Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ÔN THI TỐT NGHIỆP 12, PHAN TAI HIEN KIEN THUC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.85 KB, 20 trang )

ÔN THI TỐT NGHIỆP
PHẦN TÁI HIỆN KIẾN THỨC
VĂN XUÔI 12
TÁC
PHẨM
TÁC GIẢ HOÀN CẢNH
SÁNG TÁC
Ý NGHĨA
NHAN
ĐỀ(NẾUCÓ)
GIÁ TRỊ NỘI DUNG, NGHỆ
THUẬT
“VỢ
CHỒNG A
PHỦ”
Tô Hoài
- Tô Hoài: 1920.
- Tên khai sinh: Nguyễn Sen.
- Quê quán: Hà Đông cũ (Hà Nội).
- Gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc
từ năm 1943. Trong kháng chiến
chống Pháp cũng như hoà bình lặp
lại, ông chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực báo chí và văn nghệ.
- Từ sau năm 1954, ông viết nhiều
và thành công ở nhiều thể loại klhác
nhau từ truyện ngắn, truyện dài, hồi
kí đến kịch bản phim rồi tiểu luận
và kinh nghiệm sáng tác.
- 1996, Tô Hoài được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học


nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu
lưu kí (1941), O chuột (tập truyện,
1942), quê người (tiểu thuyết,
1942), truyện Tây Bắc (tập truyện,
1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967)

Truyện ngắn “Vợ
chồng A Phủ” là
tác phẩm đặc sắc
trong tập “truyện
Tây Bắc” (1953),
đó là kết quả của
chuyến đi tham dự
chiến dịch giải
phóng Tây Bắc của
nhà văn Tô Hoài
mà tác giả đã “cùng
ăn, cùng ở, cùng
làm” với đồng bào
dân tộc Tây Bắc
trong suốt 8 tháng
của năm 1952. Tác
giả đã thổ lộ “Đất
nước và con người
Tây Bắc đã để
thương để nhớ cho
tôi nhiều, không
thể bao giờ quên”.
I. Giá trị nội dung tư tưởng

tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ”
a. Giá trị hiện thực:
- Bức tranh đời sống xã hội của
dân tộc miền núi Tây Bắc - một
thành công có ý nghĩa khai phá
của Tô Hoài ở đề tài miền núi.
- Bộ mặt của chế độ phong kiến
miền núi: khắc nghiệt tàn ác với
những cảnh tượng hãi hung như
địa ngục giữa trần gian.
- Phơi bày tội ác của bọn Thực
dân Pháp.
- Những trang viết chân thực về
cuộc sống bi thảm của người
dân miền núi.
b. Giá trị nhân đạo:
- Cảm thong sâu sắc đối với
dân.
- Phê phán gay gắt bọn thống
trị.
- Ngơi ca những gì tốt đẹp ở
con người.
- Trân trọng đề cao những khát
vọng chính đáng của con người.
- Chỉ ra con đường giải phóng
người lao động có cuộc đời tăm
tối và số phận thê thảm.
II. Tìm hiểu những nét dặc
sắc về nghệ thuật của tác
phẩm:

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật,
miêu tả tâm lí: nhân vật sinh
động, có cá tính đậm nét (với
Mị, tác giả ít miêu tả hành
động, dung thủ pháp lặp lại có
chủ ý một số nét chân dung gây
ấn tượng sâu đậm, đặc biệt tác
giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư,
nhiều khi là tiềm thức chập
chờn … với A Phủ, tác giả chủ
yếu khắc hoạ qua hành động,
công việc những đối thoại giản
đơn).
- Nghệ thuật miêu tả phong tục
Trang 1
tập quán của Tô Hoài rất đặc
sắc với những nét riêng (cảnh
xử kiện, không khí lễ hội mùa
xuân, những trò chơi dân gian,
tục cướp vợ…)
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
miền núi với những chi tiết,
hình ảnh đậm chất thơ.
- Nghệ thuật kể chuyện tự
nhiên, sinh động hấp dẫn.
- Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm
màu sắc miền núi.
VỢ
NHẶT
(Kim Lân)

- Kim Lân (1920 – 2007) tên khai
sinh là Nguyễn Văn Tài.
- Quê quán: làng Phù Lưu, xã Tân
Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh.
- Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn
từ năm 1941, năm 1941 ông tham
gia Hội Văn hoá cứu quốc, sau đó
tiếp tục hoạt động văn nghệ, phục
vụ kháng chiến và CM.
- Ông được dư luận chú ý nhiều hơn
khi đi vào đề tài độc đáo: tái hiện
sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn
quê (đánh vật, chọi gà, thả chim …)
qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp
tâm hồn của người nông dân trước
CM - những người sống cực nhọc,
nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, trong
sang tài hoa.
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết
truyện ngắn và viết về người nông
dân và làng quê VN - mảng hiện
thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu
sắc. Ông đã viết về con người và
cuộc sống ở nông thôn bằng tình
cảm, tâm hồn của một người vốn là
con đẻ của đồng ruộng.
- Tác phẩm chính: Nên vợ nên
chồng (tâp truyện ngắn, 1955), Con
chó xấu xí (tập truyện ngắn 1962)
- Năm 2001, Kim Lân được tặng

giải thưởng nhà nước về văn học
nghệ thuật.
“Vợ nhặt” thực ra
là một chương
trong tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư”,
được viết ngay sau
CMT8 thành công
nhưng còn dang dở
và mất bản thảo
trong kháng chiến.
Sau hoà bình lập
lại, Kim Lân dựa
vào một phần cốt
truyện cũ và viết
nên truyện ngắn
này.
Nhan đề đã
thâu tóm giá trị
nội dung tư
tưởng của tác
phẩm:
- Thứ vợ nhặt
được một cách
ngẫu nhiên.
Người ta hỏi
vợ, cuới vợ,
còn ở đây
Tràng “nhặt”
vợ. Qua đó ta

thấy thân phận
con người bị rẽ
rúng như cái
rơm, cái rác, có
thể “Nhặt” ở
bất kì đâu, bất
cứ lúc nào. Đó
thực chất là sự
khốn cùng của
hhoàn cảnh
- Gia đình
Tràng từ khi có
người “vợ
nhặt” mọi thứ
trở nên gắn bó,
chăm lo, thu
vén cho tổ ấm
gia đình =>
Nhan đề vừa
thể hiện cảnh
thảm của người
dân trong nạn
đói 1945, vừa
bộc lộ sự cưu
mang, đùm bọc
và khát vọng
* Nội dung:
Truyện thể hiện được
thảm cảnh của nhân dân ta
trong nạn đói năm 1945. Đặc

biệt thể hiện được tấm lòng
nhân ái, sức sống diệu kì của
con người ngay bên bờ vực
thẳm của cái chết vẫn hướng về
sự sống và khát khao tổ ấm gia
đình.
*Nghệ thuật:
- Cách kể chuyện tự nhiên, lôi
cuônc hấp dẫn.
- Nghệ thuật tạo tình huống đầy
tính sáng tạo.
- Dựng cảnh chân thực, gây ấn
tượng: cảnh chết đói, cảnh bữa
cơm ngày đói.
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế
nhưng bộc lộ tự nhêin chân thật.
- Ngôn ngữ nhuần nhị, tự nhiên.
Trang 2
hướng tới cuộc
sốmg tốt hơn
và niềm tin của
con người
trong cảnh
khốn cùng.
“RỪNG
XÀ NU”
(Nguyễn Trung Thành
- Tên khai sinh: Nguyễn Văn Báu
(1932)
- Bút danh khác: Nguyên Ngọc.

- Quê quán: Thăng Bình, Quảng
Nam.
- Gia nhập quân đội năm 18 tuổi.
- Sau 1954 tập kết ra Bắc.
- 1962 trở lại chiến trường Miền
Nam, làm Chủ tịch Chi hội văn
nghệ giải phóng miền Trung Trung
Bộ, phụ trách tạp chí Văn nghệ
Quân giải phóng Trung Trung Bộ
- Tác phẩm chính: Đất nước đứng
lên (tiểu thuyết, 1956), Mạch nước
ngầm (truyện vừa, 1960), Rẻo cao
(tập truyện ngắn, 1962), Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc
(tập truyện và kí, 1969), Đất Quảng
(tiểu thuyết, 1971)
* Nhận xét: Trong cả hai cuộc
kháng chiến, Nguyễn Trung Thành
chủ yếu gắn bó với chiến trường
Tây Nguyên. Những thành công lớn
nhất trong sự nghiệp văn học của
ông cũng gắn liền với mảnh đất ấy.
- Năm 1962,
Nguyễn Trung
Thành trở lại chiến
trường Miền Nam
vừa chiến đấu vừa
sáng tác.
- Mùa hè năm
1965, ĐQM bắt đầu

đổ quân ồ ạt vào
Miền Nam, các
chiến dịch càn quét
đưựoc tổ chức qui
mô và rầm rộ hơn.
Trong hoàn cảnh ấy
nhà văn viết “rừng
xà nu” như là một
biểu tượng cho tinh
thần bất khuất kiên
cường của đồng
bào Tây Nguyên
nói riêng và đồng
bào ta nói chung.
- “Rừng xà nu”
đăng lần đầu tiên
trên tạp chí “Văn
nghệ Quân giải
phóng Trung Trung
Bộ (số 2, 1965) sau
đó được tuyển in
trong tập truyện và
kí “Trên quê hương
những anh hùng
Điện Ngọc.
Hình ảnh rừng
xà nu là linh
hồn của tác
phẩm, chứa
đựng cảm xúc

của nhà văn và
tư tưởng chủ đề
của tác phẩm
- Gắn bó mật
thiết với cuộc
sống vật chất
và tinh thần của
dân làng Xô
man
- Gợi lên vẻ
đẹo hùng tráng,
sức sống bất
diệt của cây và
tinh thần bất
khuất của con
người.
=> Mang ý
nghĩa tả thực
và ý nghĩa tượn
trưng.
*Nội dung:
Thông qua
câu chuyện về những
con người ở một bản
làng hẻo lánh, bên những
cánh rừng xà nu bạt
ngàn, xanh bất tận, tác
giả đã dặt ra một vấn đề
có ý nghĩa lớn lao của
dân tộc và thời đại: để

cho sự sống của đất nước
và nhân dân mãi mãi
trường tồn, không có
cách nào khác hơn là
phải cùng nhau đứng lên,
cầm vũ khí chống lại kẻ
thù tàn ác.
*Nghệ thuật:
Rừng xà nu là
một thiên truyện mang ý
nghĩa và vẻ đẹp của một
sử thi trong văn xuôi
hiện đại, với lời văn trau
chuốt, giàu hình ảnh, tác
phẩm đã thể hiện được
vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng
của núi rừng, của con
người và của truyền
thống văn hoá Tây
Nguyên.
“NHỮNG
ĐỨA CON
TRONG
GIA
ĐÌNH
(Nguyễn Thi)
- Nguyễn Thi (1928 – 1968).
- Tên khai sinh: Nguyễn Hoàng Ca.
Bút danh khác: Nguyễn Ngọc Tấn.
- Quê quán: Hải Hậu, Nam Định.

- Mồ côi cha, mẹ đi thêm bước nữa,
Những đứa con
trong gia đình là
một trong những
truyện ngắn xuất
sắc nhất của
Nguyễn Thi, viết
* Nội dung:
Truyện kể về
những con người trong
một gia đình nông dân
Nam Bộ có truyền thống
Trang 3
Nguyễn Thi phải chịu vất vả, tủi
cực từ nhỏ.
- 1943, vào Sài Gòn vừa tự học vừa
đi làm.
- 1945, tham gia CM và sau đó gia
nhập lực lượng vũ trang, cầm súng
chiến đấu. Vừa chiến đấu vừa hoạt
động văn nghệ.
- 1954, ra Bắc tập tập kết, công tác
ở toà soạn tạp chí Văn nghệ Quân
đội một thời gian rồi tình nguyện
trở lại Miền Nam đánh giặc.
- Ông hi sinh ở mặt trận Sài Gòn,
trong cuộc Tổng tấn công Mậu
Thân 1968.
* Cuộc đời nhiều bất hạnh, éo le tạo
nên ở Nguyễn Thi một tâm hồn giàu

suy tư, hiểu đời, hiểu người sâu sắc.
Ông gắn bó đặc biệt với nhân dân
miền Nam bằng một tình cảm thuỷ
chung ân nghĩa và ông đã trút tất cả
những tình cảm đó vào những trang
viết của mình.
- Nhân vật của Nguyễn Thi: hồn
nhiên, yêu đời, căm thù guặc sâu
sắc, gan góc sẵn sàng hi sinh vì quê
hương, vì đồng bào mình.
- Nguyễn Thi là cây bút có khả
năng nhập sâu vào đời sống nội tâm
của nhân vật, tạo nên những trang
viết vừa giàu chất trữ tình vừa đầy
chất hiện thực, với những hình
tượng, những tính cách gân guốc,
có cá tính.
- Tác phẩm chính: gồm nhiều thể
loại bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết.
Sau khi ông hi sinh, tác phẩm của
ông được sưu tập và in trong
“Truyện và kí” xuất bản năm 1978.
- Năm 2000 ông được tặng giải
thưởng HCM về văn học nghệ
thuật.
ngay trong những
ngày chiến đấu ác
liệt năm 1966.
yêu nước, căm thù guặc,
thuỷ chung son sắt với quê

hương, CM. Chính sự gắn
bó sâu nặng giữa tình cảm
gia đình với tình yêu nước,
giữa truyền thống gia đình
với truyền thống dân tộc
đã tạo nên sức mạnh tinh
thần to lớn của con người
VN, dân tộc VN trong
cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước.
* Nghệ thuật:
Tác phẩm thể
hiện những dặc sắc nghệ
thuật về truyện ngắn của
Nguyễn Thi: trần thuật qua
dòng hồi tưởng của nhân
vật, khăc hoạ tính cách và
tâm lí sắc sảo, ngôn ngữ
phong phú, góc cạnh đậm
chất Nam Bộ.
“CHIẾC
THUYỀN
NGOÀI
XA”
(Nguyễn Minh Châu)
- Nguyễn Minh Châu (1930 –
1989).
- Quê quán: Quỳnh Lưu, Nghệ An.
- 1950 tham gia quân đội.
- 1952 – 1958 công tác và chiến đấu

tại Sư đoàn 320.
- 1962, về Phòng Văn Nghệ Quân
Đội sau chuyển sang tạp chí “Văn
“Chiếc thuyền
ngoài xa” viết năm
1983 là truyện ngắn
in đậm phong cách
tự sự triết lí của
Nguyễn Minh
Châu. Với ngôn
ngữ dung dị đời
thường, truyện kể
* Nghĩa tường
minh:
- Chiếc thuyền
ngoài xa: cái
đẹp tuyệt đỉnh
của thiên nhiên,
ngoại cảnh
- Chiếc thuyền
* Nội dung:
Từ câu chuyện về
một bức ảnh nghệ thuật và sự
thật cuộc đời sau bức ảnh,
truyện ngắn “chiếc thuyền
ngaòi xa” mang đến một bài
học đúng đắn về cách nhìn nhận
cuộc sống và con ngườ: một
cách hìn đa diện, nhiều chiều,
Trang 4

nghệ Quân đội”.
- Năm 2000, Nguyễn Minh Châu
được tặng giải thưởng HCM về văn
học nghệ thuật.
-Tác phẩm chính:
Cửa sông (tiểu
thuyết, 1967), Những vùng trời
khác nhau (tập truyện ngắn 1970),
Dấu chân người lính (tiểu thuyết
1972), Miền cháy (tiểu thuyết,
1977) … Đặc biệt với các tập
truyện ngắn: “Người đàn bà trên
chuyến tài tốc hành (1983), bến
quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa
(1987), cỏ lau (1989).
* Nguyễn Minh Châu là một trong
những cây bút tiên phong của văn
học Việt Nam thời kì đổi mới.
lại chuyến đi thực
tế của một nghẹ sĩ
nhiếp ảnh và những
chiêm nghiệm sâu
sắc của ông về
nghệ thuật và cuộc
đời.
ngoài xa: hiện
thực nhọc
nhằn, cay đắng
của người dân
chài.

* Nghĩa hàm
ẩn: Mối quan
hệ giữa nghệ
thuật và đời
sống: nghệ
thuật phải là
tiếng nói trung
thực thấu hiểu
về số phận con
người, chủ
nghĩa nhân đạo
không xa lạ với
số phận con
người.
phát hiện ra bản chất thật sau vẻ
đẹp bên ngoài của hiện tượng.
*Nghệ thuật: Cách khắc hoạ
nhân vật, xây dựng cốt truyện,
xây dựng cốt truyện, sử dụng
ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo
đã góp phần làm nổi bật chủ đề
tư tưởng của tác phẩm.
“HỒN
TRƯƠNG
BA, DA
HÀNG
THỊT”
(Lưu Quang Vũ)
- Lưu Quang Vũ: 1948 – 1988.
- Từ 1970 – 1978 : ông xuất ngũ

làm nhiều nghề để mưu sinh.
- 1978 – 1988 : biên tập viên tạp chí
sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và
trở thành một hiện tượng đặc biệt
của sân khấu kịch trường những
năm 80.
- Là một tài năng đa dạng : làm thơ
viết truyện ngắn, vẽ tranh, soạn
kịch.
- Kịch là đống góp đặc sắc nhất với
những vở gây chấn động dư luận
ảnh hưởng cả trong nước và ngoài
nước.
- Là nhà soạn kịch tài năng nhất của
nèn VHNTVN hiện đại.
- Tác phẩm tiêu biểu :
+ Sống mãi tuổi 17
+ Lời thề thứ 9
+ Tôi và chúng ta.
+ Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

“Hồn trương Ba
da hàng thịt” là tác
phẩm gây được
nhiều tiếng vang
nhất của Lưu
Quang Vũ. vở kịch
được viết vào năm
1981, nhưng đến
năm 1984 mới lần

đầu ra mắt công
chúng. Nhanh
chóng tạo được
nhioêù thiện cảm
với người xem,
“Hồn Trương Ba da
hàng thịt” đã được
công diễn nhiều lần
trên các sân khấu
trong và ngoài
nước.
Đoạn được học
trích từ cảnh VII và
đoạn kết cuả vở
kịch, diễn tả sự đau
khổ, dằn vặt và
quyết định cuối
cùng vô cùng cao
thượng của Hồn
Trương Ba.
* Nội dung:
- Bi kịch của con người khi bị
đặt vào nghịch cảnh : phải sống
nhờ, sống vay mượn, sống tạm
bợ và trái với tự nhiên khiến
tâm hồn nhân hậu thanh cao bị
nhiễm độc và tha hoá bởi sự lấn
át của thể xác thô lỗ, phàm tục.
- Vẻ đẹp tâm hồn của những
người lao động trong cuộc đấu

tranh chống lại sự giả tạo và
dung tục, bảo vệ quyền được
sống đích thực cùng khát vọng
hoàn thiện nhân cách.
* Nghệ thuật :
- Sự sáng tạo từ dân gian, sử
dụng ngôn ngữ kịch.
- Sự kết hợp giữa tính hiện đại
và các giá trị truyền thống.
- Phê phán mạnh mẽ, quyết liệt
và chất trữ tình đằm thắm bay
bổng.
THUỐC (Lỗ Tấn) - Cuối thế kỉ XIX -Tầng nghĩa
* Nội dung:
Trang 5
- Lỗ Tấn: 1881 – 1936.
- Tên thật là Chu Thụ Nhân.
- Quê quán: Thiệu Hưng, Chiết
Giang, miền đông Nam Trung
Quốc.
- Là nhà văn CM lỗi lạc của TQ
TKXX “Trước Lỗ Tấn chưa hề có
Lỗ Tấn, sau Lỗ tấn có vô vàn Lỗ
Tấn” (Quách Mạt Nhược).
- Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã có nhiều
lần đổi nghề để tìm một con đường
cống hiến cho dt: từ nghề khai mỏ,
hang hải rồi đến nghề y, cuối cùng
làm văn nghệ để thức tỉnh quốc dân
đồng bào. Con đuờng gian nan để

chọn nghề của Lỗ tấn vừa mang
đậm dấu ấn lịch sử T. Hoa thời cận
hiện đại, vừa nói lên tâm huyết của
mộ người con ưu tú của dân tộc.
- Quan niệm sáng tác: được thể hiện
nhất quán trong toàn bộ sáng tác
của ông: Phê phán những căn bệnh
tinh thần khiến cho quốc dân mê
muội, tự thoả mãn “ngủ say trong
một cái nhà hộp bằng sắt không có
cửa sổ”
- Tác phẩm tiêu biểu: AQ chính
truyện (kiệt tác văn học hiện đại của
TQ và thế giới), các tập Gào thét,
Bàng hoàng, truyện cũ viết theo
lối mới, hơn chục tập tạp văn có giá
trị phê phán, tính chiến đấu cao.
đầu TKXX, Trung
Quốc bị các nước
Trung quốc xâu xé.
Xã hội Trung Hoa
trở thành nửa
phong kiến nửa
thuộc địa thế nhưng
nhân dân lại cam
phận chịu nhục. đó
là căn bệnh đớn
hèn, tự thoả mãn
cản trở nghiêm
trọng con đường

giải phóng dân tộc.
- Thuốc ra đời vào
đúng hoàn cảnh ấy
như một lời cảnh
tỉnh những ai còn
đang ngơ ngác
trước thời cuộc, chỉ
ra cho họ rằng
Trung quốc đang
như một con bệnh
trầm kha, chỉ tiêu
diệt hết những thứ
vi rút đớn hèn mới
có cơ hội cứu được
con bệnh thập tử
nhất sinh ấy.
- Lỗ Tấn viết
“thuốc” ngày
25/4/1919, rồi đăng
trên tạp chí “Tân
thanh niên” đúng
vào dịp phong trào
Ngũ tứ nổ ra.
ngoài cùng:Là
phương thuốc
truyền thống
chữa bệnh lao
của những
người Trung
Quốc lạc hậu, u

mê. Đó là thứ
thuốc của mê
tín dị đoan
- Tầng nghĩa
thứ hai: Tên
truyện còn hàm
nghĩa sâu xa
hơn, mang
tinha khai sáng:
Đây là thứ
thuốc độc mà
mọi người cần
giác ngộ ra.
Người Trung
Quốc cần phải
tỉnh giấc,
không được
ngủ mê trong
cái nhà hộp
bằng sắt mà
không có cửa
sổ.
- Ý nghĩa thứ
ba: Phải tìm
một phương
thuốc làm cho
quần chúng
giác ngộ cách
mạng và làm
cho cách mạng

gắn bó với
quần chúng.
Thuốc đề cập
tới một vấn đề có ý
nghĩa trọng đại của nước
TQ cuối TKXIX đầu
TKXX đó là: Phương
thuốc chữa bệnh cho
quốc dân và sự xa rời
quần chúng của những
người CM.
* Nghệ thuật:
- Văn phong dung dị,
trầm lắng nhưng rất sâu
xa, đúng là một phích
nước: ngoài lạnh trong
nóng.
- Cô đọng và súc tích, là
một truyện ngắn mang
kích thước của một
truyện dài.
“SỐ
PHẬN
CON
NGƯỜI”
(Sô – lô - khốp)
- Sô – lô - khốp (1905 – 1984) là
nhà văn vĩ đại của Liên Xô.
- Trưởng thành trong một gia đình
nông dân ở thị trấn thuộc tỉnh Rô -

xtốp trên vùng thảo nguyên sông
Đông.
- Tham gia nhiều công tác CM khi
nội chiến (1918 – 1921) bùng nổ:
làm thư kí uỷ ban trấn, nhân viên
thu mua lương thực …
- Cuối năm 1922, ông lên thủ đô,
chấp nhận làm mọi nghề để sinh
- Truyện ngắn “Số
phận con người”
được công bố lần
đầu trên báo “Sự
thật” số ra ngày 31
– 12 – 1956 và 1 –
1 – 1957.
- Truyện có ý nghĩa
khác quan trọng đối
với toàn bộ sự phát
triển của nền văn
xuôi Xô Viết suốt
giai đoạn sau này.
* Nội dung:
Số phận con
người tập trung khám
phá nỗi bất hạnh của con
người sau chiến tranh.
Song tuy viết về những
đau thương, mất mát mà
chiến tranh gây ra, tác
giả vẫn giữ niềm tin ở

tính cách Nga kiên
Trang 6
sống và thực hiện giấc mơ viết văn.
- Năm 1925, trở lại quê hương và
bắt đầu viết tiểu thuyết “Sông Đông
êm đềm”, một bộ tiểu thuyết sử thi
đồ sộ dựng lại bức tranh sinh động
về cuộc sống của những người nông
dân Cô - dắc vùng sông Đông cùng
những biến động xã hội và đấu
tranh giai cấp quyết liệt diễn ra ở
vùng này trong những năm nội
chiến sau Cm tháng 10 năm 1917.
- Năm 1926, ông đã in hai tập
truyện ngắn: Truyện sông Đông và
Thảo nguyên xanh.
- Trong thời kì chiến tranh vệ quốc
(1941 – 1945) với tư cách là phóng
viên mặt trận, Sô – lô - khốp khoác
áo lính xông pha nhiều chiến
trường, viết nhiều bài chính luận,
bài kí, truyện ngắn nổi tiếng.
- Sau chiến tranh ông vẫn tập trung
vào sáng tác. Năm 1965, ông được
tặng giải thưởng Nôben về văn học.
- Tác phẩm chính: Tập truyện
sông Đông, các tiểu thuyết “Sông
Đông êm đềm”, “đất vỡ hoang”,
“Họ chiến đấu vì Tổ quốc” …
Bởi người ta có thể

tìm ở các tác phẩm
này những tìm tòi
chủ yếu của văn
học Xô Viết hiện
đại.
- đây là tác phẩm
đầu tiên của văn
học Xô Viết, nhà
văn tập trung thể
hiện hình tượng
con người bất hạnh
sau chiến tranh,
nhìn cuộc sống và
chiến tranh một
cách toàn diện,
chân thực. Về sau
truyện được in
trong tập “Truyện
sông Đồng”
cường cũng như lòng tin
ở cuộc sống bao dung.
* Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện
giản dị. truyện chứa
đựng tầm khái quát sử
thi rộng lớn và sâu sắc.
Nhân vật được miêu tả
giàu cá tính và có đời
sống tinh thần rất sinh
động.

- Với những thành công
đó, truyện ngắn “số phận
con người” thực sự đã
tác động mạnh mẽ, sâu
xa tới trí tuệ và trái tim
của người đọc.
“ÔNG
GIÀ VÀ
BIỂN CẢ”
(Hê – minh – uê)
- Sinh trưởng trong gia đình trí thức
tại thành phố nhỏ ngoại vi Chicago
- Nước Mĩ.
- Yêu thích thiên nhiên hoang dại,
thích phiêu lưu mạo hiểm.
- Ông đã từng làm bào và phóng
viên mặt trận trong hai cuộc chiến
tranh thế giới.
- Là người đề xướng “Nguyên lí
tảng băng trôi”.
- Mục đích sáng tác văn chương
“Viết về một áng văn xuôi đơn giản
và trung thực về con người”
- Tác phẩm tiêu biểu: Mặt trời
vẫn mọc, giã từ vũ khí, chuông
nguyện hồn ai, Ông già và biển cả

- Năm 1952, sau
gần 10 năm sống ở
Cu Ba, Hê – minh –

uê cho ra đời tác
phẩm “ông già và
biển cả”.
- Bối cảnh của tác
phẩm là ngôi làng
chài yên ả bên cảng
La – ha – ba – na,
Phu – en – téc, một
thuỷ thủ trên con
tàu của ông, được
xem là nguyên mẫu
của Xan – ti – a –
gô.
- Trước khi được in
thành sách, truyện
đã được in trên tạp
chí đời sống.
- Đoạn trích nằm ở
gần cuối truyện
thuật lại việc ông
lão Can – ti – a gô
* Nội dung:
Miêu tả cuộc chinh
phục cá kiếm và hành
trình trở về đất liền của
ông lão Xantiago, qua đó
xây dựng một biểu tượng
đẹp của ước mơ và hành
trình gian khổ của con
người để biến ước mơ

thành hiện thực.
* Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ trực tiếp
người kể chuyện và ông
lão.
- Ông lão độc thoại nội
tâm và độc thoại hướng
tới con cá thể hiện sự cô
đơn trong hành trình đi
Trang 7
rượt đuổi và khuất
phục được con cá
kiếm.
tìm khát vọng.
- Lời phát biểu trực tiếp.
- “Nguyên lí tảng băng
trôi”
Ai đã đặt
tên cho
dòng sông
Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Sinh 1937 tại thành phố Huế
- Quê: làng Bích Khê, xã Triệu
Long, huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị.
- Là một trí thức yêu nước, có
vốn hiểu biết sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực, nhất là lịch sử,
địa lí, văn hoá Huế
- Là nhà văn chuyên về thể loại

bút kí.
- Nét đặc sắc trong sáng tác:
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa:
+ Chất trí tuệ và chất trữ tình
+ Giữa nghị luận sắc bén với
suy tư đa chiều được tổng hợp
từ vốn kiến thức sâu rộng
+ Lối hành văn hướng nội,
súc tích, mê đắm và tài hoa.
- Các tác phẩm tiêu biểu:
+ "Ngôi sao trên đỉnh Phu
Văn Lâu" (1971)
+ "Rất nhiều ánh lửa" (1979)
+ "Ai đã đặt tên cho dòng
sông?" (1986)
+ "Hoa trái quanh tôi" (1995)
+ "Ngọn núi ảo ảnh" (1999)

- Viết tại Huế
(1981)
- In trong
tập sách cùng
tên
Đặt tiêu đề và
kết thúc bằng
câu hỏi “Ai đã
đặt tên cho
dòng sông”để
nhằm mục đích
lưu ý người đọc

về cái tên đẹp
của đong sông
mà còn gợi lên
niềm biết ơn
đối với những
người đã khai
phá miềm đất
này.
Mặc khác,
không thể trả
lời vắn tắt
trong vài câu
mà phải trả lời
bằng cả bài kí
dài nhằm ca
ngợi vẻ đẹp,
chất thơ của
dòng sông.
* Nội dung:
Bằng ngòi bút tài hoa
của mình, Hoàng phủ
Ngọc Tường đã diễn tả
vẻ đẹp và chất thơ của
Huế thể hiện tập trung ở
dòng sông Hương như
một biểu tượng của Huế
với tất cả những vẻ đẹp
của cảnh và người đất
cố đô.
* Nghệ thuật:

- Soi bằng tâm hồn
mình và tình yêu quê
hương xứ sở vào sông
Hương  trở nên lung
linh, đa dạng như tâm
hồn con người.
- Sự liên tưởng, tưởng
tượng phong phú cùng
với sự uyên bác  áng
văn đặc sắc .
- Ngôn ngữ phong phú,
giàu hình ảnh, bộc lộ
cảm xúc, sử dụng nhiều
biện pháp tu từ như so
sánh, ẩn dụ, nhân hóa.
- Có sự kết hợp hài
hòa giữa cảm xúc và trí
tuệ, chủ quan và khách
quan.
Người lái
đò sông Đà Nguyễn Tuân
Xem lại kiến thức Ngữ văn 11,tập 1
Bài tùy bút
được in trong
tập Sông Đà
(1960).Là
thành quả
nghệ thuật đẹp
đẽ của NT
* Nội dung:

Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp
của thiên nhiên và con người
Tây Bắc, thiên nhiên hùng vĩ
trữ tình và đầy tiềm năng,
cùng những con người lao
động bình dị nwhng có thể
làm nên những chiến công
Trang 8
trong chuyến
đi gian khổ và
hào hứng tới
miền Tây Bắc
rộng lớn của tổ
quốc.
phi thường trong công cuộc
chinh phục thiên nhiên.
* Nghệ thuật:
- Công phu lao động nghệ
thuật nghiêm túc, khó nhọc
để làm hiện lên những vẻ
đẹp và sắc thái khác nhau
của thiên nhiên Tây Bắc.
- Sự tài hoa và uyên bác
trong việc dùng chữ nghĩa
đã tạo nên những trang viết
độc đáo và có giá trị nghệ
thuật cao.
TÓM TẮT TÁC PHẨM VĂN XUÔI 12
Trang 9
Tóm tắt truyện Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài ( in trong tập Truyện Tây Bắc, 1953)

Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ là một cô
gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người yêu . Dù cha Mị
nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô
nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- để xoá nợ. Nhưng một đêm
xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối
xử thậm tệ.
Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ câm lặng
“lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn
tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị
vào buồng và định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng
dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến
lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt , đau buốt.
Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử,
vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử và trở thành người ở
trong nhà Pá Tra để trừ nợ.
Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa . A Phủ vì mải
mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào
một cây cột, suốt mấy ngày đêm- chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.
Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người hoàn toàn vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng
nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động
lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ.
Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.
Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang
mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với
A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham
gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương .
………………………………………………………………………………………………
Tóm tắt VỢ NHẶT (1955) – Kim Lân (in trong tập Con có xấu xí, 1962)
Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi

chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn về nhà
một người phụ nữ . Đó là một cô gái đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường.
Với một câu nói đùa và việc “chiêu đãi” bốn bát bánh đúc, Tràng được người phụ nữ này
ưng thuận theo không về nhà .
Trang 10
Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo
âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình.
Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới
Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn
dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm
với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ
hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ Tứ
hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám.
Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh
đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới.
………………………………………………………………………………………………

Tóm tắt RỪNG XÀ NU ( 1965)- Nguyễn Trung Thành
Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên- làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt
ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận những trận đại bác của đồn giặc.
Sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân, Tnú trở về thăm làng. Thằng bé Heng
dẫn đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phòng nghiêm ngặt: hầm chông, hố
chông, dàn thò chằng chịt….
Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ
Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh của làng, trang sử đó gắn bó với
cuộc đời Tnú.
Hồi ấy, Mỹ Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết).
Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ.
Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn
nhưng anh không khai. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục, trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo

buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết hôn cùng Mai.
Tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính
Trang 11
đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú,
bọn giặc bắt Mai cùng với đứa con nhỏ chưa đầy tháng đánh đập dã man.
Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ. Sôi sục căm thù, Tnú nhảy
xổ vào cứu vợ nhưng rồi Mai và đứa con đã chết, anh cũng bị bắt. Bọn giặc tẩm nhựa Xà
nu đốt mười đầu ngón tay anh trước mặt dân làng.
Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Có tiếng động chung quanh, Tnú thét lên
một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị cụ Mết
và thanh niên diệt gọn. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân.
Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm.
Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiến anh lên đường . Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con
nước lớn.
Tóm tắt truyện Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi (2/1966)
Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều
mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi
hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình
của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.
Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và
sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường
khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi
lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị
Chiến… .
Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn
thấy gì, tay chân nhức buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố
Trang 12
gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”.
Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức
tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến

đêm mít tin, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện
Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm
hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự
sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.
Sáng hôm sau , hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng
mình “thương chị lạ”.
Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã
chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của
mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt không
muốn kể chiến công của mình do tự thấy nó chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và
những mong ước của má.
TÓM TẮT CỐT TRUYỆN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(NGUYỄN MINH CHÂU)
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng
Nguyên đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng phải tìm chụp bổ sung một cảnh biển buổi sáng
có sương mù. Phùng đi đến môt vùng biển miền Trung cách Hà Nội hơn 600 cây số. Đây
từng là nơi anh và Đẩu-người bạn cùng đơn vị năm xưa giờ đang là chánh án toà án huyện-
đã chiến đấu thời đánh Mĩ.
Phùng đã “phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần
suy nghĩ, tìm kiếm, anh quyết định chụp cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh.
Trang 13
Phùng vô cùng mãn nguyện vì đã chụp dược một bức ảnh nghệ thuật toàn bích.
Bất ngờ, từ chiếc thuyền thật đẹp ấy, lại bước xuống một đôi vợ chồng nhà chài thô kệch
xăm xăm tìm đến bãi xe hỏng mà bọn lính nguỵ đã bỏ lại năm 1975. Rồi người đàn ông
dùng chiếc thắt lưng lính nguỵ thẳng tay quất tới tấp vào người vợ, còn người vợ môtk
mực cam chịu, không hé răng, không né tránh.
Phùng chưa kịp xông ra ngăn cản thì thằng Phác- con họ- đã lao tới giật chiếc thắt lưng,
quất vào người cha để bênh mẹ. Cặp vợ chồng lại lặng lẽ trở lại thuyền. Biết Phùng đã
chứng kiến sự tàn bạo của cha mình, thằng Phác đâm ra căm ghét anh.
Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh tương tự. Không thể

nén chịu thêm được nữa, Phùng xông ra ngăn cản và bị người chồng đánh trả. Phùng bị
thương, được đưa về trạm y tế của toà án huyện để điều trị
Người đàn bà được mời đến toà án huyện. Chánh án Đẩu thuyết phục chị ly hôn với người
chồng vũ phu, độc ác. Nhưng cả Đẩu lẫn Phùng đều ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước việc
người đàn bà kiên quyết không chịu ly hôn. Theo chị , chỉ vì cuộc sống quá quẫn bách nên
anh ta mới đánh vợ để giải toả nỗi uất ức, bực dọc của mình. Vả lại, gia đình họ cũng có
lúc vui vẻ, nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no.
Hai người cố thuyết phục nhưng người đàn bà vẫn không hề thay đổi ý kiến. Cuối cùng họ
đã hiểu ra người đàn bà ấy dù có bị đánh đập tàn bạo đến mấy vẫn cần có người chồng, cần
một người đàn ông sức vóc trên thuyền để có thể ra khơi kiếm sống và nuôi đàn con đông
đúc.
Câu chuyện thương tâm của người đàn bà nhà chài đã khiến Phùng đi từ ngạc nhiên, ngỡ
ngàng đến cảm thông và thấm thía: Không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện
tượng của cuộc đời.
Trang 14
Tấm ảnh của Phùng được chọn vào bộ lịch về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần
đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai
và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước
ra từ tấm ảnh.
(Tham khảo thêm một tóm tắt ngắn gọn mà hay:
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền
Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau
nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” –
đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi
chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền
đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã
đánh trả lại cha mình.
Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp . .
. Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng
chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và

Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và
đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ
sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy.
Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng
hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà
nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh.)
………………………………………………………………………………………………
Trang 15
HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT - 1981 (Lưu Quang Vũ)
Trương Ba, gần 60 tuổi- là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách,
Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên Thiên đình
kiện. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác
hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại,
Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lí trưởng sách nhiễu,
chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng. Đặc biệt, sống bằng
thân xác hàng thịt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn xa
lạ với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của
chị . Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt,
coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần
xa lánh. Trương Ba vô đau khổ.
Trước nghịch cảnh ấy, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt, cũng không
chấp nhận nhập vào xác cu Tị , kiên quyết chấp nhận cái chết.
tắt phần trích giảng truyện ngắn Số phận con người (1957)của Sô-lô-khốp
Chiến tranh kết thúc, Xô-cô- lôp giải ngũ nhưng không muốn trở lại quê nhà. Anh
đến chỗ của một đồng đội cũ, xin làm lái xe cho một đội vận tải. Tình cờ anh gặp chú bé
Va-ni-a mồ côi, không nơi nương tựa vì bố mẹ em đều đã chết trong chiến tranh. Ngay lập
tức, anh quyết định nhận Va-ni-a làm con. Chú bé ngây thơ tin rằng Xô-cô-lốp là bố đẻ của
mình. Xô-cô-lôp yêu thương, chăm sóc chú bé thật chu đáo và xem nó là niềm vui lớn,
niềm an ủi của mình. Tuy nhiên, anh vẫn bị ảm ảnh bởi những mất mát quá lớn trong chiến
tranh. Hằng đêm anh vẫn mơ thấy vợ và các con của mình, « thức giấc thì gối đẫm nước

mắt ».
Trang 16
Rồi một chuyện rủi ro xảy ra : xe anh đụng phải con bò và anh bị thu hồi bằng lái,
phải chuyển sang làm thợ mộc để kiếm sống. Theo lời mời của một người bạn khác ở Ka-
sa-rư, anh dẫn bé Va-ni-a đến đó với hi vọng chừng nửa năm sau anh được cấp lại bằng lái
mới. Dù thế, anh vẫn cố trấn tĩnh, vì không muốn để bé Va-ni-a biết được tâm trạng đau
buồn của mình.
………………………………………………………………………………………………
Tóm tắt cốt truyện truyện ngắn Thuốc (1919) của Lỗ Tấn
- Chương I: Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có đứa con trai độc nhất mắc
bệnh lao rất nặng. Nhờ có người mách, vào một đêm thu lúc trời chưa sáng hẳn, Lão Hoa
Thuyên tìm tới pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém về
cho con ăn vì cho rằng ăn như thế nó sẽ khỏi bệnh.
- Chương II: Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều tuỵ, đáng
thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của phương
thuốc này.
- Chương III: Trời vừa sáng, lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán trà nhà lão Hoa Thuyên
dần đông khách. Câu chuyện của bọn họ xoay quanh hai sự việc. Sự việc thứ nhất là tất
thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi mà
thằng bé vừa ăn . Hai là chuyện bàn tán về người tù bị chém sáng nay. Qua lời của Cả
Khang thì người bị chém tên là Hạ Du người trong địa phương. Hạ Du theo đuổi lí tưởng
đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành độc lập , chủ quyền cho người Trung Quốc ( Thiên hạ nhà
Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ Du bị người bà con tố giác và bị bắt. Trong tù Hạ
Du vẫn tuyên truyền tư tưởng cách mạng . Tuy nhiên, tất cả những người có mặt trong
quán trà hôm đó không một ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du là điên, là thằng
Trang 17
khốn nạn.
- Chương IV: Vào một buổi sáng của ngày Thanh minh năm sau, mẹ Hạ Du và bà Hoa
Thuyên cùng đến nghĩa địa ( dành cho người nghèo, người tù và người bị chém) viếng mộ
con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ

Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt đầu hiểu ra việc làm của con bà và tin tưởng
những kẻ giết hại Hạ Du nhất định sẽ bị quả báo.
Tóm tắt truyện Ông già và biển cả (1952)của Hê-minh-uê
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Xan-ti-a-gô -một "ông già" đánh cá người Cuba, 74 tuổi
Suốt 84 ngày liền, ông lão không bắt được một mống cá nào, dân làng chài cho rằng lão đã
“đi đứt” vì vận rủi. Cậu bé Ma-nô-lin cũng bị cha mẹ không cho đi câu chung với lão nữa.
Vào ngày thứ 85, lão quyết định ra khơi trước khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa, đến tận
vùng Giếng Lớn. Khoảng trưa, một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền về hướng tây bắc.
Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên . Đó là một con cá kiếm, lớn đến nỗi trước đây lão chưa
từng nhìn thấy. Con cá lại lặn xuống, kéo thuyền chạy về hướng đông.
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù đã kiệt sức, lão kiên trì thu ngắn dây câu,
rồi dốc toàn lực phóng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền dong về. Nhưng
chẳng bao lâu nhiều đàn cá mập đánh hơi được đã lăn xả tới. Từ đó đến đêm, lão lại đem hết
sức tàn chống chọi với lũ cá mập- phóng lao, vung chày, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh-
giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng lão biết con cá kiếm của mình thì chỉ còn trơ
lại một bộ xương.
Đến khuya, đưa được thuyền vào cảng, về đến lều, lão vật người xuống giường và chìm vào
giấc ngủ , rồi mơ về những con sư tử
TÓM TẮT TRÍCH ĐOẠN ĐỌC HIỂU TRONG SÁCH GIÁO KHOA
Trang 18
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Bằng tất cả kinh nghiệm và sự khéo léo lão
thận trọng thu dây câu nhưng lão biết vòng tròn còn khá lớn, con cá hãy còn xa tầm tay của
lão. Từng tí một lão cố gắng thu hẹp vòng lượn của con cá và phát hiện rằng con cá đã thấm
mệt nên liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
Sau cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây, lão sợ con cá nhảy lên, có thể làm văng
mất lưỡi câu. Nhưng con cá không nhảy lên mà bắt đầu lượn vòng chầm chậm. Lão cho đó là
cơ hội lí tưởng để mình nghỉ ngơi dưỡng sức .
Đến vòng lượn thứ ba, lần đầu tiên lão thấy con cá như một cái bóng đen lướt qua dưới con
thuyền, rồi trông thấy rõ hơn khi nó mấp mé mặt nước. Đến vòng lượn tiếp theo lão trông thấy
lưng cá nhưng nó vẫn còn ở xa thuyền. Lão chuẩn bị lao, và thu dần dây câu. Đến mấy vòng

lượn sau con cá tiến gần mạn thuyền . Dù đã kiệt sức, lão vẫn giẫm chân giữ dây câu, rồi dốc
toàn lực phóng lao đâm chết được con cá. Máu cá loang ra nhuộm sẫm cả vùng nước chung
quanh. Con cá chết thẳng đơ, trắng bạc và bồng bệnh theo sóng.
Không thể đưa con cá lên thuyền vì nó quá lớn, lão cẩn thận buộc nó dọc theo mạn
thuyền, giương buồm về bến. Lão thật sự hài lòng và tự hào với thành quả lao động của mình.
Trang 19
ÔN THI TỐT NGHIỆP
PHẦN TÁI HIỆN KIẾN THỨC
THƠ 12
TÁC PHẨM TÁC GIẢ HOÀN CẢNH SÁNG
TÁC
GIÁ TRỊ NỘI
DUNG, NGHỆ
THUẬT
Trang 20

×