Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản của công ty cổ phần May 10.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.76 KB, 91 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----o0o----
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
- Khoa thương mại
Tên tôi là: Phan Thị Cảnh
Lớp : Thương mại quốc tế
Khoá : 46
Hệ : Chính quy
Mã SV : CQ463340
Trong thời gian thực tập theo quy định của Nhà trường, tôi được thực
tập tại Phòng xuất nhập khẩu, công ty cổ phần May 10 (Sài Đồng – Long
Biên – Hà Nội). Tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản của công ty cổ phần May 10”
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi tìm hiểu, nghiên cứu
và viết trong quá trình thực tập tại công ty, không sao chép chuyên đề, luận
văn của các khoá trước. Nếu vi phạm tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Người viết
Phan Thị Cảnh
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới WTO là một cột mốc quan trọng, đánh dấu sự hoà nhập của Việt Nam
vào dòng chảy của nền kinh tế thế giới, đem lại nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam và cũng không ít khó khăn. Để tồn tại và phát triển, buộc
các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực đổi mới sản phẩm, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tìm kiếm khách hàng, thị trường, thay đổi phương thức kinh
doanh, phải có những thay đổi để thích ứng với môi trường kinh doanh.


Dệt may là một trong những ngành chịu ảnh hưởng khá lớn của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Trên thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp dệt may phải
dừng bước trước những khó khăn thách thức của quá trình hội nhập. Nhưng
cũng có những doanh nghiệp đứng vững và thích nghi được với môi trường
thời hội nhập, tận dụng được các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế và cùng
với điểm mạnh của doanh nghiệp mình dần vươn lên khẳng định vị trí của
doanh nghiệp. Nhận thức được điều đó, Công ty Cổ phần May 10 đã có
những thay đổi bước đầu trong phương thức sản xuất kinh doanh của mình.
Công ty đang chuyển dần từ hình thức sản xuất thụ động gia công sang
phương thức sản xuất chủ động tự kinh doanh bằng thương hiệu của mình. Để
làm được điều đó, công ty vừa phát triển mở rộng mạng lưới tiêu thụ ở trong
nước, vừa thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Nhật Bản là một
trong những thị trường xuất khẩu chính, một thị trường tiêu dùng lớn thứ hai
thế giới, hứa hẹn nhiều cơ hội cho công ty cũng như cho các doanh nghiệp
khác của nước ta khi xuất khẩu vào thị trường này. Nhưng Nhật Bản cũng
được đánh giá là một thị trường có không ít khó khăn đối với các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu vào thị trường này. Trong thời gian thực tập tại
công ty cổ phẩn May 10, cùng với những kiến thức đã được học và khả năng
của mình, tôi đã quyết định hoàn thành luận văn của mình với đề tài: “Một số
giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản của
công ty cổ phần May 10”.
2
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài này đi sâu vào việc tìm giải pháp cho một thị trường cụ thể, thị
trường Nhật Bản. Từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động xuất khẩu của công
ty sẽ giúp nhận thức được vị trí của công ty trên thị trường để có định hướng
phát triển trong tương lai. Đồng thời đưa ra được những giải pháp hữu ích để
công ty có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường Nhật Bản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn xuất khẩu hàng

may mặc sang thị trường Nhật Bản, thị trường tiêu dùng lớn thứ hai thế giới,
thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ ba của Việt Nam .
Phạm vi nghiên cứu: thực trạng và kết quả xuất khẩu của công ty cổ phần
May 10 sang thị trường Nhật Bản giai đoạn 2003 – 2007.
4. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của việc thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của
doanh nghiệp sang thị trường Nhật Bản
Chương II: Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Công ty cổ
phần May 10 sang thị trường Nhật Bản.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Công
ty cổ phần May 10 sang thị trường Nhật Bản.
Do kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn của
tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Mong nhận được sự đóng góp ý kiến
từ thầy cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc, các anh chị trong
Phòng Xuất nhập khẩu – Công ty cổ phần May 10 đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG MAY
MẶC CỦA DOANH NGHIỆP SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
I. Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu của doanh nghiệp
1. Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít
rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các
hàng hoá, dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện
trợ không hoàn lại thì hoạt động đó lại là việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ
qua biên giới quốc gia. (5, Trang 272)
2. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp

Khi tham gia kinh doanh trên thị trường quốc tế, mục tiêu của các doanh
nghiệp là mở rộng thị trường, tăng doanh số bán, tiếp thu kinh nghiệm. Xuất
khẩu là phương thức thâm nhập thị trường quốc tế ít rủi ro và chi phí thấp nên
được rất nhiều doanh nghiệp áp dụng trong thời gian đầu khi mới thâm nhập
vào thị trường quốc tế.
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, có thể coi nó là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất khẩu mang lại cho
doanh nghiệp nguồn lợi nhuận không nhỏ thông qua việc tăng doanh số bán.
Đây là vai trò quan trọng nhất của xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Trên thị trường quốc tế, mức độ cạnh tranh gay gắt hơn nên doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, phải khẳng định được uy tín
và thương hiệu của mình. Một khi doanh nghiệp có uy tín trên thị trường quốc
tế thì cũng tạo được sự tin tưởng lớn hơn đối với khách hàng trong nước. Nhờ
đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa sẽ cao hơn,
sức tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp tăng lên đáng kể, lợi nhuận cũng sẽ
tăng lên.
Xuất khẩu giúp doanh nghiệp tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý
kinh doanh, công nghệ, vốn, thị trường… và những bài học quốc tế quý giá.
4
Từ đó, họ có được những thủ thuật, chiến lược kinh doanh giúp việc kinh
doanh có hiệu quả hơn.
3. Các hình thức xuất khẩu
3.1 Xuất khẩu trực tiếp
Là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho các khách hàng ở thị
trường nước ngoài. Công ty sẽ thực hiện tất cả các chức năng của xuất khẩu.
3.2 Xuất khẩu gián tiếp
Là việc các công ty bán hàng hoá ra thị trường nước ngoài thông qua
người thứ ba (trung gian thương mại). Các trung gian thương mại chủ yếu
trong kinh doanh xuất khẩu là các đại lý, nhà môi giới. Với hình thức xuất
khẩu này công ty sẽ ít gặp rủi ro hơn nhưng lại thiếu sự liên hệ với thị trường,

không kiểm soát được thị trường và có thể mất đi những cơ hội kinh doanh.
3.3 Tái xuất khẩu
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu mà công ty xuất khẩu trở lại ra nước
ngoài những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu, không qua chế biến, gia
công tại nước tái xuất, nhằm thu về lượng ngoại tệ lớn hơn lượng ban đầu bỏ
ra. Luôn có ba chủ thể tham gia trong hình thức xuất khẩu này: bên xuất khẩu,
bên tái xuất khẩu và bên nhập khẩu.
3.4 Xuất khẩu đối lưu
Là hình thức mua bán hàng hoá quốc tế trong đó xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá bán
đi có giá trị tương đương với lượng hàng hoá nhận về. Nhờ hình thức kinh
doanh này, các bên có được hàng hoá phục vụ cho nền kinh tế đất nước khi
thiếu ngoại tệ để nhập khẩu, giảm được các thủ tục phức tạp về thanh toán.
3.5 Gia công quốc tế
Là hình thức kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia công) sẽ
cung cấp nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho bên khác (bên nhận gia
5
công) để chế biến ra sản phẩm theo yêu cầu, giao lại cho bên kia để nhận một
khoản tiền (được gọi là phí gia công)
3.6 Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu còn khá mới nhưng đã được phổ biến
rộng rãi. Các doanh nghiệp bán hàng hoá, cung cấp các dịch vụ của mình cho
các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân nước ngoài ngay trên lãnh thổ quốc gia
mình. Do đó, giảm được chi phí cũng như rủi ro, góp phần gia tăng lợi nhuận.
3.7 Xuất khẩu uỷ thác
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu trong đó các công ty chỉ đóng vai trò
trung gian xuất khẩu thực hiện những thủ tục cần thiết để xuất hàng thay cho
nhà sản xuất và hưởng phí uỷ thác.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng may mặc của doanh
nghiệp

4.1 Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp

Nhân tố kinh tế
Kinh tế ngày càng phát triển, sự phân công lao động và chuyên môn hoá
sản xuất ngày càng sâu sắc. Ngành sản xuất hàng may mặc có xu hướng
chuyển dần từ các nước công nghiệp mới NICs sang các nước đang phát triển.
Mặt khác, nhu cầu hàng may mặc ngày càng lớn. Đây là điều kiện thuận lợi
cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc phát triển.
Nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến quan trọng trong những năm
gần đây. Đặc biệt là sự gia tăng của hoạt động mua bán quốc tế. Số lượng các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc ngày càng
nhiều, làm ăn ngày càng có hiệu quả. Nhà nước và các Bộ ngành cũng tạo
điều kiện thuận lợi như cung cấp thông tin, tạo khung pháp lý… cho các
doanh nghiệp xuất khẩu phát triển.
Hiện nay, giá cả của các mặt hàng trên thế giới có xu hướng ngày càng gia
tăng, trong đó có giá nguyên phụ liệu phục vụ ngành may mặc. Mà Việt Nam
6
chủ yếu sử dụng nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu nên giá thành của sản
phẩm sẽ cao hơn, do đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam
trên thị trường thế giới.
• Nhân tố chính trị
Ảnh hưởng đến sự hình thành các cơ hội thương mại cũng như khả năng
hạn chế rủi ro, thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh
trên thị trường quốc tế. Chính trị ổn định thì việc kinh doanh sẽ giảm bớt
được rủi ro, có thể dự báo trước những rủi ro, thực những kế hoạch kinh
doanh dài hạn do nhu cầu của khách hàng thay đổi từ từ, có thể dự báo được.
Ngược lại, chính trị không ổn định rủi ro sẽ rất lớn do nhu cầu thay đổi đột
ngột, các hoạt động diễn ra khó khăn hơn…
Nước ta có tình hình chính trị ổn định trong suốt thời gian qua. Đây là một
lợi thế lớn đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn hợp tác làm ăn với các

doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
các nước trên thế giới không ngừng được mở rộng. Hiện nay, nước ta có quan
hệ ngoại giao với hơn 171 nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ buôn bán với
trên 100 nước và khu vực trên thế giới (trong đó có hiệp định thương mại với
64 nước), có quan hệ buôn bán với hàng nghìn tổ chức kinh tế thương mại của
các nước. Điều này có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, sự ổn định về chính trị của
các nước có quan hệ làm ăn với Việt Nam cũng tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp may mặc Việt Nam cơ hội tìm hiểu thông tin và nắm bắt được các cơ
hội kinh doanh ở từng thị trường, khu vực.
• Nhân tố luật pháp
Hoạt động xuất khẩu không chỉ chịu ảnh hưởng của luật pháp quốc gia mà
còn chịu ảnh hưởng lớn của luật pháp và thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, công bằng, minh bạch là một tiền đề quan trọng trong kinh doanh.
Tuy nhiên hệ thống luật pháp của nước ta còn thiếu, chưa đồng bộ, tốc độ
hoàn thiện còn chậm, chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế, một số
thủ tục hành chính còn rườm rà, chính sách thay đổi liên tục… Đây là bất lợi
7
lớn đối với các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng các kế
hoạch, các chiến lược phát triển, trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh, cơ
hội thu hút đầu tư trên trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nước ta đã
nỗ lực hoàn thiện hệ thống luật pháp theo tiêu chí đầy đủ, công khai, minh
bạch và công bằng, thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa. Xác
định dệt may là một trong những ngành chiến lược của nước ta nên nước ta
luôn có những văn bản pháp luật để hướng dẫn cũng như quy định về xuất
khẩu, có những quy định ưu đãi cho các doanh nghiệp dệt may như: không
phải nộp thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với nguyên phụ liệu nhập
khẩu từ nước ngoài hoặc mua trong nước phục vụ nhu cầu sản xuất hàng xuất
khẩu; hồ sơ xin Visa được giảm bớt nhiều giấy tờ; nếu thực hiện đầu tư mới

thì thu nhập thu được từ sự đầu tư đó được giảm 50% thuế thu nhập doanh
nghiệp trong hai năm tiếp theo; các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may với số
lượng dưới 20 tấn không cần phải có sự phê duyệt của liên bộ...
Bên cạnh đó cũng còn một số quy định làm giảm khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước so với các đối thủ nước ngoài. Ví dụ như quy
định của Bộ tài chính về chi phí dành cho quảng cáo của doanh nghiệp không
quá 7% tổng chi phí (trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài được phép
dành tối đa 50% tổng chi phí cho hoạt động quảng cáo. Điều này làm hạn chế
khả năng mở rộng thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam.
Luật pháp nước ngoài cũng ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp xuất
khẩu hàng may mặc. Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và khu
vực nên đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp
xuất khẩu nói chung phải hiểu biết về các quy định cũng như luật pháp của
các nước và các tổ chức mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Việt Nam là
thành viên của WTO thì phải thực hiện quy định về hàng dệt may (ATC), tức
là các nước phải dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch dệt may giai đoạn cuối cùng là
01/01/2005. Là thành viên của ASEAN thì phải tuân thủ các điều khoản của
CEPT/AFTA, tức là phải giảm thuế xuất nhập khẩu xuống từ 0 – 5% trong
vòng 10 năm…
8

Các rào cản đối với hàng may mặc xuất khẩu
Một số quốc gia thường dùng các biện pháp về thuế, hạn ngạch, các rào
cản kỹ thuật để bảo vệ ngành may mặc trong nước, ngăn chặn hàng may mặc
từ nước ngoài vào. Nhưng do xu hướng mậu dịch tự do hiện nay nên các nước
đó phải xoá bỏ dần các biện pháp về thuế, hạn ngạch đồng thời tăng dần các
rào cản kỹ thuật. Các rào cản thường được các nước nhập khẩu hàng may mặc
áp dụng là: tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về môi trường, trách
nhiệm xã hội, luật chống bán phá giá.
Các yêu cầu về chất lượng sản phẩm được tiêu chuẩn hoá thành hệ thống

tiêu chuẩn chất lượng ISO. Các hệ thống chất lượng như ISO 9000 – 2000,
ISO 9000 – 1994 được xem như là giấy thông hành khi các doanh nghiệp
tham gia kinh doanh xuất khẩu.
Không chỉ yêu cầu về chất lượng, các doanh nghiệp nhập khẩu còn yêu
cầu về vấn đề bảo vệ môi trường khi sản xuất sản phẩm. Chỉ thị về bao bì và
phế thải bao bì (96/62/EEC), hệ thống quản lý môi trường ISO 1400… là các
yêu cầu về môi trường được tiêu chuẩn hoá. Ngoài ra, một số quốc gia còn tự
đưa ra những quy định, điều kiện khác về môi trường liên quan đến việc sản
xuất hàng may mặc như quy định về dư lượng kim loại nặng trong thuốc
nhuộm vải, khoá kéo, khuy, nhãn mác sinh thái… Đối với các quốc gia đang
phát triển thì những quy định này vượt xa khả năng đáp ứng của nhiều doanh
nghiệp, trong số đó có Việt Nam (chưa doanh nghiệp nào đáp ứng được).
Trách nhiệm xã hội cũng là một yêu cầu khắt khe của một số quốc gia. Sản
phẩm phải được chứng minh là sản xuất trong điều kiện tốt, không có sự phân
biệt đối xử với người lao động, không sử dụng lao động trẻ em… Hệ thống
tiêu chuẩn phổ biến nhất của yêu cầu này là SA 8000. SA 8000 gồm 8 yêu cầu
chính: không sử dụng lao động trẻ em; không sử dụng lao động cưỡng bức;
bảo đảm đối xử bình đẳng đối với công nhân; bảo đảm quyền gia nhập công
đoàn của người lao động; bảo đảm việc trả tiền công đúng theo quy định của
pháp luật và theo cam kết; đảm bảo chế độ về giờ làm việc và giờ làm thêm;
bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động tại nơi làm việc; bảo đảm việc thực hiện
9
kỷ luật lao động không ảnh hưởng tới nhân phẩm và cuộc sống của người lao
động. Nó được xem như giấy thông hành cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng
may mặc, là chứng chỉ không thể thiếu được khi các doanh nghiệp thâm nhập
thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu. Tuy nhiên, ở nước ta số lượng doanh nghiệp
được cập chứng nhận đạt tiêu chuẩn SA 8000 còn khá ít. Đến nay mới chỉ có
25 doanh nghiệp được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn này như May 10,Công
ty dệt may xuất khẩu Việt Thắng, công ty xuất nhập khẩu dệt may Việt
Tiến… Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí để thực hiện cao và sau 3 năm lại

phải làm lại một lần.
Luật chống phá giá do Mỹ áp dụng đối với một số mặt hàng cũng gây khó
khăn cho không ít nước xuất khẩu. Việt Nam bị thiệt hại khá lớn trong hai vụ
kiện bán phá giá của Mỹ đối với mặt hàng cá tra, cá Basa và mặt hàng tôm.
Mặt hàng dệt may cũng đang có nguy cơ bị kiện bán phá giá. Vì vậy, Việt
Nam cũng cần chuẩn bị và cảnh giác với sự kiện này.
• Nhân tố văn hoá xã hội
Yếu tố văn hoá xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất
khẩu của doanh nghiệp. Nhu cầu của khách hàng về may mặc, hành vi mua
sắm của khách hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố văn hoá, nhất là các
phong tục tập quán. Thế giới có rất nhiều nền văn hoá đa dạng với rất nhiều
phong tục tập quán khác nhau. Vì thế, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu thật kỹ
về văn hoá, phong tục tập quán của quốc gia mà mình muốn thâm nhập. Đầu
tiên phải xem xét đến yếu tố dân số, nó quyết định quy mô thi trường và tính
đa dạng của nhu cầu. Thông thường dân số càng đông thì thị trường càng lớn,
nhu cầu và khối lượng tiêu thụ sản phẩm càng lớn, khả năng đảm bảo hiệu
quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp càng cao.
Tiếp đến là yếu tố thu nhập và phân bố thu nhập của dân cư. Thu nhập của
khách hàng được phân bổ cho những nhu cầu khác nhau theo các tỉ lệ khác
nhau với mức độ ưu tiên khác nhau. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại
sản phẩm, giá cả, hình thành nên những quan điểm khác nhau của khách hàng
về chất lượng sản phẩm. Để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần xem
10
xét kỹ yếu tố này nhằm lựa chọn được sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách
hàng cả về chủng loại, chất lượng và giá cả.
Đặc biệt, doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm đến yếu tố chủng tộc, sắc tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo và nền văn hoá. Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến
sự đa dạng của nhu cầu, quan điểm về sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm,
thói quen tiêu dùng, tập quán mua sắm… của khách hàng.


Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phải
kể đến các nước ASEAN như Thái Lan, Indonexia, Philippin, Singapore,…
Họ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn chúng ta: có sẵn thị trường, khoa học
công nghệ tiên tiến, các điều kiện phục vụ sản xuất tốt hơn, chi phí rẻ hơn…
Tại Châu Á, Trung Quốc là quốc gia phát triển rất mạnh, hiện chiếm khoảng
20% thị phần xuất khẩu hàng dệt may. Theo dự báo, đến trong vòng 10 năm
tới, con số này sẽ lên tới 50%. Tại các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc
chiếm khoảng 15% thị phần, với thị trường EU sẽ tăng từ 18% lên 29%. Việc
tăng thị phần của Trung Quốc tại các thị trường làm cho các quốc gia khác bị
mất bớt thị phần tại các thị trường trên thế giới. Đây là một đối thủ cạnh tranh
đáng “gờm” nhất. Hàng Trung Quốc có ưu điểm là giá rẻ nên dễ xâm nhập thị
trường hơn.
Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt Nam còn phải cạnh tranh với nhau trên thị trường nội địa
để giành hợp đồng, giành quota để vào các thị trường hạn ngạch, rõ nét nhất
là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Điều này có thể làm giảm giá trị của sản phẩm may
mặc (chênh lệch giữa giá nhận đơn hàng của sản phẩm may mặc với giá thành
sản xuất ngày càng ít), dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao. Tuy vậy, nó
cũng góp phần tạo ra động lực giúp các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát
triển sản xuất để có thể giành được chỗ đứng trên thị trường.
4.2 Nhân tố nội bộ doanh nghiệp
11

Nhân tố con người
Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu trong kinh doanh để đảm bảo sự thành
công. Nhờ con người, các yếu tố vốn, kỹ thuật, công nghệ,…mới có thể kết
hợp với nhau để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nếu
con người không có trình độ thì dù máy móc có hiện đại, vốn có lớn đến đâu

cũng không phát huy được tác dụng. Đặc biệt đối với những doanh nghiệp
thực hiện hoạt động xuất khẩu, phải tiến hành hoạt động kinh doanh của mình
tại thị trường nước ngoài, nơi có những đặc điểm hoàn toàn khác hẳn trong
nước về thị hiếu, sở thích, văn hoá, luật pháp… lại xa xôi về mặt địa lý. Nếu
đội ngũ cán bộ công nhân viên không có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ,
không tổ chức tốt bộ máy quản lý, mạng lưới thông tin thì việc kinh doanh sẽ
không có hiệu quả. Tổ chức quản lý tốt không chỉ quản lý tốt từng bộ phận
mà còn phải gắn kết được các bộ phận với nhau, tổ chức được mạng lưới
thông tin nội bộ doanh nghiệp. Các bộ phận phòng ban thực hiện những chức
năng, nhiệm vụ riêng biệt, tránh mâu thuẫn, chồng chéo, cạnh tranh không
lành mạnh giữa các bộ phận. Thực hiện tổ chức quản lý tốt làm cho doanh
nghiệp trở thành một khối thống nhất, hoạt động nhịp nhàng, liên tục, hiệu
quả cao hơn.
Nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, lao động có tay nghề cao, khéo
léo, dễ đào tạo là một lợi thế của các doanh nghiệp dệt may nước ta. Tuy
nhiên, năng suất lao động còn thấp, chỉ bằng 50 – 60% so với Trung Quốc và
các nước trong khu vực. Do đó, tuy giá nhân công của nước ta rẻ hơn nhưng
giá nhân công tương đối lại cao hơn các nước khác, dẫn đến làm tăng chi phí
và giảm lợi nhuận thu được. Đây là một khó khăn đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng may mặc của nước ta. Mặt khác, lao động trong ngành dệt
may nói chung phải làm việc vất vả nhưng giá lao động thấp nên họ thường
có xu hướng chuyển sang làm trong các ngành khác, gây ra tình trạng thiếu
lao động, tốn thêm chi phí đào tạo lao động mới. Bên cạnh đó còn có sự di
chuyển lao động giữa các doanh nghiệp. Những lao động có tay nghề và trình
độ cao thường chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang những doanh nghiệp
liên doanh, những doanh nghiệp nước ngoài do mức lương cao hơn và dành
12
cho họ những chế độ ưu đãi tốt hơn. Điều này dẫn đến tình trạng các doanh
nghiệp trong nước ngày càng bị thiếu hụt đội ngũ lao động có tay nghề và
trình độ cao, ảnh hưởng tới năng suất lao động của doanh nghiệp.


Nhân tố tài chính
Nhân tố tài chính quyết định quy mô của doanh nghiệp cũng như cơ hội
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông
qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào hoạt động kinh
doanh cũng như khả năng phân phối, sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn
vốn đó. Doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh thì sẽ tạo được niềm tin đối
với đối tác, tạo điều kiện tốt để thực hiện công tác nghiên cứu thị trường, nắm
bắt được cơ hội kinh doanh.
Đặc thù của các doanh nghiệp dệt may là phần lớn nguồn vốn kinh doanh
sử dụng là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại trong nước, các tổ
chức tín dụng nước ngoài (chiếm 70% tổng nguồn vốn kinh doanh). Hiệu quả
sử dụng nguồn vốn này của các doanh nghiệp dệt là không cao do lãi suất cao
và có xu hướng ngày càng tăng. Hiện nay, lãi suất của các ngân hàng tăng từ
12% lên 14 – 15%, dẫn đến làm tăng chi phí về vốn khiến cho các doanh
nghiệp khó khăn hơn trong việc đầu tư sản xuất, làm giảm hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp dệt may nước ta đã tiến hành cổ phần hoá nên
huy động được nguồn vốn của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp nên
cũng góp phần vào việc đáp ứng yêu cầu về vốn để mua nguyên phụ liệu phục
vụ sản xuất.

Nhân tố công nghệ
Trình độ tiên tiến, hiện đại của máy móc trang thiết bị ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất lao động, chi phí, giá thành cũng như chất lượng hàng hoá,
quyết định mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng, khả năng cạnh tranh,
khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp… từ đó góp phần
khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Một doanh nghiệp được
13
trang bị máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại sẽ có khả năng cạnh tranh cao

hơn các doanh nghiệp khác.
Các doanh nghiệp dệt may nước ta phần lớn đều có các trang thiết bị hiện
đại, được cung cấp từ các nước Trung Quốc, Đức, Mỹ,…. Các trang thiết bị
ngày càng đa dạng, hiện đại đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Thực hiện việc
chuyển giao công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp tiếp xúc được với các trang thiết
bị hiện đại, có quyết định đầu tư phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của mình.

Chu trình quản lý và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
Chu trình quản lý hiện đại và chuyên nghiệp là một thế mạnh của doanh
nghiệp xuất khẩu hàng may mặc khi ký kết hợp đồng với các đối tác nước
ngoài. Điều này được thể hiện ở định mức nguyên phụ liệu thấp, hao phí
nguyên phụ liệu nhỏ, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao. Tuy
nhiên hiện nay chỉ có một số doanh nghiệp Việt Nam đạt tiêu chuẩn về chu
trình quản lý hiện đại như công ty cổ phần May 10, công ty may Nhà Bè,
công ty may An Phước… Các công ty này được đầu tư các trang thiết bị hiện
đại, áp dụng quy trình quản lý tiên tiến, đáp ứng được yêu cầu của đối tác.
Chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến
xuất khẩu của doanh nghiệp, bởi khách hàng nước ngoài thường có yêu cầu
cao về chất lượng hàng hoá. Hàng hoá có chất lượng tốt thì mới thu hút được
khách hàng, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tạo điều kiện nâng cao giá
bán mà không làm ảnh hưởng đến doanh số, từ đó tạo dựng được uy tín của
doanh nghiệp. Ngược lại, hàng hoá chất lượng kém sẽ ảnh hưởng đến doanh
số bán, giảm uy tín của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp may mặc Việt
Nam cần chú ý đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng quản lý, không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo ra những sản phẩm phù hợp với
nhu cầu của người tiêu dùng, đảm bảo giá cả phải chăng, chất lượng ổn định.

Thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp
14

Thương hiệu và uy tín là tài sản vô giá đối với mọi doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp có thương hiệu và uy tín trên thị trường sẽ tạo được niềm tin đối
với người tiêu dùng và đối tác. Đây là nguyên nhân quan trọng để khách hàng
lựa chọn doanh nghiệp làm bạn hàng của họ.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc, thương hiệu và uy tín
của doanh nghiệp thể hiện ở chất lượng sản phẩm, ở việc thực hiện tốt hợp
đồng đối với đối tác… (như giao hàng đúng hợp đồng, đúng thời gian quy
định). Số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng may mặc trên thế
giới ngày càng tăng. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì
phải tạo được thương hiệu và uy tín của mình thông qua việc: không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ bán hàng và sau
bán hàng, thực hiện tốt hợp đồng đã ký kết như giao hàng đúng số lượng, chất
lượng, đúng thời gian,.. Có như thế thì doanh nghiệp mới tạo được niềm tin
đối với người tiêu dùng cũng như với đối tác kinh doanh của mình. Người
tiêu dùng và đối tác sẽ nghĩ đến doanh nghiệp đầu tiên khi họ có nhu cầu về
mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Cũng nhờ đó mà doanh
nghiệp có thể duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác kinh doanh.
II. Nội dung hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
1. Các nội dung của hoạt động xuất khẩu
1.1 Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Đây là bước đầu tiên mà bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia kinh doanh
trên bất kỳ thị trường nào cũng phải thực hiện để đưa ra được những phương
án kinh doanh hiệu quả nhất. Chúng ta có thể sử dụng nguồn thông tin sơ cấp
hoặc thứ cấp khi nghiên cứu thị trường. Có hai phương pháp để tiến hành
nghiên cứu thị trường:
• Nghiên cứu tại bàn: nghiên cứu thị trường một cách khái quát thông qua
việc sử dụng nguồn thông tin thứ cấp, đó là các thông tin có sẵn trong các báo
cáo, trong các nghiên cứu của các cơ quan quản lý…
15
• Nghiên cứu tại hiện trường: nghiên cứu thị trường một cách chi tiết

thông qua nguồn thông tin thứ cấp. Đó là nguồn thông tin mà doanh nghiệp
phải bỏ kinh phí, thời gian, nhân lực… để tìm hiểu thực tế thị trường nhằm
thu thập được những thông tin cần thiết.
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường doanh nghiệp phải nghiên cứu những
nội dung chủ yếu sau:
+ Hàng hoá trên thị trường: nghiên cứu cả về mặt định tính và định lượng.
Về định tính, cần nghiên cứu nhu cầu của thị trường, chu kỳ sống sản phẩm,
tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng… để rút ra kết luận là sản phẩm
có xuất khẩu được không. Về định lượng, cần xem xét xem hàng hoá đó nếu
xuất khẩu có đạt hiệu quả không thông qua việc xác định các chỉ tiêu như tỷ
suất ngoại tệ xuất khẩu, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu, theo chi phí…
+ Dung lượng thị trường: nghiên cứu lượng cầu thị trường, thị hiếu người
tiêu dùng, sức cung của nhà cung cấp, nhà phân phối hiện tại trên thị trường
để xác định xem dung lượng thị trường lớn hay nhỏ.
+ Giá cả hàng hoá quốc tế: nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá và
cơ sở để xác định giá quốc tế.
+ Nghiên cứu bạn hàng: về các thông tin như tư cách pháp lý, năng lực tài
chính, uy tín và mức độ ảnh hưởng trên thị trường, quan điểm kinh doanh…
Ngoài ra có thể nghiên cứu một số nội dung như sức ép cạnh tranh trên thị
trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng thâm nhập thị trường…
1.2 Lựa chọn đối tác và lập phương án kinh doanh
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp tiến hành nghiên
cứu lựa chọn mặt hàng, thị trường, đối tác phương thức kinh doanh rồi từ đó
lập ra các phương án kinh doanh.
Để xác định được mặt hàng xuất khẩu thì công ty phải xem xét quy định
của Chính phủ, của pháp luật về hàng hoá doanh nghiệp định xuất khẩu,
những yếu tố liên quan đến khách hàng và thị trường về hàng hoá định xuất
khẩu…
16
Khi lựa chọn thị trường xuất khẩu doanh nghiệp dựa vào những thông tin

về cung cầu, mức độ ổn định về các mặt kinh tế, xã hội, mục tiêu của doanh
nghiệp để từ đó đưa ra được cách thức thâm nhập thị trường sao cho hiệu quả
nhất, xác định được thị trường mục tiêu của doanh nghiệp.
Lựa chọn đối tác kinh doanh của doanh nghiệp (đối tác cung cấp nguyên
vật liệu đầu vào, đối tác cung cấp tín dụng, bạn hàng xuất khẩu…) theo các
tiêu chí đã đề ra thông qua sự hợp tác từ trước đến nay, qua giới thiệu, qua
quảng cáo...
Sau khi lựa chọn được mặt hàng, thị trường và lựa chọn được đối tác kinh
doanh, doanh nghiệp tiến hành xây dựng phương án kinh doanh để thực hiện
mục tiêu của mình.
1.3 Lựa chọn hình thức và biện pháp giao dịch đàm phán để ký kết hợp
đồng xuất khẩu
Công tác giao dịch và đàm phán vô cùng quan trọng trong việc đưa ra các
điều khoản chủ yếu của hợp đồng các bên. Mục đích cuối cùng của công tác
giao dịch và đàm phán là ký kết được hợp đồng. Đó là sự thoả thuận giữa các
bên về việc mua bán hàng hoá quốc tế: bên bán có nghĩa vụ chuyển cho bên
mua quyền sở hữu hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán
tiền hàng. Tuỳ thuộc vào điều kiện và mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp mà
đưa ra hình thức giao dịch và đàm phán phù hợp. Các điều khoản chủ yếu
trong hợp đồng là: điều khoản về tên hàng, chất lượng, số lượng, bao bì và kí
mã hiệu hàng hoá, giá cả hàng hoá, điều khoản về giao nhận hàng, điều khoản
về thanh toán .
1.4 Công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu
Công tác tạo nguồn được thực hiện sau khi doanh nghiệp đã ký kết hợp
đồng xuất khẩu. Kế hoạch tạo nguồn được xây dựng và thực hiện tuỳ thuộc
vào mặt hàng mà doanh nghiệp xuất khẩu. Đối với các công ty sản xuất thuỷ
hải sản thì việc tạo nguồn được thực hiện là việc thu mua nông sản, tiến hành
sơ chế hay sản xuất tiếp tuỳ thuộc vào yêu cầu hàng hoá và yêu cầu của khách
17
hàng. Đối với các công ty sản xuất hàng xuất khẩu như hàng may mặc, việc

tạo nguồn là việc mua nguyên vật liệu đầu vào, sau đó tiến hành phân công
sản xuất đến từng phân xưởng, cá nhân cụ thể.
Để thực hiện tốt công tác tạo nguồn, doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ các
nguồn cung ứng nguyên vật liệu sao cho đáp ứng các yêu cầu trong hợp đồng
đã ký. Các doanh nghiệp thường ưu tiên lựa chọn các nhà cung ứng có mối
quan hệ làm ăn lâu dài, giá cả và chất lượng sản phẩm ổn định. Các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng may mặc nước ta phải lựa chọn nguồn nguyên vật liệu
nước ngoài với giá thành cao hơn do khả năng sản xuất trong nước hạn chế và
yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm của khách hàng.
1.5 Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Đây là công việc chính trong quá trình xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp xuất khẩu tiến hành tổ chức thực hiện hợp đồng theo đúng quyền và
nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp thường làm
những việc sau:
+ Xin giấy phép xuất khẩu: đối với mặt hàng Nhà nước quản lý bằng giấy
phép, doanh nghiệp phải gửi đơn lên cơ quan có thẩm quyền để xin cấp giấy
phép xuất khẩu.
+ Bước đầu thực hiện những công việc của khâu thanh toán và chuẩn bị
hàng hoá: tuỳ thuộc vào phương thức thanh toán được quy định trong hợp
đồng mà doanh nghiệp tiến hành thực hiện các công việc của khâu thanh toán.
Sau đó tiến hành chuẩn bị hàng hoá theo hợp đồng đã ký theo các bước tập
trung hàng hoá thành lô hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì, kẻ ký mã hiệu hàng
xuất khẩu.
+ Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu: doanh nghiệp xuất khẩu có nghĩa
vụ tiến hành kiểm tra chất lượng hàng hoá trước khi giao hàng (về phẩm chất,
số lượng, trọng lượng, bao bì…)
18
+ Thuê phương tiện vận tải: nếu hợp đồng quy định phương tiện vận tải
thức hiện theo điều kiện C hoặc D thì doanh nghiệp xuất khẩu có nghĩa vụ

thuê tàu.
+ Mua bảo hiểm: nếu trong hợp đồng có quy định thì doanh nghiệp xuất
khẩu phải mua bảo hiểm cho hàng hoá.
+ Làm thủ tục hải quan cho lô hàng xuất khẩu: gồm các việc khai báo hải
quan, xuất trình hàng hoá và thực hiện các quy định của cơ quan Hải quan.
+ Tiến hành các thủ tục để bên mua thanh toán tiền hàng: tuỳ thuộc vào
phương thức thanh toán mà doanh nghiệp thực hiện các công việc để được
bên mua thanh toán tiền hàng.
+ Giải quyết khiếu nại (nếu có)
1.6 Đánh giá kết quả thực hiện
Sau khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp cần tiến hành đánh
giá kết quả của hoạt động xuất khẩu đã đạt được. Mục đích là đánh giá những
việc đã thực hiện tốt, những việc thực hiện chưa tốt, nguyên nhân những mặt
trên cũng như rút ra được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện
hợp đồng. Từ đó, doanh nghiệp sẽ lên được kế hoạch cho quá trình kinh
doanh tiếp theo. Các chỉ tiêu thường sử dụng để đánh giá kết quả xuất khẩu
của doanh nghiệp là: tổng doanh thu xuất khẩu, tổng chi phí thực hiện, lợi
nhuận xuất khẩu, so sánh giá xuất khẩu với giá quốc tế…
2. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đối với doanh nghiệp
2.1 Sự cần thiết của việc thúc đẩy xuất khẩu
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, không một quốc gia
nào có thể phát triển mà không mở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là
một trong những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng
nhất. Như đã phân tích, xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của một quốc gia. Vì thế, nhiều quốc gia xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất
quan trọng. Thúc đẩy xuất khẩu giúp các nước trên thế giới có thể khai thác
triệt để tiềm năng, thế mạnh của mình, đồng thời giảm thiểu được những bất
19
lợi, từ đó tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, giúp người tiêu dùng có thể được
tiêu dùng nhiều hơn với giá cả thấp hơn. Cũng nhờ đó, các quốc gia trên thế

giới có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn, giảm dần chênh lệch giữa các quốc
gia, góp phần làm cho quá trình phân công lao động quốc tế được thuận lợi
hơn.
Đối với Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc
thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đây là một hướng
đi đúng đắn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi mà thị trường trong nước
ngày chật hẹp và sức cạnh tranh từ hàng hoá ngoại nhập ngày càng tăng. Nhờ
thúc đẩy xuất khẩu doanh nghiệp có thể:
+ Có cơ hội mở rộng thị trường: được hoạt động trên thị trường thế giới
rộng lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng, sức tiêu thụ hàng hoá cao, khả năng
thu được nhiều lợi nhuận hơn.
+ Cơ hội mở rộng mối quan hệ làm ăn kinh doanh với các đối tác nước
ngoài, có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng để hoàn thiện hoạt
động kinh doanh của mình.
+ Góp phần cải thiện đời sống người công nhân, giảm tỉ lệ thất nghiệp, gia
tăng kim ngạch xuất khẩu.
2.2 Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm, điều kiện riêng với những mục tiêu
khác nhau. Vì thế, biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp cũng
khác nhau. Mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn những giải pháp phù hợp nhất với
điều kiện, mục tiêu của mình sao cho đem lại hiệu quả cao nhất. Các biện
pháp thường áp dụng là nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả
hoạt động của bộ máy tổ chức, hoàn thiện hoạt động marketing…
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm là mối quan tâm
hàng đầu của khách hàng cũng như doanh nghiệp. Nó là một trong những yếu
tố góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Sản phẩm muốn xuất khẩu được phải đảm bảo yêu cầu về chất lượng và
20
không ngừng nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
khách hàng. Một khi sản phẩm không đảm bảo yêu cầu sẽ không được xuất

khẩu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trên tất cả các mặt, có khi gây hậu quả nghiêm trọng. Chất lượng của
sản phẩm dịch vụ được thể hiện qua các tính năng và mức độ thoả mãn nhu
cầu, mục đích sử dụng của khách hàng. Nhưng các tính năng này được hình
thành qua nhiều quá trình chứ không phải do một khâu nào đó trong một quá
trình. Do đó, chất lượng sản phẩm phải được chú ý ở tất cả các khâu, các quá
trình.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức, chất lượng nguồn
nhân lực: đây là một trong những giải pháp hữu hiệu góp phần thúc đẩy xuất
khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có sự sắp xếp, phân công công
việc một cách hợp lý giữa các bộ phận phong ban, giữa các cá nhân. Mỗi bộ
phận, phòng ban, mỗi cá nhân đảm nhiệm những nhiệm vụ cụ thể, các nhiệm
vụ đó được chia càng nhỏ càng tốt. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần
tập thể của tất cả các cá nhân, xây dựng tác phong làm việc công nghiệp, hiện
đại trong toàn doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường công tác đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực. Đối với cán bộ quản lý, nâng cao kiến thức và khả năng
làm việc, nhất là những cán bộ liên quan trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Nâng cao trình độ, tay nghề của công nhân, những đối tượng ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng sản phẩm. Để làm được điều này, doanh nghiệp phải làm
tốt ngay từ khâu lựa chọn, tuyển dụng kết hợp với việc tổ chức các chương
trình đào tạo, các cuộc thi tay nghề trong quá trình sản xuất. Có những chính
sách khuyến khích khả năng sáng tạo của cán bộ, công nhân viên. Nhờ thế,
năng suất lao động sẽ tăng lên, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
+ Tổ chức tốt công tác tạo nguồn: công tác tạo nguồn có vai trò rất quan
trọng đối với doanh nghiệp. Nó quyết định tiến độ của quá trình sản xuất kinh
doanh, quyết định chất lượng sản phẩm, từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến lợi
nhuận, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần tổ
chức tốt công tác tạo nguồn, đảm bảo yêu cầu: đúng, đủ, đồng bộ, chất lượng,
21

kịp thời. Để thực hiện được yêu cầu đó cần phải tìm được những nhà cung
cấp có uy tín, có giá cả và chất lượng ổn định. Doanh nghiệp phải duy trì mối
quan hệ làm ăn lâu dài với những nhà cung cấp đó, đồng thời phải tổ chức tốt
việc dự đoán cung cầu nguồn hàng trên thị trường hiện tại cũng như tương lai,
dự đoán tình hình biến động của giá cả. Có như thế, doanh nghiệp mới khai
thác được những lợi thế của mình và tận dụng được thuận lợi mà nhà cung
cấp dành cho mình. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc nước
ta thì việc thiết lập mối quan hệ làm ăn chặt chẽ và lâu dài với các nhà cung
cấp có vai trò rất quan trọng. Các doanh nghiệp này còn yếu về mặt nguyên
vật liệu sản xuất chính, nên chủ yếu thực hiện gia công, sản xuất thuê cho
nước ngoài. Vì thế phải phụ thuộc rất lớn vào các nhà cung cấp nước ngoài.
Việc tìm được nhà cung cấp có uy tín, đảm bảo về chất lượng, giá cả hợp lý
và có sự ổn định về giá cả, chất lượng là một việc làm không dễ. Chính vì
vậy, doanh nghiệp nào có những nhà cung cấp riêng, duy trì được mối quan
hệ chặt chẽ, lâu dài với các nhà cung cấp là một giải pháp hữu hiệu thúc đẩy
xuất khẩu.
+ Hoàn thiện hoạt động Marketing: đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng, vai trò của hoạt động
marketing rất quan trọng. Bên cạnh việc duy trì những thị trường truyền thống
doanh nghiệp phải tìm hiểu, nghiên cứu thị trường để tìm ra những thị trường
mới và tiến hành thâm nhập bằng các công cụ phù hợp. Một trong những vấn
đề được quan tâm nhất hiện nay của các doanh nghiệp là thương hiệu. Đây là
yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn sản phẩm của khách
hàng, nó thể hiện vị thế của doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Một sản
phẩm có thương hiệu được khẳng định trên thị trường quốc tế chắc chắn tìm
được chỗ đứng lâu dài hơn trong lòng người tiêu dùng.
Ngoài ra, còn có các biện pháp khác như biện pháp về công nghệ, khả
năng ứng dụng thương mại điện tử,…để thúc đẩy xuất khẩu của doanh
nghiệp. Công nghệ có tiên tiến, hiện đại và có kế hoạch đổi mới, chuyển giao
công nghệ thì mới nâng cao được chất lượng sản phẩm, giảm bớt các khâu,

các gia đoạn không cần thiết, hạn chế lao động thừa. Áp dụng thương mại
22
điện tử là một giải pháp mới, thật sự cần thiết trong thời đại công nghệ thông
tin hiện nay. Nhờ thương mại điện tử doanh nghiệp giảm bớt được chi phí,
thời gian, nhân lực, thương hiệu của doanh nghiệp được quảng bá rộng khắp
hơn, có thể tìm được những đối tác lơn với những hợp đồng xuất khẩu có giá
trị lớn…
III. Khái quát về thị trường hàng may mặc Nhật Bản
1. Đặc điểm về thị trường về may mặc
Đặc điểm của sản phẩm may mặc: sản phẩm may mặc không chỉ phục vụ
nhu cầu may mặc thiết yếu mà còn phục vụ nhu cầu thời trang của của khách
hàng ở các quốc gia khác nhau. Sản phẩm may mặc có những đặc điểm cơ
bản sau:
+ Là nhu cầu tất yếu của con người. Dù người già hay trẻ, giàu hay nghèo
thì không thể không dùng sản phẩm may mặc. Do đó, mặt hàng này rất phong
phú và đa dạng do lứa tuổi, sở thích, thị hiếu, phong tục tập quán… khác
nhau.
+ Là sản phẩm có tính thời vụ cao. Sản phẩm may mặc phụ thuộc rất nhiều
vào thời tiết. Trên thế giới có nhiều khu vực địa lý khác nhau với khí hậu
khác nhau và thay đổi theo mùa. Sản phẩm may mặc phải thay đổi theo từng
vùng, theo từng mùa khác nhau. Do vậy, các doanh nghiệp phải tìm hiểu về
thời tiết, khí hậu của thị trường mà mình kinh doanh để đạt được hiệu quả cao
hơn.
+ Là sản phẩm có tính thời trang cao. Xã hội ngày càng phát triển, mức
sống của dân cư ngày một được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm may mặc
được xem là nhu cầu làm đẹp, nhu cầu thời trang, không đơn thuần là mặc
như trước đây. Nhu cầu hàng may mặc luôn thay đổi theo thời gian, theo
phong cách và cá tính của từng người.
+ Chu kỳ sống sản phẩm ngắn. Mỗi sản phẩm may mặc gắn liền với một
mẫu mã, kiểu cách nhất định, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng tại

23
thời điểm nó được tung ra thị trường. Sau đó sẽ bị lỗi mốt, không còn được ưa
chuộng và thay vào đó là sự xuất hiện của sản phẩm mới hợp thời trang hơn.
+ Việc sản xuất hàng may mặc cần nhiều nhân công và cần có sự khéo léo,
tỉ mỉ vì để sản xuất ra một sản phẩm phải trải qua rất nhiều công đoạn: thiết
kế, cắt, may, thuê thùa, là…
+ Chất lượng của hàng may mặc có nhiều cấp độ khác nhau, từ bình dân
đến cao cấp tuỳ thuộc vào thu nhập của từng người. Tuy nhiên, hàng may mặc
xuất khẩu hiện nay phải đáp ứng những yêu cầu khắt khe chất lượng như yêu
cầu về nguồn gốc xuất xứ của nguyên vật liệu, tiêu chuẩn về môi trường…
Đây là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc.
Đặc điểm của thị trường may mặc :
+ Thị trường hàng may mặc luôn sôi động với những hoạt động mua và
bán bởi vì sản phẩm may mặc là mặt hàng thiết yếu, nhu cầu về sản phẩm
may mặc rất phong phú, đa dạng, số lượng lớn và thường xuyên.
+ Thị trường không co giãn về giá. Vì sản phẩm may mặc yêu cầu về công
nghệ thấp hơn các sản phẩm nên mặc dù gia thay đổi nhưng cầu trên thị
trường không đổi, cạnh tranh về giá không quan trọng.
+ Những nhà kinh doanh, phân phối có uy tín, tên tuổi trên thị trường là
lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng khi mua sản phẩm may mặc do người
tiêu dùng chịu ảnh hưởng của nhãn hiệu và vị thế của nhà phân phối, nhà kinh
doanh khi quyết định mua sản phẩm.
2. Đặc điểm thị trường hàng may mặc Nhật Bản
• Nhật Bản là một thị trường mở quy mô lớn với số dân hơn 127 triệu
người triệu người và có mức sống khá cao (GDP theo đầu người năm 2006
đạt 38.500 USD). Nhật Bản được coi là một trong những thị trường có đòi hỏi
khắt khe nhất về chất lượng sản phẩm. Nhìn chung người Nhật Bản có độ
thẩm mỹ cao và tinh tế do họ có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại hàng hoá trong
và ngoài nước. Xu hướng tiêu dùng và sính đồ ngoại của người Nhật Bản
24

ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ của thị trường này rất lớn, vào khoảng hơn
3.000 tỷ Yên, gồm cả hàng gia dụng, trong đó nhập khẩu chiếm tới 50%.
• Hàng may mặc nhập khẩu vào thị trường Nhật được chia làm 4 nhóm:
+ Nhóm hàng thời trang cao cấp: mang tính thời trang từ mẫu mã, màu
sắc, chất lượng, kiểu dáng và thường được nhập từ Châu Âu và Mỹ.
+ Nhóm hàng từ nguyên liệu thô: loại hàng này ít có ở Nhật, ví dụ như
hàng Casomia, Angora, Mohair.
+ Nhóm sản phẩm dùng nhiều sức lao động: là những sản phẩm làm
bằng tay, được sản xuất ở những nước có mức tiền lương thấp.
+ Nhóm sản phẩm thủ công truyền thống: được nhập từ nước ngoài vào
Nhật.
• Sản phẩm nhập từ nước ngoài vào Nhật được phân loại theo cấp độ sản
phẩm như sau:
+ Các sản phẩm thông thường: có đặc điểm là nguồn nguyên liệu dồi
dào, chủ yếu là hàng gia công được nhập khẩu từ Trung Quốc và các nước
ASEAN.
+ Các sản phẩm có chất lượng vừa phải: có đặc điểm thường là các lô
hàng nhỏ, thời gian giao hàng ngắn, chủng loại phong phú phù hợp với nhu
cầu của thị trường Nhật Bản. Các sản phẩm này được nhập khẩu từ Trung
Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông và các nước ASEAN.
+ Các sản phẩm chất lượng cao: thường là các lô hàng nhỏ, chủng loại
phong phú với những nhãn hiệu nổi tiếng. Chủ yếu là hàng thời trang cao cấp
đắt tiền. Các nước Tây Âu và Mỹ là những nước xuất khẩu những sản phẩm
này vào thị trường Nhật Bản.
• Các hàng hoá thời trang được nhập khẩu ưa chuộng ở Nhật là các nhãn
hiệu nổi tiếng và có chất lượng. Tuy nhiên giới thanh niên Nhật lại căn cứ vào
giá cả và chất lượng để mua hàng. Người Nhật rất nhạy cảm với những thay
đổi theo mùa. Vì thế, các nhà nhập khẩu Nhật quan tâm nhiều hơn đến việc
25

×