Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

BÁO CÁO VIỆC LÀM MỚI-GD ĐẠO ĐỨC CHO HS LỚP 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.18 KB, 9 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO CAM LỘ
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN THỊ TÂM

BÁO CÁO VIỆC LÀM MỚI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH LỚP 4
Giáo viên thực hiện: Lê Thị Thúy Vân
Tổ : 2
Năm học : 2009-2010
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH LỚP 4
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:

GVCN luôn giữ một vai trò đặc biệt ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học
sinh còn phải uốn nắn rèn luyện từng bước hoàn thiện nhân cách cho các em.
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc thôi”.
Những viên ngọc nếu muốn có một giá trị nhất định thì cần có những người
thợ khéo tay mài dũa, học sinh cũng được ví như những viên ngọc thô nếu được giáo
dục toàn diện thì sẽ trở thành công dân có ích cho xã hội, đất nước mà người thợ
chính là giáo viên.
Đúng vậy không phải học sinh nào đến trường đều chú tâm học hành, mỗi em
trưởng thành trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, điều kiện và môi trường sống khác nhau
bề ngoài khó nhận biết được nên một số em sẽ có những biểu hiện như: tiếp thu bài
chậm, nghịch phá, xao lãng việc học, không biết nghe lời khi ở trường.Còn ở nhà, các
em quậy phá quá mức không thèm nghe lời dạy bảo, lơ đễnh…đây chính là câu hỏi
lớn “ làm thế nào để giúp các em phát triển tốt về nhân cách , ứng xử có văn hóa trong
xã hội hiện nay?”. Đây chính là lý do tôi chọn công tác “ Giáo dục đạo đức cho HS
lớp 4” mong muốn giúp các em trở thành những con ngoan trò giỏi.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:


1. Thực trạng:
Lớp 25 HS, HS nam chiếm 1/2.Địa bàn là một xã nghèo của Huyện, phụ huynh
HS không có việc làm ổn định nên thường xuyên phải đi làm ăn xa, vì thế HS ít được
quan tâm về tất cả mọi mặt nên sự uốn nắn, kèm cặp các em trong HT cũng như trong
quan hệ ứng xử gần như bị xao nhãng.
Thông thường khi nhận lớp, GVCN khó có thể nhận biết ngay thực trạng của
từng HS trong lớp mới, cách duy nhất là hỏi thăm GVCN cũ, nhưng như vậy để nhận
biết hết nên cần có sự quan sát và tìm hiểu nguyên nhân thì mới có hướng khắc phục
tốt nhất.
2.Phương pháp thực hiện:
a. Quan sát tình trạng của học sinh:
+ HS có những biểu hiện lười biếng ở tất cả các môn học, hoặc một số môn nào đó .
+ HS thường lơ đãng trong học tập, không chịu nghe giảng, về nhà không chịu làm
bài hay học bài , từ đó học kém , sa sút.
+ HS không chấp hành nội quy, không tham gia các phong trào tích cực, đi học trễ.
Có những biểu hiện khác lạ về cá tính như đến lớp đánh bạn, nghịch ngợm, phá
phách, chửi tục…
b.Xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên của HS:
+ Về phía gia đình: gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến các em vì ngoài đi học hầu hết
thời gian còn lại các em sống với gia đình
- Vì hoàn cảnh cuộc sống gia đình khó khăn, bố mẹ không có việc làm ổn định , con
đông … các em phải phụ gia đình một số việc trong cuộc sống hàng ngày, điều kiện
học tập bị giảm bớt dẫn đến các em HT sa sút nên các em chán nản trong HT.
- Một số HS không có bố, sống với mẹ và bà nên chỗ dựa về cuộc sống tinh thần thiếu
hụt dẫn đến các em dễ hư hỏng , sống tự do.
- Do cuộc sống gia đình khá giả , bố mẹ ham làm ăn không quan tâm đến việc giáo
dục con cái mà chỉ bỏ tiền ra chiều theo nhu cầu không chính đáng của con cái.Chính
vì quá nuông chiều con như vậy đã vô tình tạo cho trẻ tính lười biếng thói ỷ lại vào bố
mẹ, không chịu rèn luyện. Từ đó các em có những thói hư tật xấu.
+ Môi trường học tập:

- Lớp học có sỉ số khá đông giáo viên không thể quan tâm sâu sắc đến từng em. Nếu
chúng ta không quan tâm đến trẻ thì trẻ rất dễ lơ là việc học của bản thân.
- Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh: chẳng hạn như giáo viên không tìm hiểu
học sinh, có những thành kiến nghiêm khắc đối với các em hoặc cách giảng dạy làm
cho trẻ không thích học.
- Mặc cảm tự tôn: Các em tự thấy mình là hơn người, học giỏi không cần phải học hỏi
ai.
- Mặc cảm, tự ti: Các em cảm thấy mình bị hắt hủi, bị tập thể ruồng bỏ
+ Môi trường xã hội:
- Ngày nay, tình trạng sách báo phim ảnh nhảm nhí tràn lan nó đã thu hút khá đông
trẻ nhỏ, khiến các em nhỏ bỏ bê việc học tập, sinh hoạt nề nếp. Đặc biệt là sự phát
triển ào ạt của game online khiến không ít em học hành sa sút vì lao vào các game này
hằng ngày hằng giờ.
+Tâm sinh lý:
- Thông thường những em rất hiếu động, có anh hùng cá nhân, thích làm nổi,ưa bắt
chước, a-dua.
- Một số em có bệnh, kém dinh dưỡng, cấu tạo cơ thể khiếm khuyết.
c. giải pháp:
+ Đối với học sinh do nguyên nhân gia đình:
- Giáo viên kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh. Thường xuyên thăm hỏi gia đình
học sinh để tìm hiểu, trao đổi, nắm được hoàn cảnh cũng như sự quan tâm của gia
đình đối với các em. Từ đó chúng ta mới có thể lựa chọn hình thức giáo dục cho phù
hợp.
- Biện pháp đạt kết quả tối ưu nhất là tình thương của giáo viên đối với học sinh. Nhất
là đối với các em học sinh không được quan tâm do hoàn cảnh gia đình khó khăn thì
sự động viên khích lệ của giáo viên sẽ giúp trẻ sẽ không có những mặc cảm bị bỏ rơi,
bị xa lánh.
- Bên cạnh đó sự giúp đỡ của tập thể lớp cũng rất quan trọng. Qua đó trẻ nhận thấy
mình được nhiều người quan tâm và bản thân phải có trách nhiệm với mọi người.
Ví dụ: em Đức Lam có hoàn cảnh GĐ không được khá giả lắm. Mẹ dưa tiền đi

nộp, em đã bớt đi 20 000đ để ăn quà vặt. Khi liên lạc với GĐ được biết tình hình cụ
thể như vậy, tôi đã tế nhị nói chuyện với em Lam, phân tích đúng sai trước việc làm
của em. Em đã nhận lỗi của mình và đã mạnh dạn về xin lỗi bố mẹ. Từ đó về sau, em
Lam không còn dối bố mẹ nữa và đã chú tâm học hành, em tiến bộ rõ rệt trong HT.
+ Đối với học sinh do môi trường học tập:
- Khi nhận lớp, cần phải tìm hiểu kĩ hoàn cảnh gia đình cũng như tâm sinh lý của từng
em để từ đó có cách tổ chức lớp học sao cho phù hợp.
- Giáo viên cũng phải nhiệt tình tận tâm với công việc của mình. Phải đi sâu sát, quan
tâm đến các em, để từ đó có cách giảng dạy sao cho phù hợp với nhận thức của mỗi
học sinh.
- Những em mặc cảm tự tôn: giáo viên cần phải làm cho trẻ nhận thấy khả năng đích
thực của trẻ là gì?
- Những em mặc cảm tự ti: chúng ta cần động khiên khen thưởng ngay trước tập thể
lớp, khich lệ khi trẻ làm tốt một việc dù rất nhỏ, dần dần trẻ cảm thấy tự tin ở bản
thân, qua những lời đánh giá khen thưởng của giáo viên.
+ Đối với học sinh do môi trường xã hội:
- Nhắc nhở phụ huynh về việc đọc sách và xem phim video của con cái cần phải được
kiểm tra có nội dung phù hợp và có ích cho trẻ tuổi thiếu niên nhi đồng.
Ví dụ: em Lê Nguyễn Công Minh sống với mẹ và bà ngoại. Đến lớp thường
nghịch ngợm, gây gổ với bạn bè, thường tỏ ra anh hùng cá nhân. Khi có bạn nào lỡ
gay lỗi với Minh thì em bị Minh đánh. Trong giờ học, Minh thiếu tập trung, về nhà ít
học bài và làm bài, thỉnh thoảng nghỉ học không có lí do. Qua tìm hiểu, mẹ Minh
không có việc làm ổn định, nên công việc làm ăn thất thường…, bà ngoại Minh già
yếu. Tôi đã gặp phụ huynh em Minh và khuyên mẹ Minh thường xuyên quan tâm em
hơn, kết hợp cùng GVCN để giúp đỡ Minh ngày càng tiến bộ hơn trong học tập và
trong cách cư xử với bạn bè. Với Minh tôi tìm cách khuyên bảo nhẹ nhàng , dùng lời
lẽ ân cần nhẹ nhàng, thái độ dịu dàng để giúp em cảm nhận được cái nào đúng, cái
nào sai và em dần thay đổi. Trong giờ học tôi luôn động viên, khích lệ, khen thưởng
dù chỉ là một tiến bộ nhỏ.
+ Đối với học sinh do tâm lý:

- Những học sinh hiếu động cần được nhắc nhở, uốn nắn các em thường xuyên.
Những học sinh này trong công việc thường rất năng động nhưng hấp tấp do đó giao
công việc cho các em ta nên kiểm tra nhắc nhở thường xuyên.
- Các em có bệnh, hay khiếm khuyết về cơ thể thường có mặc cảm, thường xa cách.
Ít hòa đồng với mọi người xung quanh. Vì vậy chúng ta cần quan tâm đến trẻ nhiều
hơn. Trò chuyện với chúng chân tình cởi mở, tạo điều kiện cho chúng hòa đồng vào
tập thể lớp để chúng thấy được sự quan tâm của mọi người và từ đó xóa đi những
mặc cảm của bản thân.
Ví dụ: Em Quang Tứ rất hiếu động, trong giờ học không tập trung nghe giảng mà
hay chọc phá các bạn xung quanh, ngoài ra em còn có tật xé giấy vứt ra lớp làm mất
vên sinh lớp học. Trong trường hợp này, tôi luôn theo sát nhắc nhở, ghi nhận và khen
mỗi khi em có biểu hiện tốt trong giờ học, vận động các bạn ngồi xung quanh hỗ trợ,
nhắc nhở bạn Tứ và báo cáo thường xuyên với GVCN về sự tiến bộ của bạn Tứ, đặc
biệt tôi thường tuyên dương em trong giờ sinh hoạt. Đến nay, em đã có chuyển biến
tích cực trong học tập cũng như ý thức về giữ gìn vệ sinh chung của lớp.
Ngoài ra, có Mai Thị Thường hay mặc cảm vì gia đình khó khăn, bố em là nạn
nhân bom mìn, nên em thường xa lánh các bạn, ít chơi đùa hay trò chuyện với các bạn
trong lớp. Giờ ra chơi, em hay ngồi một mình đọc sách hay tự chơi một mình.
Tôi đã giành thời gian để gần gũi em, trò chuyện với em trong giờ ra chơi, lập
nhóm bạn học và chơi ở trường và ở nhà.
Đến nay, em Mai Thị Thường đã hòa nhập cùng tập thể lớp, cùng học, cùng
chơi, cùng tham gia tốt mọi hoạt động.
III.HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP:
Năm học Tên học sinh cá biệt Đầu năm Cuối năm
2009-2010
Em Trần Đức Lam Đầu năm còn dối
mẹ khi đem tiền đi
nộp, hay ăn quà
vặt trong giờ ra
chơi.

Hiện nay, em
chăm học, thành
thật trong cư xử,
bỏ không ăn quà
vặt nữa.
Em Lê N. Công Minh Hay gây gổ, đánh
nhau với bạn,
không chăm học,
ham chơi, nghỉ
học tự do.
Đoàn kết, vui vẻ
với các bạn, chăm
học và gần gũi với
mọi người.
Em Lê Quang Tứ Hiếu động trong
giờ học, hay chọc
phá các bạn, chưa
giữ gìn vên sinh
lớp học.
Phát huy năng
khiếu môn toán,
chịu khó rèn chữ
viết. Góp phần giữ
gìn vệ sinh lớp
học, nhiệt tình
trong lao động.
Em Mai Thị Thường Nhút nhát, xa lánh
bạn bè, mặc cảm
nên học tập không
sôi nổi.

Mạnh dạn trong
học tập, vui chơi.
Có rất nhiều tiến
bộ trong học tập.
+Kết quả về hạnh kiểm:
Năm học
2009-2010
Sĩ số Thực hiện đầy đủ Thực hiện không đầy
đủ
Cuối học kì I 25 học sinh 25/25HS (100%) 0/25 HS (0%)
IV. MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ:
1.Mặt tích cực:
- Có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
- Phát huy tính tích cực của học sinh, không có học sinh bỏ học, trốn học.
- Giúp các em rèn luyện thói quen tốt trong học tập. Trong lớp không có học sinh
vi phạm chuẩn mực đạo đức bậc tiểu học.
2.Hạn chế:
- Đòi hỏi giáo viên phải có tâm với nghề, kiên trì, nhẫn nại
- Học sinh phải nỗ lực đấu tranh với bản thân.
- Phải có sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường mới có hiệu quả cao.
V.BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
- Việc đào tạo một con người quả là một vấn đề phức tạp, nhất là ở bậc tiểu
học, nó đã và đang là điều trăn trở của nhiều giáo viên chủ nhiệm hiện nay. Giáo dục
tốt học sinh rõ ràng đòi hỏi ở giáo viên không chỉ đơn thuần là giỏi về giảng dạy, tổ
chức lớp học có nề nếp mà còn phải xây dựng được tình nghĩa gắn bó giữa thầy và
trò. Muốn dạy học sinh trước hết phải hiểu tâm lí học sinh, yêu thương và tôn trọng
các em. Người giáo viên tiểu học phải là người giỏi về tâm lí trẻ, từ đó mới khám phá
ra tâm hồn các em để giáo dục cho tốt.
- Người giáo viên không được nản chí, không chê trách học sinh khi học sinh
chưa tiến bộ mà phải bằng mọi cách tạo điều kiện tốt nhất giúp các en học tập đó

chính là trách nhiệm của mọi giáo viên chủ nhiệm. Có hoàn thành được trách nhiệm
thì người giáo viên mói tìm thấy được niềm vui trong công tác giáo dục.
VI. KẾT LUẬN:
- Hiện nay, phương pháp giảng dạy ở khối 4 theo hướng chuyên sâu vai trò của
giáo viên chủ nhiệm ngày càng quan trọng hơn vì thời gian tiếp xúc với HS của lớp
chủ nhiệm giảm nên đồi hỏi người giáo viên phải nhạy bén, năng động. Ngoài việc
nắm chắc hoàn cảnh, tính cách của HS cần pahir giải quyết được tình huống xảy ra
trong lớp. Do đó, giáo viên phải huấn luyện về kĩ năng điều hành lớp cho cán bộ lớp,
phối hợp với giáo viên bộ môn, chủ động xây dựng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp
nhằm phục vụ công tác chủ nhiệm, luôn theo sát và gần gũi các em.
-Các giải pháp trên tôi đã thực hiện và đạt hiệu quả, hy vọng là những kinh
nghiệm này có thể giúp ích được cho đồng nghiệp. Rất mong nhận được sự góp ý
chân thành của các thầy cô.
Cam Lộ, ngày 25.4.2010
Người viết

Lê Thị Thúy Vân

×