích cực trong tiếp
nhận văn học. Nếu không có cảm xúc thì tác phẩm không thể trở thành đối
tượng gây nên những rung động tinh tế trong tâm hồn người thưởng thức. Khả
năng quan sát nhiều mặt và nhạy bén về văn học ở giáo viên được phát triển
trên cơ sở những tri thức khoa học cơ bản và sự nỗ lực thường xuyên để tạo ra
mối quan hệ gần gũi, tin cậy với học sinh; tạo ra bầu không khí cởi mở hào
hứng, nâng đỡ, trân trọng học sinh trong mỗi giờ văn.
1.1.2. Khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương
Do những khoảng cách về thời đại và con người với tất cả những đặc
điểm cá nhân về điều kiện lịch sử và xã hội, về thế hệ với những nhu cầu, thị
hiếu và lý tưởng thẩm mỹ của nó nên không thể có sự đồng nhất hoàn toàn
trong cảm thụ, trong tiếp nhận văn học; phương pháp dạy học văn vừa phải
nhấn mạnh mặt nhất trí trong cảm thụ và cả “khoảng cách” trong tiếp nhận văn
học. Theo chiều dài thời gian đi tới tương lai của qúa trình tiếp nhận thì những
“khoảng cách thẩm mỹ” sẽ được thu hẹp lại và sự “đồng nhất thẩm mỹ” sẽ
được mở rộng hơn để tiếp nhận văn học thực sự là sự tiếp nhận một đối tượng
thẩm mỹ chứ không phải là sự tiếp nhận chủ thể. Hướng tới hiệu quả “đồng
nhất thẩm mỹ” là mục tiêu có tính sư phạm trong dạy học tác phẩm văn

chương, thông qua quá trình rút gần và san lấp những “khoảng cách thẩm mỹ”
để tạo ra sự nhất quán về hiệu quả nhận thức của học sinh.
Khoảng cách tiếp nhận tác phẩm văn chương là khoảng trống giữa tác
phẩm văn chương với bạn đọc - học sinh, là một hiện tượng tất yếu mà nguyên
nhân dẫn đến khoảng cách là do sự chênh lệch về vốn sống, điều kiện sống, về
trình độ, năng lực tư duy, nhận thức của mỗi bạn đọc, giữa người sáng tạo và
Số hóa bởi trung tâm học liệu

15


người tiếp nhận văn học. Cụ thể vấn đề đề cập ở đây là khoảng trống hiểu biết
giữa học sinh THPT miền núi với truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của nhà
văn Nguyễn Minh Châu, là những khó khăn học sinh gặp phải khi tiếp nhận
truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa".
Khoảng cách tiếp nhận có nhiều tên gọi khác nhau. Theo PGS.TS Nguyễn
Thị Thanh Hương "Khoảng cách thẩm mĩ" được hiểu là độ chênh lệch, sự xa
cách giữa tiếp nhận thẩm mĩ của bạn đọc trước một văn bản văn học. Nói cách
khác đó là "Sự chênh lệch, sự cách xa giữa ý động, tác động của tác giả (chủ thể
thẩm mĩ) gửi vào văn bản (bản thể thẩm mĩ) và sự tiếp nhận những tác động
thực tế ở văn bản của người đọc (chủ thể tiếp nhận). Trong công trình nghiên
cứu văn chương - bạn đọc sáng tạo, GS.Phan Trọng Luận khi bàn về tính chất
chủ quan trong tiếp nhận văn học gọi đó là hiện tượng thị sai. Thị sai là sự biểu
lộ ở những chủ thể khác nhau trước một hiện tượng văn học (cũng có thể gọi đó
là độ sai trong nhìn nhận, đánh giá văn học). Hiện tượng này không chỉ có ở
những người chưa phát triển về văn học mà ngay cả những thiên tài văn học. Độ
thị sai có thể ở những độc giả khác nhau nhưng cũng có thể ở ngay trong chính
bản thân chủ thể. Đó là khoảng cách văn học giữa người sáng tác và người
thưởng thức, có thể hiểu đơn giản hơn khoảng cách tiếp nhận chính là sắc thái
chủ quan, những cách hiểu khác nhau của độc giả trước cùng một hiện tượng

văn học. Còn GS. Nguyễn Thanh Hùng đã phân tích tính khách quan của hiện
tượng khoảng cách tiếp nhận trong văn học là “giữa cộng đồng lý giải thì tác
phẩm văn chương tồn tại những khoảng cách thẩm mỹ. Trước hết đó là khoảng
cách thẩm mỹ giữa những người tiếp nhận và tác phẩm. Đó là điều hiển nhiên
bởi vì người đọc tác phẩm chính là người tiếp xúc với bất cứ hiện tượng và quá
trình thực tế của hiện thực”[13,tr74]. GS cũng lý giải về những nguyên nhân tiêu
biểu làm xuất hiện những khoảng cách tiếp nhận và khoảng cách thẩm mỹ: “Có
nhiều nguyên nhân dẫn tới khoảng cách tiếp nhận và khoảng cách thẩm mỹ, về
cơ bản có thể kể đến sự hiểu biết về phương thức trình bày nghệ thuật, mã nghệ
Số hóa bởi trung tâm học liệu

16


thuật, những nhu cầu thị hiếu, thói quen và lý tưởng thẩm mỹ của người tiếp
nhận văn chương”[13,tr74]. "Khoảng cách thẩm mỹ” nảy sinh trên cơ sở những
khác biệt về lý tưởng thời đại, những đặc điểm và nhu cầu, khát vọng cá nhân
của các chủ thể tiếp nhận; đồng thời nó còn biểu thị “độ chênh” nhất định giữa
kết quả cảm, hiểu với giá trị đích thực của tác phẩm, giữa ý đồ sáng tạo của nhà
văn với thực tế thẩm mỹ được tác động trong tâm hồn người đọc.
1.1.3. Quan điểm lý luận dạy học văn hiện đại
Trong những năm qua cùng với xu hướng chung của thế giới về giáo
dục và đào tạo là “các phương pháp dạy học phải đặt ở trọng tâm người học”,
Đảng và nhà nước đã có nhiều quyết sách xác đáng thông qua các Văn kiện,
Nghị quyết, được cụ thể hóa trong các Chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đây
là vấn đề rất lớn và phức tạp, song trước mắt các nhà trường, các địa phương đã
và đang quan tâm thực hiện đổi mới những vấn đề liên quan trực tiếp tới việc
dạy và học của thầy và trò. Đổi mới phương pháp dạy học gắn liền với việc phát
huy tính tích cực học tập cho học sinh, yếu tố quyết định chất lượng dạy học,
hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.

Quan điểm hiện đại về lí luận dạy học khẳng định, bản chất của các
PPDH tiên tiến mà chúng ta đang tiếp cận là sự thay đổi vai trò của người thầy
và trò trong hoạt động dạy và học. Trong đó, trò là chủ thể chứ không phải
người ngoài cuộc còn thầy là người tổ chức, dẫn dắt, cố vấn; thay vì chỉ ngồi
nghe thầy thuyết trình, trò sẽ được tăng cường tính tự chủ và tự lập, phát triển
khả năng tư duy, kỹ năng trình bày, hùng biện, chia sẻ, hợp tác, tổng hợp tài
liệu…thầy nêu ra vấn đề, việc giải quyết vấn đề đó như thế nào là việc của trò,
chính trò tự mình tìm cách giải quyết vấn đề và qua đó rút cho mình những tri
thức cần, chứ không phải thụ động tiếp thu những kiến thức mà thầy áp đặt.
Trong hoạt động dạy - học mới, thời lượng sẽ dành nhiều hơn cho thảo
luận, làm việc nhóm và tự đọc sách. Trong giờ học, trò sẽ chủ động phát biểu,
trao đổi, góp ý, họ cũng có cơ hội đưa ra chính kiến của mình về vấn đề được
Số hóa bởi trung tâm học liệu

17


nêu ra, được bộc lộ quan điểm, được tranh luận, bảo vệ cho quan điểm của bản
thân. Tuy nhiên không hạ thấp yêu cầu đối với người thầy, ngược lại người thầy
vẫn nhất thiết phải là người “cầm cân nảy mực”, sáng suốt trong việc điều khiển,
định hướng.
Qúa trình dạy học là quá trình nhận thức, nó không chỉ coi trọng nội
dung kiến thức mà còn chú trọng phương pháp dạy của thày và học của trò. Do
đó đổi mới nội dung luôn kết hợp chặt chẽ với đổi mới phương pháp, phù hợp
với sự đổi mới mục tiêu, nhiệm vụ dạy học trong từng giai đoạn phát triển của
xã hội. Hoạt động dạy học là một quá trình tác động qua lại giữa giảng dạy của
thầy và hoạt động nhận thức của trò, quá trình này thống nhất, không tách rời.
Chính vì vậy, việc đổi mới dạy học cần tiến hành đồng thời trên các mặt: quan
niệm nhận thức, nội dung tri thức và phương pháp dạy - học của cả thầy và trò.
Tóm lại: Các quan điểm hiện đại trong lý luận dạy học đều thống nhất

cần từng bước biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, chuyển đổi dần vai trò,
lấy người thầy là trung tâm sang việc lấy học trò làm trung tâm. Công cuộc đổi
mới giáo dục, cải tiến nội dung chương trình, sách giáo khoa…chỉ thực sự thành
công khi mà các quan niệm, nhận thức và những phương pháp dạy học được đổi
mới theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lập và sáng tạo của trò.
1.1.4. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa"
1.1.4.1. Khái niệm truyện ngắn
“Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện
ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: Đời tư, thế sự hay sử thi,
nhưng cái độc đáo của nó là ngắn”. [48, tr.303).
Theo cuốn từ điển tiếng việt định nghĩa: Truyện ngắn là truyện bằng
văn xuôi, có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh tính cách, một
mẩu trong cuộc đời của nhân vật (Tr.108).
Như vậy truyện ngắn là thể loại phản ánh đời sống theo phương thức tự
sự với dung lượng ngắn mà vẫn phản ánh cuộc sống trong chỉnh thể toàn vẹn.
Số hóa bởi trung tâm học liệu

18


Đọc vào truyện ngắn thì điều quan trọng là đọc cho ra tình huống truyện của nó.
Nó có độ "nén" rất lớn với khả năng chứa đựng nội dung thông tin và có sức mở
hết sức phong phú, đa dạng, bước vào truyện ngắn cần phải nắm được giá trị các
bình diện nghệ thuật cấu thành cái thực thể sinh động là truyện ngắn. Truyện
ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con người. Với dung
lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống…truyện ngắn có khả
năng chuyển tải những vấn đề của thời đại, con người, một cách chính xác, nhạy
bén. Cũng chính điều này khiến truyện ngắn trở thành thể loại cho các nhà văn
thử nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm
nghệ thuật về con người.

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, những khả năng của truyện ngắn được
phát huy và những hạn chế được khắc phục ở mức độ khác nhau gắn với những
quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người. Sau 1975, trong giai đoạn mới
truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con
người một cách nhanh nhạy và sắc bén. Với đặc trưng cơ bản của thể loại,
truyện ngắn đã tạo cơ sở cho sự biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ
thuật về con người. Có thể nói chưa bao giờ trong văn xuôi nói chung và truyện
ngắn nói riêng con người lại được khai thác ở nhiều chiều và bình diện đến vậy.
Tiếp cận với thế giới nhân vật trong sáng tác, người đọc như được tiếp xúc với
những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh động, phong phú và không kém
phần phức tạp với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Truyện ngắn góp phần làm cân
bằng hài hòa trở lại cách nhìn nhận con người của giai đoạn văn học trước.
1.1.4.2. Tóm tắt truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
Phóng viên Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, có niềm đam mê với
nghề và tâm hồn nhạy cảm, được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp bức ảnh
về cảnh biển buổi sáng có sương mù vào giữa mùa hè tháng 7, để có thể xuất
bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển còn đang thiếu một tờ.

×