Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TỔNG QUAN VỀ CUỐN LỊCH SỬ TIỂU ĐOÀN 502 ĐỒNG THÁP potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.48 KB, 25 trang )

TỔNG QUAN VỀ CUỐN LỊCH SỬ TIỂU ĐOÀN 502
ĐỒNG THÁP (1959-1975).
MỞ ĐẦU
Tiểu đoàn 502 bộ đội địa phương Đồng Tháp, đơn vị được nhà
nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là lá cờ
đầu về thành tích chiến đấu, là niềm tự hào không những của cán bộ
chiến sĩ Tiểu đoàn 502 mà còn là của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà.
Qúa trình hình thành và phát triển của Tiểu đoàn 502 là sự kế thừa
truyền thống cách mạng của lực lượng vũ trang nhân dân Sa Đéc-Long
Châu Tiền-Long Châu Sa trong kháng chiến chống thực dân Pháp và là
tiêu biểu cho truyền thống “Kiên cường bám trụ. Giữ đất giành dân” của
tỉnh Đồng Tháp.
Thành lập trong điều kiện cách mạng miền Nam đang gặp nhiều
khó khăn, thử thách, Đảng phải rút vào hoạt động bí mật, bị Mĩ-Diệm
khủng bố ác liệt, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 502 đã chịu đựng biết bao
gian khổ, hi sinh. Được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ tỉnh nhà, được
nhân dân thương yêu, đùm bọc, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn luôn nêu cao
tinh thần hi sinh anh dũng, tự lực tự cường, khắc phục khó khăn, gian
khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Ngay từ buổi đầu xây dựng, tiểu đoàn đã thực hiện tốt nhiệm vụ,
hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, từng bước phát
triển lực lượng, cùng với quân dân toàn tỉnh đưa phong trào chuyển lên
thế tiến công.
Cùng với việc thực hiện chức năng đánh giặc, tiểu đoàn còn tích
cực tham gia công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở vùng tôn
giáo, vùng yếu. Tham gia sản xuất, tự lực giải quyết một phần lương
thực, thực phẩm, giảm bớt sự đóng góp của nhân dân.
Được rèn luyện trong khói lửa trong chiến tranh ác liệt, như ngọc
càng mài càng sáng, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng
được cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn phát huy trong chiến đấu, công tác, sản
xuất, tô thắm thêm truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh


hùng.
Nhằm đáp ứng lòng mong mỏi của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong
tỉnh, cũng là để lưu giữ, tuyên truyền rộng rãi thành tích, truyền thống vẻ
vang của Tiểu đoàn 502 anh hùng, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp đã
chỉ huy biên soạn cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-
1975)”. Cuốn sách do nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Hà Nội) phát
hành vào năm 1999.
Cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)”,
được chia làm bốn chương:
Chương một: Tiểu đoàn 502 thành lập, làm nòng cốt cho phong
trào Đồng Khởi của tỉnh (1959 -1960).
Chương hai: Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân đẩy mạnh ba mũi công,
mở rộng vùng giải phóng, tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
thân (1961-1968).
Chương ba: Kiên cường bám trụ, chống phá bình định, góp phần
đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”của đế quốc Mĩ (1969-
27/1/1973)
Chương bốn: Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân Kiến Phong đánh bại
âm mưu bình định lấn chiếm của địch, tham gia Tổng tấn công và nổi dậy
mùa xuân 1975, giải phóng quê hương (28/1/1973-6/5/1975).
Mỗi chương nêu lên sự phát triển của Tiểu đoàn 502 gắn liền với
quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước (1954-1975). Cụ thể:

NỘI DUNG
Phần một: NỘI DUNG CƠ BẢN CUỐN “LỊCH SỬ
TIỂU ĐOÀN 502 ĐỒNG THÁP (1959-1975)”
Chương một
Tiểu đoàn 502 thành lập, làm nòng cốt cho phong trào Đồng
Khởi (1959-1960).

1. Vài nét về tỉnh Đồng Tháp và con người Đồng Tháp
Đồng Tháp là một tỉnh được thành lập theo nghị định của Chính
phủ vào cuối năm 1975 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Sa Đéc và Long Châu
Tiền. Tỉnh bao gồm các huyện: Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Thanh
Bình, thị xã Cao Lãnh, Tháp Mười, Thạnh Hưng, Lai Vung, Châu Thành,
thị xã Sa Đéc và Cao Lãnh.
Đồng Tháp là một tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, nằm hai bên
bờ sông Tiền, là một bộ phận của Đồng Tháp Mười nổi tiếng. Phía bắc
giáp tỉnh Prâyveng (Campuchia), phía nam giáp tỉnh Cần Thơ và Vĩnh
Long, phía đông giáp tỉnh Long An và Tiền Giang, phía tây giáp tỉnh An
Giang. Dân số của tỉnh năm 1989 là 1.385.513 người, người Kinh chiếm
97,6%, còn lại là người Hoa, Khơme và một số dân tộc khác. Trong tỉnh
có nhiều tôn giáo nhưng đồng bào theo đạo Phật và đạo Hòa Hảo là đông
nhất.
Địa hình Đồng Tháp bằng phẳng, không có núi nhưng kênh rạch
thì chằng chịt do thiên nhiên và con người tạo nên rất thuận lợi cho giao
thông đường thủy. Khí hậu thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ
cao quanh năm, trung bình từ 26 đến 28 độ và lượng mưa tương đối lớn.
Thời tiết trong năm chia làm hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Từ cuối thế kỉ 19 đến nay, địa bàn của tỉnh đã nhiều lần thay đổi.
Về phía cách mạng sự phân chia lại địa bàn nhằm phù hợp với tình hình
chiến trường. Sự tách nhập linh hoạt trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ, dù với tên gọi nào thì đây cũng là vùng đất luôn giữ vị
trí trọng yếu, một trong những tuyến đầu phía Tây Nam, nhất là trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trải qua chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân
Đồng Tháp đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hi sinh, giành
nhiều thắng lợi. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu
sắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân dân Đồng Tháp đã cùng cả
nước đánh thắng thực dân Pháp, viết lên trang sử vẻ vang, tô thắm truyền

thống anh hùng bất khuất của cha ông.
2. Những đơn vị tiền thân của Tiểu đoàn
Trước tình hình địch tăng cường khủng bố, phá hoại hiệp định
Giơnevơ, từ chủ trương đấu tranh chính trị, tháng 6 năm 1956, Đảng đã
xác định phải xây dựng lực lượng cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Kiến Phong đã họp,
nhận định âm mưu, thủ đoạn thâm độc của đế quốc Mĩ và tay sai tiếp tục
đàn áp phong trào cách mạng. Về phía ta không thể thụ động chống đỡ
tay không với kẻ thù tàn ác, có vũ khí trong tay…Vì vậy, Tỉnh ủy xác
định đưa cách mạng tiến lên, mạnh dạn cho thành lập lực lượng vũ trang
của tỉnh.
Ngày 25 tháng 6 năm 1956, tỉnh cho thành lập tiểu đoàn Đinh Bộ
Lĩnh trên cơ sở ghép ba đại đội: đại đội 402 do đồng chí Phan Triêm làm
đại đội trưởng (15/2/1956), đại đội 510 do đồng chí Diệp Hà làm đại đội
trưởng (15/2/1956), đại đội 210 do đồng chí Sáu Dưỡng làm đại đội
trưởng (30/2/1956). Tiểu đoàn do đồng chí Nguyễn Trường Cang làm
tiểu đoàn trưởng.
Tiểu đoàn 2 Bình Xuyên hình thành là do đồng chí Bí thư Liên tỉnh
ủy miền Trung Nam Bộ giao cho đồng chí Lê Văn Khuyên và Đào Kim
Sơn thành lập (4/1956). Lực lượng chủ yếu gồm: tiếp nhận cán bộ của
tỉnh Gò Công được tỉnh ủy Gò Công điều sang giúp Bình Xuyên đánh
Diệm, nay Bình Xuyên tan rã, số đồng chí này rút về Đồng Tháp Muời
liên lạc với ta; ta vận động sáp nhập hai tiểu đội Bình Xuyên; Liên tỉnh
ủy cho tuyển mộ số du kích tốt bổ sung thêm; số cán bộ của tỉnh Kiến
Phong, Mĩ Tho do Liên tỉnh ủy điều về. Tiểu đoàn viên chế gồm hai đại
đội: 350 và 355, do đồng chí Bảy Phèn làm tiểu đoàn trưởng.
Kể từ khi thành lập đến năm 1956, Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh và
Tiểu đoàn 2 Bình Xuyên luôn đóng vai rò lực lượng vũ trang chủ yếu,
nòng cốt của tỉnh. Trải qua ba năm hoạt động (1956-1958) phong trào đấu
tranh của quần chúng được lực lượng tiểu đoàn hỗ trợ đã có bước phát

triển, thu được nhiều kết quả đáng kể. Đặc biệt là lòng tin vào thắng lợi
của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ngày càng được củng cố. Đến cuối năm
1958, tuy tình hình chung vẫn còn khó khăn, nhưng kết quả lớn nhất của
tiểu đoàn nói riêng, của toàn tỉnh nói chung đạt được là đã bảo vệ, giữ
gìn, củng cố được lực lượng, tạo được tiền đề để đẩy mạnh hoạt động vũ
trang kết hợp đấu tranh chính trị, tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến
lên trong giai đoạn mới.
3. Tiểu đoàn 502 ra đời
Sau khi không đạt được mưu đồ triệt phá cơ sở cách mạng, năm
1959, địch tiếp tục đánh phá ác liệt và toàn diện hơn. Chúng tăng cường
càn quét, lục soát, thành lập thêm quân đội, tiếp tục lập thêm khu dinh
điền, khu trù mật, ban hành đạo luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng
pháp luật, chúng đưa máy chém đi khắp miền Nam.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Kiến Phong chủ trương củng cố các
đơn vị võ trang địa phương, cởi bỏ hoàn toàn danh nghĩa giáo phái, về
đúng với phiên hiệu của mình, phát huy những truyền thống và thành tích
đã có, xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh. Được Tỉnh ủy chỉ đạo,
ngày 23 tháng 9 năm 1959 Tiểu đoàn 2 Bình Xuyên làm lễ tuyên thệ,
chính thức ra mắt danh hiệu Tiểu đoàn 502 Kiến Phong. Ngày này được
lấy làm ngày truyền thống thành lập tiểu đoàn, và cũng từ đây trên chiến
trường, uy tín và chiến công của tiểu đoàn ngày càng nổ rộ làm nức lòng
đồng bào, chiến sĩ Đồng Tháp, còn kẻ địch thì hoang mang, lo sợ. Tiểu
đoàn 502 do đồng chí Lê Văn Khuyên làm đại đội trưởng.
Sau khi ổn định tổ chức, các đơn vị của tiểu đoàn ráo riết huấn
luyện, chuẩn bị hậu cần, vũ khí. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, sau
khi củng cố và huấn luyện, tiểu đoàn mở đợt võ trang tuyên truyền hỗ trợ
các vùng ven căn cứ phá thế kìm kẹp. Đại đội Tám Trà được tiểu đoàn
giao cho thí điểm kế hoạch phá thế kìm kẹp của toàn tỉnh.
4. Chiến thắng giồng Thị Đam-gò Quản Cung, tạo thế và lực
mới, làm đòn xeo cho phong trào Đồng Khởi của tỉnh.

Theo kế hoạch, Tiểu đoàn 502 đã phái đại đội Bẩy Phú và một
phân đội Năm Bình về làm công tác võ trang tuyên truyền phá kế hoạch
gom quân của địch ở xã Bình Thạnh (Hồng Ngự). Đơn vị tập kết về giồng
Thị Đam thì phát hiện một toán quân địch hành quân bằng xuồng từ Hồng
Ngự đi thẳng về Dứt Gò Suông (Sa Rài). Ban chỉ huy đại đội báo cáo ban
chỉ huy tiểu đoàn. Một cuộc họp khẩn cấp đã nhất trí nhận định: Địch mở
cuộc càn tìm diệt lực lượng võ trang ta, hỗ trợ việc gom dân quy khu, quy
ấp và giải tỏa vòng ngoài kênh An Long. Đúng như nhận định của ta,
khoảng 9 giờ ngày 26 tháng 9 năm1959, cánh quân địch từ giồng Sa Rài,
tiến về giồng Thị Đam. Tiểu đoàn đã phục kích và đánh thắng quân địch.
Qua khai thác đại úy Phán, ta nắm được toàn bộ kế hoạch hành
quân của địch, trục tiến quân, các tọa độ mục tiêu đánh phá của chúng.
Được biết, ngoài cánh quân A, còn có cánh quân B sẽ tiến vào vùng này.
Do đó, đơn vị hành quân gấp về gò Quản Cung. Tại đây, quân ta bố trí
xong trận địa thì cánh quân B của địch cũng vừa tới. Vào lúc xế chiều,
quân ta đồng loạt nổ súng, xung phong và đã giành được thắng lợi.
Thắng lợi ở giồng Thị Đam-gò Quản Cung là chiến công xuất sắc
đầu tiên của Tiểu đoàn 502, là trận thắng lớn nhất ở tỉnh Kiến Phong khu
8 và Nam Bộ nói chung kể từ sau đình chiến năm 1954, là thắng lợi của
lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí sắc đá, tinh thần kiên cường, dũng cảm
của cán bộ, chiến sĩ ta, là thắng lợi của quá trình bền bỉ đấu tranh xây
dựng, giữ gìn và phát triển lực lượng, thể hiện quan điểm chỉ đạo của
Tỉnh ủy là đúng đắn.
Chiến thắng giồng Thị Đam-gò Quản Cung còn là một cái mốc
chuyển lên thế mới, tạo ra tình thế cách mạng ở địa phương. Ngoài thắng
lợi quân sự, thắng lợi nhất là về chính trị. Nó cổ vũ tinh thần, khí thế đấu
tranh của nhân dân trong tỉnh, ảnh hưởng lan rộng ra nhiều tỉnh. Chiến
thắng này đã tạo điều kiện vật chất và kinh nghiệm chỉ đạo cho cuộc
Đồng Khởi sau này. Đặc biệt khi nổ ra Đồng Khởi (Bến Tre) và Đồng
Khởi trong tỉnh, ta đã mượn danh nghĩa Tiểu đoàn 502 để động viên quần

chúng và hù dọa địch.
Nắm được tinh thần của Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, các
cấp ủy trong tỉnh rất phấn khởi, liên tiếp phát động các đợt hoạt động lập
thành tích kỉ niệm Nam Kì khởi nghĩa (23/11/1940-23/11/1959) và kỉ
niệm ngày thành lập Đảng (3/2/1930-3/2/1960).
Sau Hội nghị quán triệt Nghị quyết 15, Khu ủy chủ trương phát
động các tỉnh mièn Trung Nam Bộ đồng loạt khởi nghĩa, mở đầu vào
ngày 15 tháng 1 năm 1960. Trước tình hình đó, tỉnh củng cố thêm một
bước cho Tiểu đoàn 502: để giữ bí mật lực lượng trong quá trình hoạt
động đã đổi phiên hiệu cho các đại đội, thành lập các tiểu đoàn trinh sát
đặc công, củng cố bộ phận quân y, quân giới, xưởng sửa chữa vũ khí,
quân số bổ sung lên tới 200 cán bộ, chiến sĩ, vũ khí trang bị khá đầy đủ.
Chương hai
Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân đẩy mạnh ba mũi công
mở rộng giải phóng, tham gia Tổng tiến công và nổi dậy
xuân Mậu Thân(1961-1968).
1. Góp phần cùng toàn quân, toàn dân đánh bại chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ (1961-1965)
Sau thắng lợi của cao trào Đồng Khởi, từ cuối năm 1960, đế quốc
Mĩ buộc phải thay đổi chiến lược, chuyển sang “Chiến tranh đặc biệt” để
đối phó với cách mạng miền Nam, chiếm lại những địa bàn và vùng dân
cư đã mất.
Bước vào giai đoạn chống phá của Mĩ-ngụy, lực lượng vũ trang
của tỉnh được củng cố, kiện toàn lại tổ chức, nâng cao hiệu xuất tác chiến.
Tỉnh nhất trí phương án Tiểu đoàn 502 có ba đại đội bộ binh: 272, 274 và
198.Các phân đội đặc công, trinh sát, quân y, hậu cần, quân khí củng cố
một bước, ban chỉ huy tiểu đoàn vẫn như cũ. Tỉnh đổi phiên hiệu đại đội
cơ động 271 thành đại đội 209 và cho thành lập thêm một đại dội cơ động
mới là 261.
Để phá âm mưu bình định Đồng Tháp Mười của địch, tỉnh ủy chỉ

đạo các Đảng bộ địa phương, các đơn vị vũ trang, lực lượng chính trị,
binh vận…tiến hành ba cuộc đấu tranh chính trị lớn vào ngày 4 tháng 10
năm 1960, ngày 7 tháng 1 năm 1961 và ngày 5 tháng 3 năm 1961. Phối
hợp với đấu tranh chính trị, Tiểu đoàn 502 cùng với nhân dân huyện Cao
Lãnh giành thắng lợi ở Cả Mác (3/2961).
Không thực hiện được mục tiêu kế hoạch bình định miền Nam
trong 18 tháng (6/1961- cuối 1962), Mĩ-Diệm buộc phải chuyển qua thực
hiện kế hoạch Mác Namara, bình định miền Nam trong ba năm (1963-
1965). Nội dung chủ yếu của kế hoạch này là tập trung lực lượng càn
quét, gom dân lập ấp chiến lược một cách ào ạt, vừa tập trung bình định
vùng trọng điểm, vừa đánh phá trên diện rộng.
Trong những năm 1963, Tỉnh ủy chỉ đạo mở ba đợt tấn công phá
ấp chiến lược: đợt 1 (1/1963-6/1963), đợt 2 (7/1963-10/1963), đợt 3 (từ
tháng 11 trở đi). Trọng điểm là Cao Lãnh. Tiểu đoàn 502 đã liên tiếp
giành được nhiều thắng lợi như: trận Bình Hàng Tây (22/12/1963), trận
Xẻo Quýt (6. 1963)…
Tiểu đoàn 502 và các lực lượng vũ trang trong tỉnh, phối hợp chặt
chẽ với lực lượng chính trị, binh vận, đẩy mạnh tiến công địch trên toàn
chiến trường, tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch, phá ấp chiến lược, giành
thắng lợi to lớn. Một số chiến thắng tiêu biểu như: tập kích đại đội bảo an
huyện Cao Lãnh đóng ở Bình Hàng Trung (14/3/1964), diệt đồn Cái Sách
(15/4/1964), tiến công địch ở vùng ven thị xã Cao Lãnh (5/1964)…
Trong hơn bốn năm, Tiểu đoàn 502 và các lực lượng vũ trang của
tỉnh đã cùng toàn dân, vượt qua nhiều khó khăn, ác liêt, đánh thắng
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ - ngụy trên chiến trường Kiến Phong. Cán
bộ, chiến sĩ luôn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của Tỉnh
ủy và chỉ đạo của quân khu, liên tục tiến công địch, hỗ trợ đắc lực cho
phong trào phá ấp chiến lược của nhân dân, đánh bại nhiều cuộc càn quét
của địch, bao vây, tiến công, diệt và bức rút nhiều đồn bốt, chủ động phục
kích, tập kích nhiều trận thắng lợi. Đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực

địch. Những thắng lợi trên của quân và dân tỉnh Kiến Phong đã góp phần
cùng toàn miền Nam làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của
Mĩ - ngụy, tạo thế và lực mới, tiếp tục giành thắng lợi trước những âm
mưu chiến lược mới.
2. Góp phần đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ
trên chiến trường Kiến Phong (1965-1968)
Từ đầu năm 1965, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ có bước tiến
mới. Trước sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyển
sang dùng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mĩ vào
trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam, bước phản công nhằm
giành lại quyền chủ động, giành thắng lợi quyết định về chiến lược. Biện
pháp chủ yếu của chiến lược là tìm và diệt.
Trên cơ sở quán triệt quyết tâm của trung ương Đảng, của chủ tịch
Hồ Chí Minh, các nghị quyết của trung ương Cục và chỉ đạo của Tỉnh ủy
Kiến Phong, Tiểu đoàn 502 đã tập trung các đơn vị của mình lại, tiến
hành củng cố tổ chức, bổ sung tân binh, huấn luyện kĩ thuật cho bộ đội.
Đặc biệt tỉnh mở lớp huấn luyện sử dụng hỏa lực cho cán bộ. Tiểu đoàn
502 lúc này biên chế thành bốn đại đội tập trung, thường gọi là C1, C2,
C3,C4. Quân số được bổ sung, đại đội trung bình có 80 đồng chí, vũ khí
do sự chi viện của miền Bắc nên tương đối đủ và có hỏa lực mạnh.
Song song công tác tổ chức huấn luyện, tiểu đoàn mở đợt giáo dục
chính trị, học tập tình hình nhiệm vụ mới, xây dựng quyết tâm đánh thắng
giặc Mĩ xâm lược. Qua đó, đã củng cố được niềm tin và khả năng đánh
thắng Mĩ của cán bộ, chiến sĩ, hăng hái hưởng ứng phong trào thi đua
“Tìm Mĩ mà đánh”, “Tìm Mĩ mà diệt”. Tiểu đoàn 502 đã liên tiếp giành
nhiều thắng lợi như: tập kích địch trên kênh ông Cả thuộc xã Tân An thị
xã Cao Lãnh (28/2/1965), tập kích địch tại Tân An (30/2/1965)…
Những tháng đầu năm 1966, Mĩ - ngụy mở cuộc phản công chiến
lược mùa khô lần thứ nhất trên toàn miền Nam. Ở Kiến Phong, địch mở
nhiều cuộc hành quân, càn quét đánh vào các căn cứ, phá hoại mùa

màng… Tiểu đoàn 502 và các lực lượng vũ trang của tỉnh đã liên tục tiến
công tiêu hao, tiêu diệt địch: tập kích quân địch tại đồn Cái Tre thuộc
huyện Thanh Bình (10/4/1966), tập kích đồn Bà Dư, Mĩ Hội thuộc huyện
Long Hiệp (23/5/1966) tấn công sân bay Tân Tịch thuộc thị xã Cao Lãnh
(18/7/1966)…
Với những thắng lợi trên, ta vẫn tiến công địch bằng ba mũi, bước
đầu có kinh nghiệm đánh Mĩ, góp phần cùng toàn miền Nam làm thất bại
cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 của Mĩ-ngụy.
Bước vào mùa khô 1966-1967, địch mở cuộc phản công chiến lược
lần thứ hai. Cường độ chiến tranh cao hơn và ác liệt hơn, quy mô càn phá
rộng hơn. Để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới, Tiểu đoàn 502 tổ chức
học tập nhằm củng cố thêm tinh thần và quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ
cho cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn. Nhờ vậy, Tiểu đoàn 502 liên tiếp giành
được nhiều thắng lợi như: tập kích địch ở Đốc Binh Kiều (13/7/1967), tấn
công vào khu kho hậu cần tiểu khu Kiến Phong tại xã Mĩ Trà (12/8/1967)
…làm thất bại cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của Mĩ-ngụy.
Qua hơn hai năm (5/1965-12/1967) đối mặt với “Chiến tranh cục
bộ” của Mĩ, Tiểu đoàn 502 nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, dũng
cảm tiến công địch, từng bước làm tổn thất nặng nề các lực lượng,
phương tiện chiến tranh và đánh bại các thủ đoạn đánh phá ác liệt, nguy
hiểm của địch, thực hiện được yêu cầu chính trị ở địa phương.
3. Tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân
1968 ở tỉnh Kiến Phong
Sau các cuộc phản công chiến lược của địch, thực tế chiến trường
nổi lên tình hình: địch đã thất bại nhiều mặt, dư luận rộng rãi rên thế giới
ngày càng phản đối Mĩ xâm lược Việt Nam; giới cầm quyền Mĩ bắt đầu
dao động, lúng túng nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục tăng quân, chuẩn bị kế
hoạch mở cuộc phản công; ta đã thắng lớn nhưng chưa làm chuyển biến
cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta.
Trên cơ sở phân tích toàn diện cuộc chiến tranh giữa ta và đế quốc

Mĩ trên cả hai miền Nam, Bắc, Hội nghị trung ương (14/1/1968) nhất trí
thông qua quyết định: mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân năm 1968 nhằm mục tiêu “Giáng cho địch một đòn thật mạnh và
hiểm, bất ngờ và đồng loạt, làm cho Mĩ phải lung lay ý chí xâm lược, tạo
nên sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta”. Trên tinh thần
đó, tỉnh quyết định rút bộ đội huyện bổ sung cho tỉnh, chuyển du kích xã
lên bộ đội huyện. Điều một bộ phận của Tiểu đoàn 502A sang làm nòng
cốt để tỉnh điều thêm cán bộ ở tỉnh và bộ đội huyện thành lập Tiểu đoàn
502B, tiểu đoàn này do đồng chí Sáu Huy làm tiểu đoàn trưởng. Tỉnh rút
đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 502 củng cố và trang bị thêm vũ khí mới,
đặt phiên hiệu là đại đội 67. Ngoài ra, tỉnh còn thành lập đại đội đặc công,
trinh sát và đặc biệt là đại đội thông tin với ba trung đội: vô tuyến, hữu
tuyến và truyền đạt.
Như vậy, trước giờ tổng tiến công, tỉnh có hai tiểu đoàn: 502A và
502B, một đại đội trợ chiến, một đại đội đặc công, một đại đội trinh sát,
một đại đội thông tin. Các đơn vị đều được bổ sung đủ quân số theo biên
chế và tăng cường trang bị nhất là hỏa lực. Công tác động viên chính trị,
lãnh đạo tư tưởng được tiến hành khẩn trương, sôi nổi đã làm cho cán bộ,
chiến sĩ nhận rõ thời cơ lịch sử của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân, mọi người đều có quyết tâm cao, sẵn sàng bước vào cuộc tổng
tiến công với khí thế cao.
Mục tiêu tiến công của tỉnh Kiến Phong là thị xã Cao Lãnh. Tiểu
đoàn 502A được giao nhiệm vụ đột phá ở hướng chủ yếu từ đông nam lên
để đánh chiếm thị xã Cao Lãnh. Tiểu đoàn 502B được giao nhiệm vụ
chiến đấu ở hướng thứ yếu. Đêm ngày 29, rạng sáng ngày 30 Tết, cả hai
tiểu đoàn đều đồng loạt tấn công. Nhờ tinh thần chiến đấu dũng cảm,
ngoan cường nên hai tiểu đoàn đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều quân địch, phá
hủy nhiều đồn bốt của địch, kiên cường bám trụ và đánh địch phản kích
có kết quả, góp phần cùng toàn tỉnh, toàn miền Nam và cả nước giành
thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân

năm 1968, buộc đế quốc Mĩ phải xuống thang chiến tranh và chấp nhận
ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari.
Chương ba
Kiên cường bám trụ, chống phá địch, góp phần đánh
bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mĩ
(1969-27/1/1973).
1. Khắc phục khó khăn, bám trụ chiến đấu và võ trang tuyên
truyền vùng tôn giáo Hòa Hảo (chợ Mới).
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và
dân ta đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ-ngụy.
Nhưng đế quốc Mĩ rất ngoan cố, tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh, đồng
thời mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, tiếp tục sử dụng
quân đội viễn chinh Mĩ làm chỗ dựa để thực hiện chiến lược “ Việt Nam
hóa chiến ranh” , “dùng người Việt giết người Việt” , “dùng người Đông
Dương giết người Đông Dương” bằng tiền của, vũ khí của Mĩ và do
người Mĩ chỉ huy.
Trước tình hình mới, Tỉnh ủy Kiến Phong chủ trương kiên quyết
“bám đất, bám dân, bám chiến trường”, đẩy mạnh đánh phá địch bằng du
kích chiến tranh, phối hợp với đấu tranh ba mặt, bảo tồn và giữ vững lực
lượng, bám trụ, đánh bại kế hoạch bình định của địch, mở rộng vùng căn
cứ và vùng giải phóng. Chỉ đạo các lưc lượng vũ trang phải kiên quyết
bám trụ, đánh địch phản kích, chống càn quét, dùng đặc công, biệt động
đánh sâu trong thị xã, thị trấn và vũ trang tuyên truyền trong vùng yếu…
để hỗ trợ cho nhân dân đánh phá bình định và giành quyềnn làm chủ.
Tiểu đoàn 502 đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi như: đánh
địch càn quét vào các xã Long Hiệp, Mĩ Hộ (23/3/1969–28/3/1969), đánh
thiệt hại nặng đồn An Bình (17/4/1969)…Đặc biệt, trong sáu ngày đêm
(12/5/1969-17/5/1969), Tiểu đoàn 502, bộ đội huyện Thanh Bình và đoàn
cán bộ của tỉnh đã thọc sâu vào vùng tôn giáo Hòa Hảo, tiến hành vũ
trang tuyên truyền giành được thắng lợi lớn về chính trị và quân sự.

Thông qua hoạt động võ trang tuyên truyền, tiến công địch, tôn trọng và
bảo vệ phong tục tập quán, tài sản của nhân dân…đã làm cho phần lớn
đồng bào tín đồ thấy rõ bản chất tốt đẹp của lực lượng vũ trang cách
mạng, bước đầu có chuyển biến tin tưởng cách mạng và có những hành
động giúp đỡ bộ đội như: tiếp tế cơm nước, cho muợn xuồng, nuôi giấu
thương binh…
Tháng 7 năm 1969, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu quân và dân cả
nước kiên trì và đẩy mạnh cả nước “Đánh cho quân Mĩ phải rút hết sạch,
đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ hết”, giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến của ta nói chung và của chiến trường Kiến
phong nói riêng đâng từng bước khắc phục khó khăn, vươn lên giành
thắng lợi mới, thì ngày 2 tháng 9 năm 1969, chủ tịch Hồ Chí Minh từ
trần. Đây là một tổn thất vô cùng to lớn của dân tộc ta. Người đã để lại Di
chúc thiêng liêng cho đồng bào và chiến sĩ cả nước. Biến đau thương
thành sức mạnh, quân và dân Kiến Phong, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 502
quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu và liên
tiếp giành được nhiều thắng lợi: phục kích địch ở Bình Hàng Trung
(10/6/1970), tập kích vào sở chỉ huy của liên đoàn biệt động quân 41
(9/1971)…
Nhờ chuyển hướng hoạt động, tập trung vào đánh phá, bình định,
bố trí, sử dụng lực lượng vũ trang hợp lí, Tiểu đoàn 502 đã vượt qua
nhiều khó khăn, gian khổ trong thời kì địch tăng cường bình định, kiên
quyết bám đất, bám dân, bám cơ sở, liên tục tiến công địch với quy mô và
phương thức thích hợp. Đến cuối năm 1971, ta đã khôi phục và củng cố
được lực lượng ba thứ quân, bước đầu tạo được thế mới, lực mới để đẩy
mạnh đánh phá bình định của địch ở mức cao hơn.
2. Cùng với quân dân Kiến Phong tham gia cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 và chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình
định trên chiến trường trọng điểm của tỉnh.

Do trung ương có nhận định đúng, chủ trương chính xác, quân dân
ta đã đánh bại cao điểm hoạt động quân sự cao nhất, cố gắng nhất của
quân ngụy trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Những thắng lợi
trên tạo điều kiện cho ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên
toàn miền Nam nhằm tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng,
góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng địch và ta, làm thay đổi cục diện
cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Trong cuộc tiến công chiến lược này, ta chủ trương kết hợp ba đòn
chiến lược: đòn tiêu diệt của chủ lực trên chiến trường lựa chọn, đòn tiến
công và nổi dậy đánh phá bình định ở nông thôn, đòn đấu tranh chính trị
ở các thành thị; kết hợp ba mặt trận đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị
và đấu tranh ngoại giao; giành thắng lợi quyết định ở miền Nam. Kiến
Phong nằm trong vùng trọng điểm chiến dịch tiến công tổng hợp của khu
8.
Tỉnh bổ sung cho Tiểu đoàn 502 một đại đội và rút một đại đội của
Tiểu đoàn 718 đưa sang làm nòng cốt, biên chế lại tiểu đoàn, đưa quân số
lên 200 quân và lấy lại phiên hiệu Tiểu đoàn 502A. Tiểu đoàn được củng
cố cả quân số và trang bị vũ khí, có bốn đại đội: 1, 2, 3, 4 do đồng chí Ái
Việt làm tiểu đoàn trưởng. Đồng thời lấy Tiểu đoàn 718 làm nòng cốt, bổ
sung thêm ba đại đội tân binh, thành lập lại Tiểu đoàn 502B do đồng chí
Mười Cường làm tiểu đoàn trưởng.
Hai tiểu đoàn đã chiến đấu vô cùng anh dũng, giành được nhiều
thành thắng lợi to lớn như: diệt viện ở Mĩ Thọ (22/4/1972), tổ chức vây
đồn Cống Trực (5/6/1972), phục kích ở khu vực cống Mười Nẫn thuộc
vùng 4 Thiện Mĩ (11/6/1972), phục kích tại ấp Mĩ Tây thuộc xã Mĩ Qúy
(6/7/1972), phục kích tại khu vực đồi Cao Đài và Xẻo Của thuộc xã Bình
hàng Tây (31/8/1972)…
Các tiến công và đợt nổi dậy trong năm 1972 của quân và dân Kiến
Phong đã làm chuyển biến quan trọng tình hình chiến lược của tỉnh, giành
và chuyển lên thế chủ động tiến công địch về quân sự, chính trị, binh vận,

tạo được thế và lực mới để tiến lên giành những thắng lợi tiếp theo.
Thắng lợi của quân và dân Kiến Phong, trong đó nòng cốt là Tiểu đoàn
502 đã góp phần vào thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược năm
1972 trên toàn miền Nam, buộc Mĩ phải kí hiệp định Pari, rút hết quân Mĩ
ra khỏi miền Nam, làm cho tương quan lực lượng giữa ta và địch thay đổi
có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến lên giành thắng lợi cuối
cùng.
Chương bốn
Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân kiên phong đánh bại âm
mưu bình định lẫn chiếm của địch, tham gia Tổng tiến công
và nổi dậy mùa xuana1975, giải phóng quê (28/1/1973-
6/5/1975).
1. Tham gia đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm của địch.
Theo quy định của Hiệp định Pari về Việt Nam, Mĩ phải tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam
kết chấm dứt dính líu về quân sự, phải rút hết quân Mĩ và quân các nước
khác ra khỏi miền Nam Việt Nam. Thế nhưng Mĩ vẫn âm mưu dùng ngụy
quân, ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của
Mĩ.
Để thực hiện âm mưu đó, Mĩ tăng cường viện trợ ồ ạt tiền của, vũ
khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy, ráo riết bắt lính, tăng cường lực
lượng vũ trang ở cơ sở, trực tiếp khống chế nhân dân, liên tiếp mở các
cuộc hành quân càn quét.
Trong khi đó, ta có khuyết điểm và sơ hở là không kịp thời, kiên
quyết phản công và tiến công địch, nên chúng đã lấn chiếm, bình định
được nhiều vùng, gây cho ta những tổn thất nhất định.
Tháng 7 năm 1973, Hội nghị trung ương lần thứ 21 họp và đề ra
chủ trương: kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt
trên cả ba vùng chiến lược. Trên tinh thần đó, Tiểu đoàn 502A và Tiểu

đoàn 502 B đã chiến đấu dũng cảm và giành được nhiều thắng lợi như:
chặn viện tại đồn Đường Gỗ thuộc xã Nhị Mĩ (20/4/1973), vây lấn đồn
bốt ở vùng kinh 3 Mĩ Điền thuộc xã Thanh Mĩ (3/12/1973), vây ép và bức
rút đồn Hai Biển (11/ 1973), tập kích tiêu diệt đại đội 4 của tiểu đoàn bảo
an 543 (5/1974), tập kích đại đội 1 của tiểu đoan bảo an 544 đóng dã
ngoại tại kinh 1 vàm Muơng Khai (13/7/1974 )…
Trong suốt năm 1973 và năm 1974, Tiểu đoàn 502A, Tiểu đoàn
502B luôn quán triệt tư tưởng tiến công địch, do dự liên tục tiến công
địch hết đợt này đến đợt khác và tấn công đều khắp trên tất cả các vùng,
cùng quân và dân trong tỉnh tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch, thu nhiều vũ
khí; đánh bại các mũi lấn chiếm trọng điểm của địch, đẩy lùi các mũi bình
định, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng; tạo thêm được thế mới, lực
mới sẵn sàng đưa cuộc kháng chiến trong tỉnh lên bước cao hơn.
2. Tham gia Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975,
góp phần giải phóng hoàn toàn tỉnh nhà.
Để tạo điều kiện chuyển biến mạnh vùng yếu Hòa Hảo, tạo sự gắn
bó chiến trường giữa đông và tây sông Tiền, tháng 8 năm 1974, trung
ương Cục miền Nam quyết định giải thể tỉnh Kiến Phong thành lập tỉnh
Sa Đéc và tỉnh Long Châu Tiền. Riêng tỉnh Sa Đéc tiếp tục phát huy
truyền thống đấu tranh của quân và dân trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mĩ vừa qua, tạo thuận lợi mới cho tiến công địch và chuyển
phong trào. Toàn bộ lực lượng của tỉnh Kiến Phong đều bố trí, hoạt động
ở tỉnh Sa Đéc. Tỉnh ủy Sa Đéc đã nhanh chóng ổn định tổ chức, bố trí cán
bộ, bố trí lực lượng, xác định các khu vực chiến trường…Xác định khu
vực trọng điểm và khẩn trương mọi mặt để bước vào đợt Xuân Hè năm
1975.
Chiến dịch Xuân Hè năm 1975 được chia làm ba đợt: đợt 1 (20/12.
1974-20/1/1975): trong đợt này, Tiểu đoàn 502B vẫn đứng chân và hoạt
động ở Cao Lãnh, Tiểu đoàn 502A có nhiệm vụ hoạt động ở phía Nam
tỉnh Sa Đéc. Trong đợt 1, hoạt động của hai tiểu đoàn cũng như các lực

lượng khác đạt kết quả chưa cao. Đợt 2 (20/1/1975-20/2/1975): do công
tác chuẩn bị tương đối tốt nên Tiểu đoàn 502A đã diệt được ba mục tiêu
của địch, Tiểu đoàn 502B vẫn đứng chân ở Cao Lãnh, phục kích địch ở
kinh Xáng Xéo (10/2/1975), cuối tháng 2 năm 1975, Tiểu đoàn 502B
được điều sang phía nam sông Tiền. Đợt 3 (27/2/1975-18/3/1975): do tác
động của chiến trường chung, khí thế quân và dân Sa Đéc lên cao, tạo lên
một sức mạnh mới để tiến công địch.
Giữa tháng 4 năm 1975, tỉnh ủy Sa Đéc nhận được lệnh tổng công
kích, tổng khởi nghĩa của Trung ương Cục và chỉ đạo của Khu ủy. Ngày
16 tháng 4 năm 1975, Tỉnh ủy Sa Đéc ra lệnh cho các lực lượng chính trị,
vũ trang, binh vận thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên địa bàn
toàn tỉnh, tập trung giải phóng nông thôn.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Tỉnh ủy nhận thông báo về ngày giờ
của chiến dịch Hồ Chí Minh. Khi được tin Dương Văn Minh đầu hàng,
Ban chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho Tiểu đoàn 502A, Tiểu đoàn 502B
hành quân thần tốc về giải phóng thị xã Sa Đéc. Đến 19 giờ ngày 30
tháng 4 năm 1975, ta đã vào tiếp quản thị xã Cao Lãnh. Cùng đêm ngày
30 tháng 4 năm 1975, lực lượng ta đã tiến công, chiếm giữ hầu hết các chi
khu, thị xã trong toàn tỉnh.
Trước đòn tấn công mạnh của ta, ngày 4 tháng 5 năm 1975 địch rút
về nội ô chi khu và chùa Tây An để theo bọn đầu sỏ Lương Trọng Tường,
Huỳnh Trung Hiếu đang hô hào tử thủ. Nhân có hội này, quân ta vượt
sông làm chủ sông Mĩ Luông, sông ông Chưởng…và tiếp tục tấn công
địch bằng ba mũi giáp công, đến ngày 5 tháng 5 năm 1975, phần lớn quân
địch đã bị tan rã, số còn lại hoang mang, rối loạn.
Chớp thời cơ, sáng ngày 6 tháng 5 năm 1975, từ các hướng ta đồng
loạt tấn công vào hang ổ cuối cùng của địch. Địch hoang mang, hoảng sợ,
vội vàng đầu hàng. Thừa thắng quân ta xông lên làm chủ hoàn toàn khu
vực này, giải phóng hoàn toàn huyện chợ Mới. Chợ Mới là đơn vị hành
chính cuối cùng của tỉnh được giải phóng.

Phần hai : NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CUỐN
“LỊCH SỬ ĐOÀN 502 ĐỒNG THÁP (1959-1975)”
1. Về nội dung
Cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)” đã tái
hiện lại sự hình thành, phát triển và quá trình đấu tranh kiên cường, bất
khuất của Tiểu đoàn 502 dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Tháp trong
những năm 1959 đến năm 1975.
Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp là một bộ phận của lịch sử toàn
Đảng. Nội dung của cuốn sách không tách rời nội dung của toàn Đảng,
không tách rời những sự kiện diễn ra trên thế giới, trong nước và những
chủ trương, chính sách mà Đảng đề ra trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định. Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước,
Tiểu đoàn 502 cũng có những bước phát triển, ngày càng trưởng thành và
trở thành lực lượng nòng cốt của tỉnh.
Cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)” miêu
tả chi tiết, tỉ mỉ từ ngày tháng diễn ra trận đánh, số người chết, bị thương,
thiệt hại vật chất. Qua đó góp phần làm rõ hơn nội dung của cuốn sách.
Đặc biệt trong đó có những tư liệu, những sự kiện mang ý nghĩa lớn, có
tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng.
Nội dung xuyên suốt trong cuốn sách là nói về lịch sử của Tiểu
đoàn 502 Đồng Tháp, các chương trong cuốn sách trình bày một nội dung
nhất định như: Tiểu đoàn 502 thành lập, làm nòng cốt cho phong trào
Đồng Khởi của tỉnh (1959-1960), Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân đẩy
mạnh ba mũi công, mở rộng vùng giải phóng, tham gia Tổng tiến công và
nổi dậy Xuân Mậu thân (1961-1968), Kiên cường bám trụ, chống phá
bình định, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của
đế quốc Mĩ (1969-27/1/1973), Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân Kiến Phong
đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm của địch, tham gia Tổng tấn công
và nổi dậy mùa xuân 1975, giải phóng quê hương (28/1/1973- 6/5/1975).
Tuy nhiên, nội dung của các chương đều góp phần làm rõ nội dung chung

của cuốn sách là Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp.
Bên cạnh những ưu điểm của cuốn sách, trong quá trình biên soạn
cuốn sách còn mắc một số hạn chế như một số chỗ diễn đạt hơi dài dòng,
một số chỗ miêu tả quá chi tiết làm cho người đọc khó nhớ được chính
xác sự kiện, một số câu viết hơi khó hiểu.
2. Về phương pháp trình bày
Nhìn chung, các công trình Lịch sử Đảng bộ đều mang tính khoa
học: tôn trọng sự thật lịch sử, những mô tả, phân tích, đánh giá lịch sử
đều phải bám sát sự thật lịch sử, trung thực, khách quan, không tơ hồng,
bôi đen hoặc hiện đại hóa lịch sử; đảm bảo tính Đảng: phải đứng trên lập
trường, quan điểm của Đảng mà nhìn nhận, xem xét lịch sử, phải phục vụ
lợi ích của Đảng, của dân tộc và của sự nghiệp cách mạng. Qua đó góp
phần dựng lại bức tranh sinh động, chân thực, toàn diện và đầy đủ về lịch
sử của Đảng bộ đó nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung. Do
đó, cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)” cũng
không nằm ngoài quy luật đó, nó cũng mang tính khoa học, tính Đảng.
Cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)” được
trình bày với các phương pháp lôgíc, phương pháp lịch sử, phương pháp
so sánh, phương pháp điều tra xã hội, phương pháp thống kê…
3. Về hình thức trình bày
Cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)” đã
đảm bảo yêu cầu của một cuốn sách nói chung, tức là có đầy đủ trang bìa,
lời mở đầu, phần nội dung mà cuốn sách tập trung thể hiện, phần kết luận,
phần mục lục, phần tài liệu tham khảo, nhà xuất bản, năm xuất bản.
Ngoài ra trong cuốn sách còn có thêm những bức ảnh minh họa.
Tên cuốn sách được trình bày ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và phù
hợp với nội dung của cuốn sách là nói về sự hình thành, phát triển và quá
trình đấu tranh kiên cường bất khuất của Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp.
Bố cục của cuốn sách gồm bốn chương, mỗi chương trình bày một
nội dung nhất định tương ứng với từng giai đoạn trong quá trình phát

triển của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu
nước. Giữa các chương có sự lôgíc với nhau, giai đoạn nọ nối tiếp giai
đoạn kia. Tên của mỗi chương ngắn gọn, thâu tóm nội dung của toàn bộ
những nội dung trong chương và phù hợp với tên của cuốn sách.
Trong mỗi chương chia ra làm nhiều mục nhỏ, trong đó nội dung
của mỗi mục thống nhất với nội dung của chương.
Các từ ngữ trong cuốn sách dễ hiểu, xúc tích, phù hợp.
Bên cạnh những ưu điểm mà cuốn sách đã đạt được thì vẫn còn tồn
tại những nhược điểm như:
Trong mỗi chương chia ra làm nhiều mục nhỏ và số lượng các
mục không tương ứng nhau: chương một gồm bốn mục, chương hai gồm
ba mục, chương ba gồm hai mục và chương bốn gồm hai mục.
Trong quá trình in ấn còn mắc một số lỗi chính tả như: trận địa phụ
kích (trang 40), lập ấp chiến lưựoc (trang 73), bức rút nhiều đồn, bót địch
(trang 80), huấn luyện chiến kĩ thuật (trang 83), lấn chiếm xúc dân (trang
86), toàn diện cục diện (trang 96), phong trào đồng khởi (phần mục lục),
ba mũi giáp công công (phần mục lục).
Một số chỗ sử dụng từ ngữ chưa chính xác như: tiêu đề của mục 1
trong chương một: Vài nét về đất nước, con người tỉnh Đồng Tháp. Ở
đây, chúng ta phải đổi lại là: Vài nét về tỉnh Đồng Tháp và con người
Đồng Tháp

KẾT LUẬN
Lịch sử tiểu đoàn 502 Đồng Tháp được thành lập trong điều kiện cách
mạng miền Nam đang gặp nhiều khó khăn, thử thách, Đảng phải rút vào
hoạt động bí mật, bị Mĩ-Diệm khủng bố ác liệt, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn
502 đã chịu đựng biết bao gian khổ, hi sinh. Được sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng bộ tỉnh nhà, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, cán bộ chiến
sĩ tiểu đoàn luôn nêu cao tinh thần hi sinh anh dũng, tự lực tự cường,
khắc phục khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và

nhân dân giao phó.
Đồng Tháp là một tỉnh được thành lập theo nghị định của Chính phủ vào
cuối năm 1975 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Sa Đéc và Long Châu Tiền.
Tỉnh bao gồm các huyện: Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Thanh Bình,
thị xã Cao Lãnh, Tháp Mười, Thạnh Hưng, Lai Vung, Châu Thành, thị xã
Sa Đéc và Cao Lãnh.
Nhằm đáp ứng lòng mong mỏi của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong
tỉnh, cũng là để lưu giữ, tuyên truyền rộng rãi thành tích, truyền thống vẻ
vang của Tiểu đoàn 502 anh hùng, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp đã
chỉ huy biên soạn cuốn sách “Lịch sử Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-
1975)”. Cuốn sách do nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Hà Nội) phát
hành vào năm 1999.
Quá trình ra đời và phát triển của tiểu đoàn 502 gắn liền với quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước (1954-1975), và trong từng thời kỳ của tiểu đoàn 502 Đồng
Tháp:
Tiểu đoàn 502 thành lập, làm nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi
của tỉnh (1959 -1960).
Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân đẩy mạnh ba mũi công, mở rộng
vùng giải phóng, tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân
(1961-1968).
Kiên cường bám trụ, chống phá bình định, góp phần đánh bại chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”của đế quốc Mĩ (1969- 27/1/1973)
Tiểu đoàn 502 cùng nhân dân Kiến Phong đánh bại âm mưu bình
định lấn chiếm của địch, tham gia Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân
1975, giải phóng quê hương (28/1/1973-6/5/1975).
Lịch sử tiểu đoàn 502 Đồng Tháp ra đời đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc lãnh đạo và góp phần vào cuộc đấu tranh chống Mĩ
cứu nước. về mặt nội dung. Cuốn sử tái hiện lại bức tranh sinh động của
quân và nhân dân miền Nam trong phong trào đấu tranh chống Mĩ cứu

nước thống nhất nước nhà, đơn vị 502 bộ đội địa phương Đồng Tháp, đơn
vị được nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đó là lá cờ đầu về thành tích chiến đấu, là niềm tự hào không những của
cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 502 mà còn là của Đảng bộ và nhân dân tỉnh
nhà. Về phương pháp trình bày. Nhìn chung, các công trình Lịch sử Đảng
bộ đều mang tính khoa học: tôn trọng sự thật lịch sử, những mô tả, phân
tích, đánh giá lịch sử đều phải bám sát sự thật lịch sử, trung thực, khách
quan, không tơ hồng, bôi đen hoặc hiện đại hóa lịch sử; đảm bảo tính
Đảng: phải đứng trên lập trường, quan điểm của Đảng mà nhìn nhận, xem
xét lịch sử, phải phục vụ lợi ích của Đảng, của dân tộc và của sự nghiệp
cách mạng. Qua đó góp phần dựng lại bức tranh sinh động, chân thực,
toàn diện và đầy đủ về lịch sử của Đảng bộ đó nói riêng và của toàn dân
tộc Việt Nam nói chung. Về hình thức trình bày. Cuốn sách “Lịch sử
Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp (1959-1975)” đã đảm bảo yêu cầu của một
cuốn sách nói chung, tức là có đầy đủ trang bìa, lời mở đầu, phần nội
dung mà cuốn sách tập trung thể hiện, phần kết luận, phần mục lục, phần
tài liệu tham khảo, nhà xuất bản, năm xuất bản. Ngoài ra trong cuốn sách
còn có thêm những bức ảnh minh họa.

×