Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.1 KB, 112 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
======    ======




HOÀNG THỊ HỒNG MINH





HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
VÀ THẢO LUẬN CÁC TẦNG Ý NGHĨA NHÂN SINH
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU



Chuyên ngành: Lí luận và Phƣơng pháp dạy học Văn & Tiếng Việt

Mã số: 60.14.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS: NGUYỄN THANH HÙNG




THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
======    ======




HOÀNG THỊ HỒNG MINH






HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
VÀ THẢO LUẬN CÁC TẦNG Ý NGHĨA NHÂN SINH
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA

NGUYỄN MINH CHÂU






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC











THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1.Tác giả Nguyễn Minh Châu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1.2. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
2. Lịch sử vấn đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . .. .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7

5. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
6. Bố cục luận văn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài
1. Phương pháp phân tích và thảo luận trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chương: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10
Phương pháp phân tích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . 10
Phương pháp thảo luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15
Mối quan hệ giữa hai phương pháp trên trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chương. . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . .. 21
2. Các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương:. . . .. . . . . . . 26
Quan niệm về ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương .........26
Những biểu hiện cụ thể của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .26
Cách thức phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác
phẩm văn chương. . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27
Tầm quan trọng của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương và trong
việc giáo dục, đào tạo nhân cách học sinh . ...31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng II: Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
1. Phân tích kết cấu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa ” . .. . .. . . . . . . . ..33
Định nghĩa kết cấu tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
Kết cấu của truyện ngắn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
Kết cấu của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. . . . . . . . . . . 34
2. Phân tích chủ đề của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . 35
2.1 . Định nghĩa chủ đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
2.2. Chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . .. . . . . .35

2.3. Phân tích chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . 36
3. Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39
3.1. Những chiêm nghiệm về chân lý nghệ thuật qua hai phát hiện của
nghệ sĩ Phùng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 40
3.2. Những chiêm nghiệm về chân lý đời sống qua câu chuyện về cuộc
đời người đàn bà hàng chài .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43
3.2.1. Ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người qua hình
tượng nhân vật trung tâm: người đàn bà hàng chài . .. . . . . . . . 43
3.2.2. Lên án bạo lực trong gia đình qua hình tượng nhân vật người đàn
ông hàng chài . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 52
3.2.3. Cảnh báo những nguy cơ xã hội tiềm ẩn . . . . . . . . . . . . . . . . .. 54
3.2.3.1. Hình tượng nhân vật chú bé Phác . . . . . . . . . . . . . . . . .54
3.2.3.2. Hình tượng nhân vật người con gái . . . . . . . . . . . . . .. ..55
3.2.4. Sự thức tỉnh để nhận ra chân lý mới: chân lý về nghệ thuật và
chân lý về cuộc sống . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . ..56
3.2.4.1. Đối với người chánh án . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 56
3.2.4.2. Đối với người nghệ sĩ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. 58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
3.2.4.3. Quan niệm nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Minh Châu về
con người và cuộc sống . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 58
3.3. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống . . . . . . . . .. . . . . . . . . 59
4. Mối quan hệ đa dạng và thống nhất giữa các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”61
Chƣơng III: Thiết kế dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
1. Thiết kế. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . … 63
2. Giải thích thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .91
3. Hướng dẫn thực hiện thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ... . . . . . . . . . 92
Phần chung của thực hiện thiết kế . . . . . . . . . . . . . … . . . . . . . . .92

Phần cụ thể: Hướng dẫn học sinh vận dụng PP phân tích và PP thảo luận
trong việc tìm hiểu các tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện . . 95
Tự đánh giá về những ưu điểm và những bất cập của thiết kế . 99

PHẦN KẾT LUẬN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Tác giả Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn
học hiện đại nước nhà. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản
chiếu quá trình phát triển văn xuôi Việt Nam đương đại.
Là một nhà văn suốt đời khát khao khám phá cái đẹp và sự chân thực
trong cuộc sống, ông viết các tác phẩm với mong muốn:“Đi tìm chất ngọc ẩn
trong bề sâu tâm hồn con người”
Trước 1975, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đậm chất sử thi
và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu được bạn đọc biết đến và yêu
mến qua các tiểu thuyết: Cửa sông, Dấu chân người lính và truyện ngắn giàu
chất sử thi như Mảnh trăng cuối rừng …đã góp phần dựng lên bức tượng đài
về sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Trong những tác phẩm này, ý thức cộng đồng và tình yêu Tổ quốc là một
hệ quy chiếu duy nhất và cao cả nhất để định giá mọi quan hệ từ gia đình đến
xã hội, mọi tình cảm từ riêng đến chung của con người, trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh cần có sự đồng lòng nhất trí cao độ thì điều này là tất yếu.
Trong dòng chảy mãnh liệt của lịch sử thời đại chống Mỹ thì ngọn lửa kháng
chiến đã tôi luyện ngòi bút Nguyễn Minh Châu.
Sau 1975 khi hoàn cảnh xã hội thay đổi nền văn học mang âm hưởng sử
thi dần dần bộc lộ tính sơ lược công thức, có phần giản đơn phiến diện về con

người, lúc này khó có thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống mới với
những vấn đề phức tạp, bức xúc bộn bề. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời
thường, bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho mỗi người nói chung và cho các
nhà văn như Nguyễn Minh Châu nói riêng. Nguyễn Minh Châu đã có sự
chuyển hướng về tư duy nghệ thuật: từ cuộc “chiến đấu cho quyền sống của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
cả dân tộc”, nhà văn cùng đất nước chuyển sang cuộc “chiến đấu cho quyền
sống của từng con người” {12, 390} .
Là một nhà văn tâm huyết suốt đời trăn trở, băn khoăn như ngọn nến tự
đốt thân mình để cháy sáng; Nguyễn Minh Châu đã sớm ý thức được yêu cầu
phải đổi mới tư duy văn học và đã âm thầm tự đổi mới và tự tìm hướng đi cho
chính mình với một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư-thế sự: Cỏ lau, Cơn
giông, Bức tranh, Bến quê…
Những tác phẩm của ông giai đoạn này hấp dẫn người đọc bởi sự giản dị
mà chứa đựng chiều sâu nhân bản. Tâm điểm khám phá nghệ thuật của ông là
những con người bình thường trong cuộc mưu sinh và trong hành trình nhọc
nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt những năm cuối
đời, dòng mạch văn chương của ông xót xa trầm lắng trong bến bờ sâu thẳm
của nó – nơi ông hằng ám ảnh và manh nha tìm kiếm vấn đề số phận con
người. Thực tế văn học cho thấy: quá trình đổi mới ý thức nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu là quá trình trở về cội nguồn chủ nghĩa nhân văn, nối lại
truyền thống văn học trung đại thấm đẫm tình người tình đời, và là sự khơi
nguồn cảm hứng nhân văn cho những sáng tác trong những thập kỷ sau này.
Đánh giá về những tác phẩm của ông được viết vào những năm đầu của
thập kỷ 80 nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét:“Nguyễn Minh Châu là một
trong những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học nước
ta thời kỳ sau 1975”.
Các tác phẩm của ông trong mấy thập kỷ qua đã thu hút sự tìm tòi, nghiên
cứu một cách khoa học, sâu sắc và khách quan của các nhà phê bình và

nghiên cứu trong nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu ở phương diện nội dung và nghệ thuật để thấy được
những tìm tòi đổi mới trong cách viết của Nguyễn Minh Châu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Với những đóng góp trên, nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã
được chọn để giảng dạy trong nhà trường: Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê,
Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa. Đặc biệt là truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” –một tác phẩm mới được chọn đưa vào dạy trong các trường
THPT. Đây là một tác phẩm đương đại, đề ra những vấn đề trong cuộc sống
hôm nay, nên không xa lạ với học sinh. Đây cũng là tác phẩm hay và khó so
với sự tiếp nhận của học sinh, vì nó chứa đựng nhiều mặt, nhiều tầng ý nghĩa
ẩn không dễ tiếp cận.
2.2. Truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa”.
Là tác phẩm độc đáo về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho phong
cách nhà văn Nguyễn Minh Châu, và cũng tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời
sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện
thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy
luật tất yếu, lẫn những ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về
việc con người phải chấp nhận những nghịch lý không đáng có. Gánh nặng
mưu sinh đã đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong
cảnh tăm tối đói khổ, bấp bênh. Phía sau câu chuyện buồn này, trái tim nhân
hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ
đẹp của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không
phải là kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng; mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn
trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm hay, có sức hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc. Tác phẩm đưa ra những vấn đề nhân sinh rất gần gũi,
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 12 - lứa tuổi gần hoàn thiện
về mọi mặt những vấn đề thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày để học

sinh cùng suy nghĩ, tìm cách lý giải. Để từ đó học sinh tự nhận thức, tự giáo
dục và tự phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Những đặc sắc trong đổi mới về nội dung và nghệ thuật trong cách viết
của ông đã được một số bài viết đề cập đến ở nhiều khía cạnh, nhưng phương
pháp giúp học sinh tiếp cận các tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm này thì ít
người đề cập đến và chưa được nhất trí với nhau. Thực hiện đề tài hướng dẫn
học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm
này, tôi mong tìm hiểu sâu sắc hơn và giúp học sinh phân tích, thảo luận các
tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm đầy đủ hơn.
2. Lịch sử vấn đề.
Là một nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, kể từ truyện
ngắn đầu tay được đăng lần đầu tiên năm 1960, cho đến khi tạ thế 1989,
Nguyễn Minh Châu đã có 30 năm hoạt động trên các lĩnh vực báo chí và văn
học nghệ thuật. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà,
Nguyễn Minh Châu đã được nhận nhiều giải thưởng có giá trị.
- Giải thưởng Bộ Quốc phòng(1984-1989) cho toàn bộ tác phẩm của ông
viết về chiến tranh và người lính.
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam(1988-1989) cho tập truyện vừa
“Cỏ Lau”.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm:
“Dấu chân người lính, Cửa sông, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tầu tốc
hành”.
Toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu được in trong
“Nguyễn Minh Châu toàn tập” ( 5 tập) do NXB Văn học phát hành năm
2001 đã khẳng định vị trí của ông trong nền Văn học dân tộc.
Các sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn gây được sự chú ý và hấp dẫn
đối với bạn đọc nói chung và giới phê bình nói riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Chỉ trong khoảng 5 năm từ “Cửa sông” (1967) đến “Dấu chân người
lính” (1972) đã có hơn 17 bài phê bình đăng trên các báo và tạp chí Trung
ương.
Các bài viết về con người và tác phẩm của ông được tập hợp trong
“Nguyễn Minh Châu - Con người và Tác phẩm” do Nguyễn Trọng Hoàn
giới thiệu và tuyển chọn.
Đi sâu vào tìm hiểu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, tác
giả Tôn Phương Lan đã có công trình nghiên cứu khoa học riêng“Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu”.
Ngoài ra còn có nhiều chuyên luận, nhiều bài báo, khoá luận tốt nghiệp,
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ của sinh viên Đại học, Cao học và nghiên
cứu sinh về tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
Một số tác phẩm được chuyển thể sang kịch bản điện ảnh như:“Mảnh
trăng”,“Cỏ lau”,“Khách ở quê ra”.
Trong cuộc “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn
Minh Châu” do tuần báo Văn nghệ tổ chức vào tháng 6/1985, với sự tham
gia của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học lớn và sự có mặt
của Nguyễn Minh Châu thì còn có nhiều ý kiến khác nhau về những thành
công và hạn chế trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu. Những điều đáng
chú ý là hầu hết mọi người đều thừa nhận nét mới của ông không chỉ so với
các nhà văn cùng thời, mà còn so với chính ông thời kỳ trước đó: Đó là sự
đổi mới của nhà văn về tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người, phương thức thể hiện…
Giáo sư Phong Lê đã thấy được ở Nguyễn Minh Châu “cái đa giọng
điệu, cái đa thanh của cuộc đời đã đi vào tác phẩm” và do nhận thức “cái
quyết định không phải là đề tài” nên Nguyễn Minh Châu đã “dần dần tạo ra
thế giới nghệ thuật của riêng mình”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

Nếu những tác phẩm trước năm 1975 của Nguyễn Minh Châu đi theo
dòng chảy lịch sử giàu cảm hứng lãng mạn và đậm chất sử thi - anh hùng ca
được thể hiện qua hình tượng người lính mang trong mình những phẩm chất
cao đẹp, ý chí sức mạnh phi thường, kết tinh những vẻ đẹp tinh thần và lý
tưởng cao cả của dân tộc Việt Nam đã gây được những tiếng vang lớn (Cửa
sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng); thì ở những tác phẩm viết
sau 1975, nhà văn không đi theo những khuôn mẫu định hình sẵn có trước
đây. Đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 xuất
phát từ nhận thức sâu sắc: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm,
mà tâm điểm là con người([20,111]. Sau 1975, con người trở về với cuộc
sống đời thường, phải đối mặt với bao phức tạp trong cuộc sống thường nhật.
Bởi vậy hình tượng con người trong sáng tác của ông giai đoạn này không
còn mang vẻ đẹp lý tưởng hoàn hảo mà được khám phá trong nhiều hoàn
cảnh, với nhiều mối quan hệ phức tạp với những uẩn khúc tâm lý, những bi
kịch tâm hồn, những số phận trớ trêu qua đó thể hiện những chiêm nghiệm về
cuộc đời.
Quan tâm đến những số phận bất hạnh, lòng cảm thông thương xót của
Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở những mất mát, những số phận bi
kịch của con người trong và sau chiến tranh, mà đã tìm về cuộc sống thường
nhật trong mỗi gia đình, với tâm sự và số phận mỗi cá nhân, với niềm thao
thức thế sự. Ông luôn cảm thông chia sẻ với những bi kịch đời thường và thể
hiện niềm tin sâu sắc vào con người và cuộc sống. Quan niệm nghệ thuật về
con người và phương thức thể hiện của Nguyễn Minh Châu có nhiều đổi mới
mục đích: đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm đầy uẩn khúc với khát vọng
“Tìm ra con người trong con người” (Bakhtin). Qua việc đi sâu vào khám phá
con người cá nhân đời tư, con người bên trong không đồng nhất với chính
mình; ông thấy được trong tâm hồn mỗi con người cái cao cả và thấp hèn, lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
trí và bản năng,“rồng phượng và rắn rết”, “thiên thần và ác quỷ”; để từ đó

phát hiện ra quy luật của đời sống. Các tác phẩm được viết ở giai đoạn này đề
cập đến quyền con người, thức tỉnh ý thức cá nhân với khát vọng hoàn thiện
con người, khát vọng sống bình yên hạnh phúc và lòng cảm thương ưu ái đối
với thân phận con người. Với những thành công trên, một số tác phẩm giai
đoạn sau 1975 của ông được chọn đưa vào chương trình giảng dạy ở trường
phổ thông: Bức tranh, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn mới được đưa vào
giảng dạy ở bậc THPT, song cũng có nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên
cứu đi sâu vào phân tích những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật, tuy
nhiên về phương pháp giúp học sinh phân tích và thảo luận để tìm ra các tầng
ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm thì chưa được đề cập đến cụ thể và đầy đủ.
Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi muốn giúp học
sinh phân tích và thảo luận tác phẩm như là hai biện pháp dạy học phù hợp
với tác phẩm này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu các
tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những phương diện cơ
bản như: kết cấu, chủ đề của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, ý nghĩa
nhân sinh trong tác phẩm văn chương và các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Vận dụng hoạt động phân tích và thảo luận như những biện pháp
khám phá giá trị riêng của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” với các tầng
ý nghĩa nhân sinh của nó.
- Qua việc hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận, nhằm phát huy tính

tích cực, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giờ học tác
phẩm văn chương.
4.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu nét đặc sắc về giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật
trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, từ đó đề
xuất các biện pháp phân tích và thảo luận để học sinh phát hiện, bình giá các
tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện.
- Thực nghiệm dạy học nhằm khẳng định tính khả thi và hiệu quả qua
việc hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận như là hai phương pháp chủ
yếu và có mối quan hệ với nhau để cùng giáo viên khám phá chiều sâu của tác
phẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động phân tích và thảo luận.
2. Nghiên cứu thực tiễn qua việc thống kê khảo sát mức độ nắm vững
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, qua việc tìm hiểu
thực trạng việc đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận, qua
quan sát tính tích cực của học sinh, nhằm đánh giá khả năng vận dụng biện
pháp phân tích và thảo luận phù hợp với nội dung của đề tài.
6. Bố cục luận văn: Luận văn gồm ba phần:
* Phần mở đầu : Luận văn trình bày các nội dung sau:
- Lý do chọn đề tài
- Lịch sử vấn đề
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Bố cục của luận văn
* Phần nội dung: Gồm ba chương:
Chương 1: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài.

Chương 2: Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Thiết kế dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu.
* Phần kết luận:
* Danh mục các tài liệu tham khảo

B. PHẦN NỘI DUNG.
Chƣơng I: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
1. Phƣơng pháp phân tích và thảo luận trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chƣơng.
1.1: Phƣơng pháp phân tích:
Phân tích: Là bước tiếp theo của cơ chế tiếp nhận văn học. Nó là hoạt
động tìm hiểu chi tiết nghệ thuật những tình huống nổi bật của tác phẩm để
đạt được sự nhận thức sâu sắc; vì tác phẩm văn chương là một văn bản thống
nhất hữu cơ giữa nhiều sự kiện, nhiều chi tiết, yếu tố hợp thành.
Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng: Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối
tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm nên chỉnh thể sâu hơn. Đó là sự
mổ xẻ chỉnh thể tác phẩm, để khi ghép hợp lại những yếu tố đã phân tích theo
cách hoàn toàn khác thường sẽ phát hiện ra những khía cạnh bất ngờ của
chỉnh thể tác phẩm. Vì thực ra hoạt động phân tích đã bao gồm thao tác lựa
chọn và thao tác phối hợp. Ngoài việc phân tích mối liên hệ sự kiện của tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
phẩm, người viết còn phải phân tích mối quan hệ liên tưởng. Chính vì vậy, kết
quả của hoạt động phân tích chắc chắn sẽ đem lại sự phong phú và sâu sắc
hơn cho tác phẩm văn học [14, 148]
Việc phân tích tác phẩm thành nhiều yếu tố để xem xét là hoạt động rất
cần thiết để giúp người đọc không bỏ qua sự sáng tạo nào của tác giả, để có
thể nhìn tác phẩm một cách sâu hơn, kỹ hơn. Phân tích tác phẩm giống như

công việc tháo rỡ một cấu trúc để lần ra mối dây liên kết các thành phần. Từ
những nguyên liệu, bộ phận đã được tách rời ấy, người đọc bằng cảm nhận đã
sáng tạo riêng ra cấu trúc mới, điều này làm sáng tỏ nhiều ý nghĩa tiềm ẩn của
cấu trúc cũ. Nghĩa là: giữa văn bản của nhà văn và văn bản tạo lại của người
đọc không bao giờ tách nhau, nhưng cũng không bao giờ trùng khít nhau. Hai
thế giới nghệ thuật ấy sẽ soi sáng nhau, tạo nên một môi trường thẩm mỹ
dành cho độc giả.
Quá trình phân tích cũng là quá trình người đọc vừa khám phá cái đẹp của
tác phẩm bằng cách của chính mình, vừa hiểu thấu cái đẹp của sự sáng tạo,
vừa sáng tạo thêm cái đẹp cho tác phẩm. Khi phân tích tác phẩm văn học,
nhiều nhà nghiên cứu thường chú ý tìm hiểu những yếu tố ngoài văn bản như
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đây là định hướng ban đầu tạo điều kiện có
thể hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm. Song cạnh đó, khi phân tích phải đặc biệt
chú ý những yếu tố bên trong cấu trúc văn bản, bởi đây là một trong những
khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định.
Theo GS Trần Đăng Xuyền [34, 121] thì việc phân tích trực tiếp tác
phẩm được tiến hành theo 3 bước: Tổng – Phân – Hợp
* Bước 1: Đọc kỹ tác phẩm, cảm thụ tác phẩm qua trực giác bằng tình
cảm, lý trí trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó để nhận ra diện mạo, âm
hưởng, và tinh thần chung, cùng với những nét đặc sắc về nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Ấn tượng tổng hợp ban đầu về tác phẩm được hình thành trên cơ sở lắng
nghe tiếng nói của trực giác, của cảm xúc và sự rung cảm khi đọc tác phẩm, là
sự cảm nhận trực tiếp về vẻ đẹp và ý nghĩa hình tượng của tác phẩm. Tuy vậy
tình cảm, cảm xúc của chủ thể tiếp nhận còn dựa trên cơ sở hiểu biết khoa học
và quan niệm thẩm mỹ đúng đắn trên cơ sở của một vốn văn hoá sâu rộng và
vốn sống phong phú, chứ không phải là thứ tình cảm vu vơ. Cần tiếp nhận tác
phẩm văn học trên tổng thể, trong tính chỉnh thể của nó. Bởi mỗi tác phẩm
văn học là một chỉnh thể nghệ thuật tạo ra một xã hội riêng, một thế giới riêng

có tính hệ thống theo quy luật riêng của nó. Nên phân tích trực tiếp tác phẩm
bước đầu tiên là phải nắm bắt được chính xác tinh thần chung của tác phẩm.
Trong bước tổng hợp ban đầu cần chú ý tới đặc điểm thể loại của tác
phẩm. Thơ cần chú ý tới sự bộc lộ tình cảm của nhà thơ qua ngôn từ, hình
ảnh, nhịp điệu và nhạc điệu. Truyện cần chú ý đến cốt truyện, kết cấu, tình
huống truyện, nhân vật, nghệ thuật tự sự. Kịch cần chú ý tới xung đột kịch,
hành động của nhân vật…
* Bước 2: Phân tích chi tiết tác phẩm:
Đây là bước phân tích từng yếu tố, từng phương diện của tác phẩm qua
việc cảm thụ ở bước 1. Tìm hiểu những chi tiết, phân tích những yếu tố,
những mặt riêng biệt của tác phẩm nhằm phát hiện mối quan hệ giữa chúng để
đạt tới nhận thức chung sâu sắc hơn.
Trong một tác phẩm các yếu tố đều có mối quan hệ mật thiết với nhau
tạo nên chỉnh thể, song cần phải lựa chọn những yếu tố, tình tiết quan trọng,
kết tinh cao nhất tư tưởng và nghệ thuật tác phẩm để phân tích. Qua các chi
tiết cụ thể, có giá trị phải chỉ ra được các giá trị nội dung và nghệ thuật của
chi tiết đó.
Khi phân tích cần chú ý phân tích giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, phân
tích hình tượng nghệ thuật và chi tiết nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Phân tích giá trị thẩm mỹ của tác phẩm:
Giá trị này thể hiện cái hay của cái đẹp của nghệ thuật, nội dung quy
định hình thức: cái độc đáo, cái đơn nhất ở phương thức trình bày nghệ thuật
thể hiện trí tuệ, tài năng và trình độ tinh nhạy của tác giả.
Nói cách khác: giá trị thẩm mỹ là cái hay, cái đẹp của tác phẩm thể hịên
ở phương tiện ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, kết cấu, điểm nhìn, nhân vật
trữ tình…
- Phân tích hình tượng:
Nhà văn xây dựng hình tượng để khái quát hiện thực, cắt nghĩa đời sống,

thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Hình tượng nghệ thuật là bức tranh về
đời sống được nhà văn sáng tạo một cách khái quát, điển hình và là kết tinh
của những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời đã làm nhà văn phải trăn trở, day dứt.
Nó vừa cụ thể, vừa khái quát, có đặc điểm phi vật thể; nên khi phân tích hình
tượng nghệ thuật phải chú ý mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, tránh sa
đà vào sự kiện hoặc miêu tả lại nhân vật, tường thuật lại biến cố.
Phân tích hình tượng phải nắm được phương thức tạo hình tượng của tác
giả và phải đặt hình tượng trong mối tương quan chung của toàn tác phẩm
cũng như trong bối cảnh của xã hội. Khi phân tích tránh áp đặt cứng nhắc
những kiểu ý nghĩa cho hình tượng, làm mất đi, giảm đi ý nghĩa khái quát của
hình tượng và lệch đi so với dụng ý của tác giả.
Có hai loại hình tượng nghệ thuật khi phân tích phải nắm được đặc trưng
của nó: đó là hình tượng nhân vật và hình tượng cảm xúc. Khi phân tích hình
tượng nhân vật, phải chú ý phân tích quá trình phát triển của hình tượng tính
cách, mức độ điển hình hoá và giá trị thẩm mỹ của hình tượng. Còn khi phân
tích hình tượng cảm xúc phải chú ý đến cảm xúc chủ quan của tác giả.
- Phân tích chi tiết nghệ thuật:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Chi tiết nghệ thuật đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là những tác
phẩm tự sự là sự đan kết của hàng loạt chi tiết (riêng đối với những truyện
ngắn thì việc lựa chọn chi tiết càng đòi hỏi chặt chẽ)
Tuy nhiên không phải mọi chi tiết đều đem ra phân tích, mà phải phát hiện
ra những chi tiết mang chức năng nghệ thuật nổi bật, chi tiết tập trung hàm
lượng thông tin thẩm mỹ cao nhất.
Khi dạy những tác phẩm văn chương bắt buộc phải phân tích được những
chi tiết đặc sắc cơ bản của tác phẩm để nắm được chủ đề tư tưởng của tác
phẩm. Bỏ qua chi tiết quan trọng thì coi như chưa phân tích tác phẩm văn
chương.
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, trong đó các yếu tố,

các phương diện, chi tiết đều có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc và chi phối
lẫn nhau; nên khi phân tích cần phải tôn trọng tính chỉnh thể của tác phẩm.
* Bước 3: Tổng hợp trên cơ sở đã phân tích các chi tiết của tác phẩm
Phân tích vấn đề nhằm nắm bắt được giá trị của tác phẩm. Đây là bước
giáo viên hướng dẫn học sinh khám phá, nắm bắt chiều sâu của tác phẩm. Giá
trị của tác phẩm do hoạt động phân tích đem lại là lượng thông tin, là cái mới,
là sự khám phá phát hiện. Không có tác phẩm nào là không có vấn đề, nhưng
khi phân tích chúng ta phải tập trung vào những vấn đề làm nên cái hay cái
đẹp của tác phẩm, bởi những vấn đề đó lôi cuốn, hấp dẫn làm người đọc phải
tò mò, tranh cãi.
Khi phân tích một tác phẩm để nắm bắt được giá trị của nó, ta cần phân
tích một số vấn đề sau:
- Phân tích một vấn đề cơ bản nào đấy về nội dung và nghệ thuật.
- Phân tích tác phẩm gắn với đặc trưng thể loại, thi pháp và phong cách
nhà văn
- Phân tích quan điểm nghệ thuật của tác giả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
- Phân tích mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm.
Với tác phẩm tự sự cần chú ý phân tích thêm:
- Phân tích tình huống tự sự.
- Phân tích hình tượng nhân vật trung tâm.
- Phân tích phương thức kể chuyện trong tác phẩm.
Nhìn chung: Quá trình phân tích tác phẩm văn chương đòi hỏi phải linh
hoạt, sáng tạo, không thể dập khuôn máy móc; phân tích tác phẩm này không
thể giống với việc phân tích tác phẩm kia. Song ta có thể rút ra hai giai đoạn
của phân tích tác phẩm mang tính bắt buộc và tương đối ổn định là:
+ Lựa chọn các yếu tố để phân tích: Đây là giai đoạn đòi hỏi người đọc
phải tỉnh táo, tinh tế bóc tách lớp vỏ ngôn ngữ để tìm ra một loạt các mối
quan hệ chằng chịt và phát hiện được phương thức trình bày nghệ thuật của

tác phẩm.
+ Phối hợp các thao tác đã phân tích, khái quát hoá, tổng hợp để thấy được
chiều sâu của tác phẩm và dụng ý của tác giả.
Tổng hợp trên cơ sở đã phân tích các chi tiết của tác phẩm nhằm đưa
ra những tổng kết, nhận định, đánh giá khái quát, nâng cao giá trị của tác
phẩm giúp người đọc có nhận định, đánh giá đúng đắn, sâu sắc về tác phẩm
văn học hay hiện tượng văn học
Khi phân tích nên vận dụng 3 bước trên một cách linh hoạt.
1.2. Phƣơng pháp thảo luận:
Là một trong những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học theo hướng dạy học lấy hoạt động của học sinh
làm trung tâm, dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh. Trong cách dạy học tích cực có sự giao tiếp thường
xuyên qua lại giữa thày và trò, giữa trò với trò. Bài học được xây dựng từ
những đóng góp của học sinh thông qua các hoạt động học tập do thầy tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
chức và hướng dẫn; qua đó học sinh vừa nắm đựơc phương pháp đi tới kiến
thức. Theo phương pháp dạy học tích cực, dạy học không chỉ đơn giản là
cung cấp kiến thức mà còn phải hướng dẫn hành động.
Trong quá trình học tập, những ý nghĩ hình thành trong đầu óc học sinh
được diễn đạt thành lời dưới dạng nói thầm, nhưng vẫn chỉ là ở trạng thái tiềm
ẩn; chỉ khi chúng được đem ra trao đổi trong đối thoại, thảo luận thì chúng
mới không còn ở dạng tiềm ẩn nữa. Vì vậy trong quá trình dạy học cần tạo ra
những câu hỏi nêu vấn đề để kích thích suy nghĩ của học sinh; giáo viên
khuyến khích giúp đỡ học sinh bày tỏ ý kiến cá nhân về vấn đề đang cần được
giải quyết để học sinh tự đánh giá, trao đổi, thảo luận và đề xuất các giải
pháp. Thông qua thảo luận học sinh được bày tỏ suy nghĩ và hiểu biết của
mình trước mọi người để được chia xẻ, bổ sung, uốn nắn.
Theo GS.TS Trần Bá Hoành thì “Thảo luận là một dạng tương tác nhóm,

trong đó các thành viên hợp sức giải quyết một vấn đề đang cùng quan tâm,
nhằm đạt tới một sự hiểu biết chung về vấn đề đó. Muốn đạt được mục đích,
các thành viên trong nhóm phải mạnh dạn nói cho nhau nghe ý kiến của
mình, phải nghe lẫn nhau và có ý kiến phản hồi về những điều mình nghe
được. Phải biết lắng nghe lập luận của người khác, trung thực nói ra điều
mình cho là đúng hay sai, sẵn sàng chấp nhận những ý kiến đúng để điều
chỉnh quan điểm của mình”[13, 156-157]
Trong thảo luận, giáo viên phải là người tổ chức các tình huống dẫn tới
thảo luận, hướng sự chú ý của học sinh vào những điểm quan trọng nhằm đạt
mục đích của bài học, can thiệp khi cuộc thảo luận đi chệch hướng hoặc bế
tắc, dẫn dắt học sinh đạt được những cấp độ hiểu biết cao hơn. Vì vậy điều
khiển thảo luận là một việc khó, phải có sự chuẩn bị chu đáo, phải có kiến
thức vững. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu, có đầu óc nhạy bén
sáng tạo để có thể đóng vai trò là người gợi mở, trợ giúp, hướng dẫn, trọng tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
trong các hoạt động độc lập của học sinh, đánh thức năng lực tiềm tàng trong
học sinh. Giáo viên phải là người có năng lực lập kế hoạch và tổ chức, đưa ra
những câu hỏi gợi mở để qua thảo luận học sinh nắm được nội dung học tập
và gắn với thực tiễn.
Học sinh thảo luận dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh biết phân
tích, biết phê phán những ý kiến khác nhau trước một chủ đề nêu ra, biết lập
luận để bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể, có dịp suy nghĩ về một vấn đề
dưới nhiều góc độ, đưa ra những ý kiến mới mẻ. Thông qua thảo luận, tranh
luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,
qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải
chỉ dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của giáo viên.
Học sinh tham gia thảo luận sẽ được nâng cao dần khả năng diễn đạt ý
kiến của mình cho người khác nghe, và sau đó được tiếp nhận ý kiến phản hồi

về chất lượng ý kiến đã diễn đạt của mình. Học sinh phải tập diễn đạt ý kiến
bằng ngôn ngữ của mình thay vì nhắc lại lời trong SGK hoặc trong bài giảng
của giáo viên; học sinh phải biết sử dụng vốn từ vựng phù hợp với lĩnh vực
của vấn đề đang thảo luận, biết minh hoạ ý kiến của mình bằng các ví dụ,
hình ảnh, sơ đồ, biết tạo cơ hội cho những thành viên khác trong lớp thảo luận
nêu ra những ý kiến, hiểu biết của họ về vấn đề mình vừa mới trình bày. Tiến
hành hợp lý, sáng tạo phương pháp thảo luận sẽ lôi cuốn học sinh tham gia
tích cực vào hoạt động đánh giá và tự đánh giá.
Hoạt động thảo luận tạo ra hứng thú khám phá, đem lại niềm vui, thúc
đẩy động cơ bên trong của quá trình học tập. Qua việc thảo luận học sinh hiểu
sâu, nhớ lâu, biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học, đồng thời phát
triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Hoạt động thảo luận có thể tiến hành theo các bước sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1. Gv: Nêu vấn đề (chọn một số vấn đề cơ bản có chiều sâu, mang tính gợi
mở để thảo luận) để học sinh phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh.
2. Hs: Phát biểu vấn đề, đề xuất cách giải quyết (Học sinh bộc lộ quan
niệm, thái độ, tình cảm và kinh nghiệm sống của bản thân mình trước những
vấn đề nêu ra)
Gv: Tôn trọng câu trả lời của học sinh. Lắng nghe mọi ý kiến và khéo
léo khuyến khích, gợi ý, dẫn dắt để học sinh cùng trả lời và lôi cuốn các học
sinh khác cùng tham gia. Song giáo viên phải có định hướng để điều khiển
quá trình thảo luận giúp học sinh bám sát yêu cầu đã nêu ra
Giáo viên có thể gợi ý một số giải pháp để học sinh lựa chọn.
3. Kết luận:
Hs: Thảo luận và đánh giá kết quả : Khẳng định hay bác bỏ những cách
giải quyết đã nêu ra.
Gv: Phát biểu kết luận và đề xuất những vấn đề mới.
Thực tế dạy học cho thấy: trong một lớp học có những học sinh nói quá

nhiều, ngược lại một số học sinh khác thì rất ít hoặc không nói câu nào; một
số học sinh rất thông minh, nhanh trí, ngược lại có những học sinh tiếp thu
chậm; một số học sinh rất bạo dạn trong khi nhiều em khác lại nhút nhát. Vì
vậy trong giờ học có thể chia thành những nhóm nhỏ để thảo luận, trình bày
và nhận xét những ý kiến thảo luận của nhóm khác. Cách thảo luận nhóm tạo
điều kiện chocác thành viên trong nhóm bộc lộ tính cách và năng lực, cùng
chia sẻ suy nghĩ băn khoăn, cũng như những kinh nghiệm, hiểu biết của bản
thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới trong một môi trường quen
thuộc, thân thiện, gần gũi và hợp tác. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn
nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ phía giáo viên.
Trong thảo luận nhóm, mỗi thành viên trong nhóm nhỏ đều được hoạt
động tích cực không thể ỷ lại vào vài người năng động nổi trội hơn; những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
học sinh khá có thể hỗ trợ những học sinh yếu, bổ sung hiểu biết và kinh
nghiệm cho nhau. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả
học tập chung của cả lớp.
Theo GS-TS Trần Bá Hoành [13,59-60] thì hoạt động thảo luận nhóm có
thể tiến hành theo ba bước như sau:
+ Bước 1: Làm việc chung cả lớp.
Xác định nhiệm vụ nhận thức.
Tổ chức các nhóm và giao nhiệm vụ.
Hướng dẫn cách làm việc nhóm.
+ Bước 2: Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm, các cá nhân làm
việc độc lập.
Trao đổi ý kiến và thảo luận trong nhóm.
Ghi lại ý kiến thống nhất và cử đại diện trình bày kết quả.
+ Bước 3: Thảo luận và tổng kết trước lớp:
Các nhóm báo cáo kết quả.
Thảo luận chung.

Đánh giá và kết luận.
Nêu ra vấn đề mới.
Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm:
* Ưu điểm:
- Giờ học sôi nổi, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm làm quen,
trao đổi, hợp tác với nhau, bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mình về nội
dung và phương pháp học tập, giúp họ có nhiều cơ hội rèn luyện kỹ năng diễn
đạt và cách tư duy của mình.
- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học hỏi lẫn nhau, biết lắng nghe và
đánh giá ý kiến người khác, thể hiện quan điểm cũng như điều chỉnh suy nghĩ
của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
- Giáo viên nhận biết được những thông tin phản hồi về tri thức và kinh
nghiệm từ phía học sinh về nội dung bài học qua các phát biểu độc lập, sáng
tạo của học sinh.
* Hạn chế:
- Dù có nhiều ưu điểm, nhưng phương pháp thảo luận nhóm cũng có
những hạn chế khó khăn, nhất định.
- Để thảo luận có hiệu quả, giáo viên phải có kỹ năng chuyển tri thức
của mình thành những tình huống có vấn đề.
- Hiệu quả dạy học phụ thuộc vào tinh thần tham gia của mọi thành viên
trong nhóm.
* Để phương pháp thảo luận có hiệu quả, giáo viên phải lưu ý:
- Chia nội dung bài dạy thành những vấn đề nhỏ có kiên kết với nhau.
Mỗi vấn đề nhỏ có thể coi là một chủ đề thảo luận.
- Tại một thời điểm, có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một chủ
đề, hoặc cũng có thể giao cho mỗi nhóm thảo luận một chủ đề. Sự liên kết
giữa các nhóm sẽ tạo sự thống nhất và kết quả chung của bài dạy.
Áp dụng phương pháp thảo luận, trong giờ học học sinh được tranh luận

một cách công bằng dân chủ để tự phát hiện ra chân lý, làm giờ học sôi nổi.
Những lập luận mà giáo viên đưa ra phải có sức thuyết phục, để học sinh tự
công nhận bằng những suy nghĩ và cảm nhận của mình, tránh sự áp đặt gò ép.
Phương pháp thảo luận theo nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy tính
tích cực, tự lực, sự tự tin cho học sinh; phát triển năng lực giao tiếp, năng lực
cộng tác làm việc, tăng cường kết quả học tập cho học sinh. Nó dạy học sinh
cách suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề, cách học hỏi lẫn nhau trong thời đại
thông tin bùng nổ. Tuy nhiên phương pháp thảo luận bị hạn chế bởi thời gian
có hạn trong khi hoạt động thảo luận đòi hỏi phải linh hoạt về nội dung, tổ
chức, thời gian. Giáo viên quen với kiểu dạy thuyết trình, chưa có kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
nghiệm tổ chức dạy theo nhóm. Nên giáo viên phải biết định hướng dạy học,
lựa chọn nội dung, sắp xếp thời gian và tổ chức hợp lý mới đạt hiệu quả cao.
1.3: Mối quan hệ giữa hai phƣơng pháp trên trong quá trình dạy học
tác phẩm văn chƣơng.
Mục đích quan trọng nhất của môn văn nói chung và dạy học tác phẩm
văn chương nói riêng ở nhà trường PT là góp phần hình thành và phát triển trí
tuệ, tâm hồn, thẩm mỹ, hiểu biết, năng lực và nhân cách con người mới
XHCN cho mỗi học sinh một cách cân đối, toàn diện bằng phương tiện đặc
thù của văn học.
Theo GS. Nguyễn Thanh Hùng thì việc giảng dạy tác phẩm văn trong
nhà trường có mục đích chung là: “Phát huy sức mạnh trong đặc điểm nội
dung, hình thức tác phẩm văn để đào tạo, giáo dục nhân cách học sinh; làm
cho học sinh nhận ra giá trị nghệ thuật độc đáo của cách trình bày cuộc sống
theo một quan điểm thẩm mỹ nhất định của nhà văn và tạo nên vẻ đẹp chân
chính, mới lạ của tác phẩm. Từ đó giúp học sinh tích luỹ ngày càng phong
phú kinh nghiệm nghệ thuật để họ tự đọc, tự hiểu và thưởng thức được các tác
phẩm một cách độc lập. Để thoả mãn được mục đích tiếp cận trên không có
con đường nào khác là phải tìm hiểu, phát hiện, khám phá chiều sâu của tác

phẩm văn”[16, 108].
Dạy văn và dạy học tác phẩm văn chương còn phải đạt mục đích giáo
dục phẩm chất, nhân cách con người về tư tưởng, đạo đức, tình cảm thẩm mỹ.
Qua các giờ dạy - học văn, giáo viên phải thường xuyên giáo dục học sinh và
giúp học sinh tự giáo dục bằng các tri thức tiếp nhận được từ văn học: lòng
yêu nước, tinh thần nhân văn, lý tưởng sống cao đẹp, có thị hiếu thẩm mỹ cao,
lành mạnh, có văn hoá, có cá tính tích cực để từng bước hình thành nhân cách
người lao động mới.

×