A - PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Sinh thời, Bác Hồ thường mong muốn, mong muốn đến cháy bỏng là
sau này mỗi người dân Việt Nam “ ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Và mong ước của Bác giờ đây đã trở thành hiện thực là: Tất cả trẻ em
đã được đến trường để học tập và vui chơi, được giáo dục toàn diện để kế tiếp
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán có một vị trí quan trọng.
Môn Toán trang bị cho các em kiến thức, kỹ năng để ứng dụng trong đời sống.
Môn Toán đóng góp một phần rất quan trọng trong việc rèn luyện ý nghĩ,
phương pháp suy luận, pháp giải quyết vấn đề… nó đóng góp vào việc phát
triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào
việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như:
cần cù, cẩn thận, có ýchí vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác
phong khoa học.
Trong trường tôi, thực hiện chủ trương của Bộ giáo dục và đào tạo là
cần phải đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình lớp Một, việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học nói chung, trong dạy học toán nói riêng là
điều rất cần thiết vì: học sinh lớp Một, năm đầu trẻ mới tới trường, trẻ rất bỡ ngỡ
từ việc chuyển hoạt động chủ đạo tự chơi sang hoạt động học tập. Đặc biệt tư
duy của trẻ lớp Một
( 6 tuổi) là tư duy trực quan cụ thể, đó là kiểu tư duy được hình thành trong quá
trình trẻ vui chơi. Ở lứa tuổi này, các em rất dễ xúc cảm, thích cái đẹp, cái mới
lạ, tích cực ham muốn gần gũi với thiên nhiên, nhạy cảm với các hoạt động văn
học nghệ thuật như: sách, truyện, tranh ảnh, vật thật, phim ảnh, kịch, múa… Đồ
dùng trực quan sinh động góp phần to lớn trong việc hình thành kiến thức ,
trong việc giáo dục…, nó còn mạnh mẽ hơn nhiều những bài lý thuyết khô khan.
Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp Một, qua thực tế dự giờ
thăm lớp của đồng nghiệp, tôi có ham muốn giáo viên và học sinh cần có kỹ
năng trong việc sử dụng trực quan ở các tiết học nói chung và ở một tiết học
Toán nói riêng dẫn đến tiết học đạt hiệu quả cao. Với lý do trên, tôi xin trình bày
về việc :
“ Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy- học toán cho học sinh lớp Một”,
năm học 2007-2008.
2. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG TRỰC QUAN
a. Thuận lợi:
- Sách giáo khoa mới có các kênh hình rất đẹp, sinh động gần gũi với đời sống
của trẻ( ước tính kênh hình nhiều gấp đôi kênh chữ và số).
- Trường đã có 01 bộ máy chiếu đa năng và 01 phòng gồm 15 máy vi tính.
- Nhà trường tạo điều kiện mua sắm đồ dùng cần thiết cho giảng dạy.
- Mỗi lớp Một đều được trang bị 01 bộ đồ dùng dạy học Toán.
- Có hệ thống bảng chống loá, bảng phụ, chữ viết của giáo viên rõ ràng, cẩn
thận, trình bày trên bảng một cách khoa học.
- Học sinh được trang bị mỗi em 01 bộ đồ dùng học Toán.
- Trường đã động viên giáo viên tự làm đồ dùng thi sử dụng đồ dùng cấp
trường.
- Chương trình toán hiện nay có cấu trúc đồng tâm, lôgic, thuật ngữ Toán học
chính xác, rõ ràng, phù hợp với tư duy trẻ. Vì vậy học sinh dễ tiếp thu kiến thức
mới và áp dụng để làm bài tập.
b. Khó khăn:
+ Do nội dung dạy Toán mang tính trừu tượng.
+ Do sự nhận thức của học sinh lớp Một không đồng đều.
+ Một số giáo viên chưa ý thức được tầm quan trọng của việc sử dụng trực
quan hoặc còn ngại sử dụng đồ dùng.
+ Đồ dùng dạy học môn Toán Một được trang bị nhiều nhưng chưa phù hợp với
từng bài dạy, chưa đủ để đáp ứng nhu cầu. Khi sử dụng trực quan trong dạy
học toán lớp Một cụ thể ở từng bài dạy phải chọn như thế nào? đưa ra lúc nào
cho hợp lý và đạt hiệu quả cao? Điều đó bắt buộc chúng ta phải tìm hiểu, xác
định và lựa chọn cách nào cho phù hợp nhất?
3. KHẢO SÁT ĐIỀU TRA:
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến
hành trắc nghiệm ở lớp 1A3.
- Mục đích: Tìm hiểu khả năng tiếp thu của học sinh khi dạy bài mới.
1. Không sử dụng trực quan:
Lớp Số bài Giỏi Khá Trung bình Yếu
1A3 28 4 (14,3%) 8 (28,6%) 12 (42,8%) 4 (14,3%)
Với kết quả thu được như trên, tôi nhận thấy học sinh chưa thích học môn Toán,
giờ dạy tẻ nhạt, học sinh gò bó, kết quả đạt thấp.
2. Có sử dụng trực quan nh ưng chư a chú trọng:
Lớp Số bài Giỏi Khá Trung bình Yếu
1A3 28 7 (25,0%) 12 (42,8%) 8 (28,6%) 1 (3,6%)
Khi dạy bài mới, việc sử dụng trực quan đã có song chưa được chú
trọng, tôi thấy học sinh đã thích học môn Toán nhưng kết quả chưa cao. Điều đó
chứng tỏ rằng bản thân các em cần có sự hướng dẫn tỉ mỉ của giáo viên, tự
mình sử dụng trực quan để tìm ra kiến thức và củng cố kiến thức.
Muốn nâng cao chất lượng dạy học, làm thế nào để học sinh tiếp thu bài
tốt mà không nặng nề đối với học sinh? Tôi tháy việc sử dụng trực quan trong
giờ dạy học Toán cần phải có sự chuẩn bị nỗ lực của cả thày và trò, có biện
pháp, phương pháp sử dụng hợp lý thì mới đạt được hiệu quả.
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I - MỤC TIÊU DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở LỚP 1:
Dạy học Toán 1 nhằm giúp học sinh:
1. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép
đếm; về các số tự nhiên trong phạm vi 100 và phép cộng, phép trừ không nhớ
trong phạm vi 100: về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20cm; về tuần lễ và
ngày trong tuần; về đọc giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình hình
học( đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời
văn,
2. Hình thành về rèn luyện các kĩ năng thực hành: đọc, viết, đếm, so sánh
các số trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng( với các số đo là
số tự nhiên trong phạm vi 20cm); nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn,
đoạn thẳng, điểm; vẽ đoạn thẳng có độ dài đến 10cm; giải một số dạng toán
đơn về cộng, trừ: bước đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung
đơn giản của bài học và bài thực hành; tập dượt so sánh, phân tích tổng hợp,
trừu tượng hoá , khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan
hệ với đời sống thực tế của học sinh.
3. Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận, ham hiểu biết và hứng thú trong học tập Toán
là cơ sở để học tập các môn học khác.
II- ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN Ở LỚP 1:
- Chuyển từ cách dạy học thụ động( giáo viên giảng, làm mẫu theo tài liệu
có sẵn, học sinh lắng nghe rồi làm theo) sang cách dạy học chủ động, tích cực,
sáng tạo( giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh;
học sinh tham gia tích cực và các hoạt động phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề,
tự chiếm lĩnh kiến thức mới, có kĩ năng thực hành và ứng dụng kiến thức toán
học trong học tập và trong đời sống.
- Hoạt động học tập phải phù hợp với khả năng nhận thức, trình độ tiếng
Việt và hứng thú của học sinh ở lứa tuổi lớp 1. Do đó trong quá trình tổ chức và
thực hiện các hoạt động học tập, giáo viên cần giúp học sinh tự học, tự chiếm
lĩnh kiến thức mới, có các kĩ năng thực hành và ứng dụng kiến thức toán học
vào trong đời sống.
III- SỬ DỤNG HỢP LÝ CÁC HÌNH MINH HOẠ VÀ CÁC ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
TOÁN LÀ THIẾT THỰC GÓP PHẦN ĐẨY MẠNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC TOÁN Ở LỚP 1.
Do đặc điểm về tâm lý và trình độ học tập của học sinh ở mỗi lớp( Một),
việc sử dụng loại hình minh hoạ nào hoặc loại hình dạy học nào, với mức độ
trực quan nào đều được cân nhắc kĩ lưỡng. Cần phải căn cứ vào đối tượng học
sinh cụ thể để lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học sao cho có thẻ hỗ trợ
hcọ sinh đạt được các mục tiêu cơ bản của bài học. đối với các hình minh hoạ
và đồ dùng dạy học ở lớp Một, giáo viên cũng phải sử dụng đúng mức, không
được coi nhẹ nhưng cũng phải tránh “ lạm dụng”. Vì vậy giáo viên nên tìm hiểu
kĩ, cân nhắc sử dụng hình minh hoạ, các đồ dùng dạy học ở mỗi dạng bài, ở
mỗi giai đoạn học tập.
IV- MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TRỰC QUAN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN TOÁN:
1. Có các phương tiện trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập
của học sinh
Ở lớp Một, các đồ dùng học toán là các vật thực (bông hoa, lá cây, quả cà
chua, ), các tranh ảnh về các vật gần gũi với học sinh( cây, hoa, lá, ) các mô
hình, vật tượng trưng (hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác, chấm tròn, que
tính, ). Mỗi học sinh lớp 1 đều được trang bị một bộ đồ dùng học toán. Ngoài
ra sách giáo khoa còn có các kênh hình rất đẹp, màu sắc phong phú gây hứng
thú cho học sinh.
2. Sử dụng đúng lúc, đúng mức độ các đồ dùng học
toán ở lớp Một
Giáo viên nên tổ chức, hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng học tập, học sinh
phải huy động mọi giác quan( tay cầm, mắt nhìn, tai nghe, )và đặc biệt là phải
hoạt động trên các đồ dùng học tập đó để nhận biết, tìm tòi, củng cố kiến thức
mới.
* Ví dụ 1:
Ở lớp 1, khi dạy bài: “ Các số 1, 2, 3” thầy cùng trò cần có các nhóm có 1,
2, 3 đồ vật cùng loại. Chẳng hạn: 3 bông hoa, 3 hình vuông, 3 con bướm, 3 hình
tròn, , 3 tờ bìa. Trên mỗi tờ bìa viết sẵn một trong các số 1, 2, 3; 1 chấm tròn,
2 chấm tròn, 3 chấm tròn.
Giáo viên cần giới htiệu từng số 1( 2, 3) theo các bước sau:
Bước 1:
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát các nhóm chỉ có một phần tử( từ
cụ thể đến trừu tượng, khái quát), chẳng hạn: bức ảnh(mô hình) có một con
hcim, bức tranh có một cô gái, tờ bìa vẽ một chấm tròn, bàn tính có một con
tính, Mỗi lần cho học sinh quan sát một nhóm đồ vật, học sinh nêu, chẳng
hạn: học sinh chỉ vào bức tranh và nói: “ Có một bạn gái, có một con chim, có
một chấm tròn, ”
Bước 2:
Học sinh quan sát – Giáo viên hỏi:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
Hỏi: Có mấy con chim? - Có một con chim.
Hỏi: Có mấy bạn gái? - Có một bạn gái.
Hỏi: Tờ bìa vẽ mấy chấm
tròn?
- Tờ bìa vẽ một chấm tròn.
Hỏi: Bàn tính có mấy con tính? - Bàn tính có một con tính.
- Học sinh nhận ra đặc điểm chung của các nhóm đồ vật có số lượng đều
bằng một. Sau đó giáo viên chốt( chỉ vào từng nhóm đồ vật và nói): Một con
chim bồ câu, một bạn gái, một chấm tròn, một con tính, đều có số lượng là
một. Ta dùng số một để chỉ số lượng mỗi nhóm đồ vật đó; số một viết bằng chữ
số một, viết như sau:
- Giáo viên viết mẫu: 1
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát chữ số 1 in, chữ số 1 viết, học
sinh chỉ vào từng chữ số và đều đọc là: Một
- Giới thiệu số 2, số 3 tương tự như giới thiệu số 1.
Bước 3:
Học sinh chỉ vào hình vẽ các cột hình lập phương để đếm xem có bao
nhiêu hình, rồi đếm từ 1 > 3, ( một, hai, ba) rồi đọc ngược lại( ba, hai, một).
* Ví dụ 2:
Khi dạy bài: “ Các số 1, 2, 3, 4, 5”
- Mục tiêu: Giúp học sinh có khái niệm ban đầu về số 4 và số 5. Biết đọc,
viết các số 4, 5. Biết đếm từ 1 > 5 và đọc các số từ 5 > 1. Nhận biết số lượng
câc nhóm có từ 1 đến 5 đồ vật và thứ tự của mỗi số trong dãy số 1, 2, 3, 4, 5.
- Chuẩn bị đồ dùng:
+ Các nhóm có đến 5 đồ vật cùng loại. Mỗi chữ số 1, 2, 3, 4, 5 cần viết trên
một tờ bìa.
+Sách giáo khoa, bộ đồ dùng học toán.
Ngoài việc kiểm tra bài cũ, sang bài mới giáo viên cần:
. Giới thiệu từng số 4, 5.
. Tương tự giới thiệu số 1, 2, 3.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh, ghi số đồ vật trong tranh đếm
được vào ô trống.
- Có 1 ngôi nhà, 2 ô tô, 3 con ngựa.
Giáo viên treo tranh Học sinh quan sát tranh và
trả lời
Hỏi: Có bao nhiêu bạn đang
cười?
- Có 4 bạn.
Hỏi: Có bao nhiêu cái kèn? - Có 4 cái kèn.
Hỏi: Có bao nhiêu chấm
tròn?
- Có 4 chấm tròn.
Hỏi: Có bao nhiêu que tính? - Có 4 que tính.
- Giáo viên chỉ từng tranh và nói: Có 4 bạn, 4 cái kèn, 4 chấm tròn, 4 que
tính, đều có số lượng là 4. Ta dùng số 4 để chỉ số lượng của mỗi nhóm đồ vật
đó; số bốn viết bằng chữ số bốn: viết như sau:
- Giáo viên ghi: 4
- Học sinh quan sát chữ số 4 in, chữ số 4 viết. Học sinh chỉ vào từng chữ
số 4 và đều đọc là: Bốn
- Bằng đồ dùng trực quan, các em nhận ra các nhóm đồ vật có số lượng là
4. Tiếp đó học sinh quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa Toán 1/ trang 14
tương tự giới thiệu số 4; bằng trực quan giáo viên giới thiệu số 5.
- Đếm số ô vuông trong từng cột( từ trái sang phải hình 1, 3 rồi nêu số ô
vuông).
- Học sinh chỉ vào các số viết dưới dạng cột các ô vuông và đọc:
+ Một, hai, ba, bốn, năm.
+ Năm, bốn, ba, hai, một.
- Học sinh viết số còn thiếu vào ô tróng của hai nhóm ô vuông dòng dưới,
rồi đọc các số ghi trong từng nhóm ô vuông.
- Học sinh được củng cố các kiến thức về số 4( 5) bằng hệ thống bài tập
thực hành.
Bài 1/15 SGK
. Học sinh đọc yêu cầu của bài: Viết số
. Giáo viên hướng dẫn quy trình viết số 4, 5
. Giáo viên viết mẫu, học sinh quan sát, học sinh viết bảng con.
Bài 2/ 15 SGK
* Thực hành nhận biết số lượng
- Nhìn vào hình vẽ rõ ràng, đẹp trong sách giáo khoa, học sinh có thể ghi ngay
số ứng với hình vẽ mà các em đếm được.
( Học sinh quan sát từng hình, đếm từng nhóm đồ vật rồi ghi kết quả đếm được
vào ô trống).
Hỏi: Có bao nhiêu quả táo? - Có 5 quả táo, ghi ô trống
(5 )
- Dưới tranh nhóm cây dừa ghi
số mấy?
- Ghi số 3 vì em đếm được 3
cây dừa
- Hãy ghi số đồ vật em đếm
được vào ô trống của từng hình.
- Ô tô ghi 5
- áo ghi 2
- Quả cà ghi 1
- Chậu hoa ghi 4
=> Tại sao ở hình 3 em lại ghi
số 5?
- Vì em đếm được 5 cái ô tô
- Ở hình 4 em điền số mấy? - Em ghi số 2 vì có 2 chiếc
áo.
Bằng hệ thống câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát tranh trả lời để các
em khắc sâu kiến thức bằng trực quan.
3. Chuyển dần, chuyển kịp thời các phương tiện trực quan từ dạng cụ
thể sang dạng trừu tượng hơn
* Ví dụ 3:
Chẳng hạn khi dạy bài số 6, giáo viên cần xác định rõ:
+ Mục tiêu:
- Giúp học sinh có khái niệm ban đầu về số 6. Biết đọc, viết số 6, đếm và
so sánh các số trong phạm vi 6, nhận biết số lượng trong phạm vi 6, vị trí của số
6 trong dãy số từ 1 đến 6.
- Xác định được mục tiêu chính của bài rồi, giáo viên cần:
+ Chuẩn bị đồ dùng dạy học:
- Các nhóm có 6 mẫu vật cùng loại.
- Sáu miếng bìa nhỏ, viết các chữ số từ 1 đến 6 trên từng miếng bìa.
- Sách giáo khoa, que tính, bộ đồ dùng học toán.
Bước 1:
- Giáo viên cho học sinh quan sát tranh
Hỏi: Trong tranh có mấy bạn đang
chơi?
- Có 5 bạn đang chơi.
- Thêm mấy bạn đang đi tới? - Thêm một bạn đi tới.
- Tất cả có mấy bạn? - 5 bạn thêm 1 bạn là 6 bạn.
Tất
cả có 6 bạn.
- HS nhắc lại: có 6 bạn.
Qua việc sử dụng trực quan là tranh vẽ, học sinh hình thành số 6( là 5
thêm 1)
- Học sinh lấy 5 hình tròn, lấy thêm
1
hình tròn.
- Học sinh thực hiện và nói:
năm hình tròn thêm một hình
tròn là sáu hình tròn.
- Học sinh được trực tiếp sử dụng đồ dùng trực quan để khắc sâu kiến thức.
- Học sinh quan sát tranh vẽ sách
giáo khoa.
- Năm chấm tròn thêm một chấm
tròn là sáu chấm tròn.
- Năm con tính thêm một con
tính là sáu con tính.
- Giáo viên chỉ vào các tranh vẽ,
các nhóm đồ vật.
- Có sáu bạn, sáu chấm tròn,
sáu con tính.
=> Tất cả các tranh vẽ, các nhóm đồ vật đều có số lượng là sáu
Bước 2:
- Giáo viên giới thiệu: chữ số 6 in, chữ số 6 viết.
- Giáo viên viét mẫu, hướng dẫn quy trình viết.
- Học sinh đọc: Sáu.
- Học sinh viết bảng con: 6
Bước 3:
Nhận biết thứ tự của số 6:
- Học sinh được thực hành trên trực quan để củng cố, khắc sâu kiến thức.
Học sinh dùng que tính đếm xuôi, ngược. Sau đó học sinh đếm buông( không
dùng que tính đếm). Học sinh nhìn vào dãy số nhận biết thứ tự của số 6 trong
dãy số 1, 2, 3, 4, 5, 6; số 6 đứng liền sau số 5.
Như vậy, việc sử dụng trực quan trong việc hình thành số 6 được tiến
hành theo từng giai đoạn, phù hợp với sự phát triển trí tuệ của trẻ được nâng
dần lên ở từng mức độ cụ thể( trực quan từ dạng cụ thể sang dạng trừu tượng),
tránh dùng trực quan không cần thiết.
4. Không lạm dụng phương pháp trực quan:
Phương pháp trực quan hỗ trợ cho học sinh nắm vững kiến thức mới và
hỗ trợ cho sự phát triển tư duy trừu tượng của học sinh. Tuy nhiên, nếu sử dụng
không đúng lúc, không đúng mức độ, không nâng cao dần mức độ trừu tượng
thì sẽ lạm dụng phương pháp trực quan, do đó sẽ hạn chế khả năng phát triển
của học sinh, tạo đièu kiện cho học sinh ngại suy nghĩ, ngại sử dụng trí tưởng
tượng, làm việc máy móc, thiếu linh hoạt.
* Ví dụ 4: Khi dạy bài “ Phép cộng trong phạm vi 7”.
+ Mục tiêu:
Giúp học sinh tiếp tục củng cố khái niệm phép cộng. Thành lập và ghi nhớ
bảng cộng trong phạm vi 7. Biết làm tính cộng trong phạm vi 7.
+ Đồ dùng:
Sử dụng đồ dùng học toán lớp một. Bằng đồ dùng trực quan( que tính, hình
vuông, hình tròn, hình tam giác) hướng dẫn cho học sinh lập và ghi nhớ bảng
cộng.
+ Phép cộng: 6 + 1 = 7 và 1 + 6 = 7
Bước 1:
Học sinh quan sát hình vẽ nêu thành vấn đề cần giải quyết
“ Có 6 hình tam giác, thêm 1 hình tam giác nữa. Hỏi tất cả có mấy hình
tam giác?”.
- Giáo viên chốt
Bước 2:
- Giáo viên chỉ vào hình vẽ và nêu: “ Sáu cộng một bằng mấy?”
- “Sáu cộng một bằng bảy”. Giáo viên ghi: 6 + 1 = 7
- Đọc: “Sáu cộng một bằng bảy”. Học sinh đọc lại, học sinh tự điền kết quả
(7) vào phép tính.
Bước 3:
- Giáo viên nêu: “ Một cộng sáu bằng mấy?” (Bảy)
- Giáo viên ghi: 1 + 6 = 7. Học sinh đọc cả hai phép tính.
- Học sinh nhận xét: “ Lấy 1 cộng 6 cũng như lấy 6 cộng 1”
+ Phép cộng: 5 + 2 = 7 và 2 + 5 = 7
4 + 3 = 7 và 3 + 4 = 7
theo 3 bước tương tự như với 6 + 1 = 7 và 1 + 6 = 7
+ Học sinh quan sát tranh hình vuông, chấm tròn, tự nêu bài toán và ghi
phép tính.
+ Sau khi bằng đồ dùng trực quan, học sinh đã lập được công thức cộng
trong phạm vi 7 rồi, yêu cầu học sinh đọc và học thuộc.
+ Giáo viên xoá bảng, học sinh nhớ và đọc thuộc lại phép cộng trong phạm
vi 7, vận dụng bảng cộng vừa được học vào việc thực hành các phép tính trong
bài tập thực hành. Trong khi làm bài tập, học sinh không càn sử dụng các mẫu
vật( que tính, hình tròn, hình vuông, ) mà ghi nhớ việc lập bảng cộng để thực
hiện các bài tập, ghi ngay kết quả phép tính.
5. Tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học đặc biệt là sử dụng các
phương tiện dạy học hiện đại:
* Ví dụ 5: Tiết 81- Bài toán có lời văn
Khi sử dụng ĐDDH( bằng giáo án điện tử) tôi đã sử dụng hình ảnh động
cho mỗi bài:
- Bài 1: Có 1 bạn, có thêm 3 bạn nữa đang đi tới.
- Bài 2: Có 5 con thỏ, thêm 4 con thỏ đang chạy tới.
- Bài 3: Minh hoạ cho đàn gà tôi đã thêm âm thanh của gà con.
- Bài 4: Hình ảnh 4 con chim đậu trên cành, có 2 con chim nữa bay đến
Qua các hiình ảnh minh hoạ cho bài học này, tôi thấy bài học rất sinh động, học
sinh hào hứng say mê kiến thức mới, nắm bài tốt hơn
Trên đây là một số biện pháp, phương pháp sử dụng trực quan để nâng cao
chất lượng dạy và học môn toán.
Tiết 81: Bài toán có lời văn
I. Mục tiêu:
Giúp học sinh bước đầu nhận biết bài toán có lời văn thường có:
- Các số( gắn với các thông tin đã biết)
- Câu hỏi( chỉ thông tin cần tìm)
II. Đồ dùng dạy học :
- Các tranh vẽ, hình vẽ giống SGK/ 15, 16.
III. Các hoạt động dạy học:
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò
Hoạt động 1: Kiểm tra bài cũ
Viét phép tính thích hợp:
- HS thực hiện bảng con.
HS có thể viết: 6 + 2 = 8
hoặc 2 + 6 = 8
> Vì sao em điền được phép tính
này?
Hoạt động 2: Bài mới
1. Giới thiệu bài:
2. Giới thiệu bài toán:
* Bài 1: - Nêu yêu cầu - 2- 3 HS
- Đọc thầm bài toán
- Đọc bài toán
- Muốn viét số thích hợp vào chỗ
chấm
cần quan sát hình ảnh?
+ Có mấy bạn đang đứng? - Có 1 bạn đang đứng.
+ Thêm mấy bạn chạy tới? - Thêm 3 bạn chạy tới.
- HS thực hiện bài 1 vào
sách
- Đọc bài toán em vừa điền số. - HS đọc.
=> Đây là bài toán có lời văn
- Bài toán cho biết gì? - HS tự nêu.
- Bài toán hỏi gì?
> Vậy bài toán có lời văn thường
có mấy
phần?
- 2 phần
* Bài 2: - HS nêu yêu cầu
- HS đọc bài toán
- Bài toán này đã hoàn chỉnh chưa? - Chưa.
- Em vừa điền số vào phần nào của
bài
toán?
- HS trả lời
- Bài toán cho biết gì? - HS nêu
- Bài toán hỏi gì? - HS nêu
- Bài toán này có được gọi là bài
toán có lời văn không? Vì sao?
- HS trả lời
=> Chú ý: Phần bài toán cho biết
thường
đứng trước phần bài toán hỏi.
* Bài 3: - HS nêu yêu cầu
- Bài toán còn thiếu phần nào? - Câu hỏi của bài toán
- HS làm bài
- Đọc câu hỏi em vừa làm. -HS nêu
=> Câu hỏi của bài toán có thể khác
nhau
nhưng câu hỏi thường có từ “ Hỏi” ở
đầu
câu và dấu chấm hỏi ở cuối câu.
Câu hỏi
cần phù hợp với nội dung bài toán
cho biết.
* Bài 4: - HS nêu yêu cầu.
- HS đọc bài toán.
- HS làm bài.
- Đây có phải là bài toán lời văn
không?
- Có.
> Bài toán có lời văn thường có
mấy phần?
- 2 phần:
+ Phần bài toán cho biết.
+ Phần câu hỏi của bài
toán.
* Dự kiến sai lầm: HS có thể viết câu
hỏi
chưa hoàn chỉnh
Hoạt động 3: Củng cố
- Để củng cố lại bài hôm nay, các
em hãy
cùng quan sát màn hình thi làm bài
toán có lời văn.
- Ai có thể tự nghĩ ra bài toán có lời
văn?
- HS tự nêu
( Em hãy đọc phần bài toán cho
biết?
Em hãy đọc phần câu hỏi của bài
toán em vừa nêu )
* Nhận xét, dặn dò.
C- KẾT LUẬN
“ Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Toán cho học sinh
lớp Một- năm học 2007- 2008”, tôi đã thu được kết quả nhất định. Sử dụng đồ
dùng trực quan đúng lúc, đúng mức độ, kịp thời thì hiệu quả cao. Việc sử dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy các môn học nói chung và dạy học toán nói
riêng rất hiệu quả, nhất là phần sử dụng trực quan cho học sinh trong giờ dạy
học toán.
1. Kết quả thu được từ việc sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học toán:
Lớp Số bài Giỏi Khá Trung bình Yếu
1A3 28 19( 67,8%) 8(28,6%) 1(3,6%) 0
Đây là kết quả hết sức khả quan, tôi tin rằng với phương pháp giảng dạy
theo hướng đổi mới, với một số biện pháp phù hợp, việc sử dụng trực quan
chắc chắn sẽ góp phần thẩm mỹ, tính kinh tế và được sử dụng một cách thuận
lợi.
2. Bài học:
a. Đồ dùng trực quan cần đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức, tính thẩm
mỹ, tính kinh tế và được sử dụng một cách thuận lợi.
b. Đối với giáo viên:
- Cần nắm vững nội dung, yêu cầu của bài dạy để chuẩn bị đồ dùng trực
quan cho hợp lý.
- Ngôn ngữ truyền đạt cho học sinh cần ngắn gọn, dễ hiểu và chính xác.
- Việc sử dụng đồ dùng trong một tiết dạy cần được cân nhắc, tính toán cụ
thể( cất lúc nào, sử dụng lúc nào, như thế nào cho hợp lý?)
- Người giáo viên cần phải sử dụng trực quan thường xuyên, sử dụng máy
tính thành thạo.
- Khi sử dụng trực quan, mọi học sinh phải được nhìn thấy. Các hình ảnh,
nội dung đưa lên màn hình phải đẹp , chuẩn.
- Tự mình làm những đồ dùng đơn giản, dễ sử dụng, sử dụng thuận tiện.
- Luôn tự học, tự bồi dưỡng, dự giờ thăm lớp các trường bạn để nâng cao
trình độ nghiệp vụ.
- Chữ viết của giáo viên ở trên bảng, vở phải đẹp, rõ ràng.
- Tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học, đặc biệt là sử dụng các phương
tiện dạy học hiện đại.
c. Với học sinh:
- Nếu là trực quan của học sinh( thày hướng dẫn học sinh thực hành thì
mọi học sinh đều phải có).
- Cần chuẩn bị đồ dùng để học tập.
- Đồ dùng học tập cần được bảo quản và giữ gìn.
*Trên đây mới là kết quả bước đầu của việc “ Sử dụng trực quan trong
dạy học Toán cho học sinh lớp Một”- Năm học 2007- 2008.
Với năng lực có hạn, chương trình nội dung thực hiện còn mới mẻ, chắc
chắn bài viết không tránh khỏi sai sót. Rất mong được sự góp ý của các đồng
nghiệp để việc sử dụng trực quan trong dạy học đạt kết quả cao.
Xin chân thành cảm ơn !
Hải Phòng, ngày 28 tháng 02 năm 2008
Người viết
Hoàng Thị Thu Hằng