Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Lạng Sơn qua các giai đoạn lịch sử-3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.87 KB, 6 trang )

2. Lạng Sơn từ thời Hậu Lê đến đầu Nguyễn (thế kỷ XV - đầu thế kỷ XIX)
2.1. Lạng Sơn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Đầu năm 1426, sau khi giải phóng Thanh Hoá, nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra vùng
Đồng bằng châu thổ sông Hồng, kết hợp với các phong trào yêu nước tại các địa phương
thống nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
ải Chi Lăng, vốn được xem là cửa ải xung yếu nhất, trong kháng chiến chống quân Tống
đời Lý và chống quân Nguyên - Mông đời Trần, quân và dân ta đã lợi dụng vị trí hiểm
yếu này chặn đánh và tiêu diệt quân xâm lược, thì nay lại được chọn làm trận địa đánh
đòn phủ đầu hết sức bất ngờ vào viện binh Liễu Thăng. Ngày 20-9 năm Đinh Mùi (tức
ngày 10-10-1427), Liễu Thăng đích thân dẫn hơn 100 kỵ mã xông lên trước đội quân tiên
phong hung hăng mở đường tiến vào Chi Lăng. Khi đi qua cánh đồng lầy lội (tiếng địa
phương là Nà Pùng - Nà Lúm), có cầu bắc qua thì cầu bị sập, đội hình của Liễu Thăng bị
chia cắt. Đúng lúc đó, phục binh của ta bốn bề nổi dậy, bất ngờ xông lên tiêu diệt địch.
Hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt gọn. Liễu Thăng bị trúng lao, chết bên sườn núi Mã
Yên (phía Nam ải Chi Lăng).
Chiến thắng Chi Lăng có ý nghĩa quyết định đến cục diện cuộc chiến, góp phần quan
trọng kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà ý nghĩa lịch sử của nó đã vượt qua
giới hạn không gian và thời gian của nước Đại Việt lúc bấy giờ.

2.2. Lạng Sơn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII
Đầu năm 1428, những tên lính Minh cuối cùng rút khỏi đất nước ta, khởi nghĩa Lam Sơn
toàn thắng, nước Đại Việt được khôi phục, đất nước trở lại thanh bình, nhân dân khắp nơi
trở về xây dựng quê hương. Cuộc sống của người dân Lạng Sơn tương đối yên bình, đời
sống văn hoá, tinh thần của cư dân Lạng Sơn ngày càng được cải thiện, biên cương, quan
ải được củng cố, đất đai ruộng đồng được khai phá thêm, nhiều thắng cảnh đẹp ở Lạng
Sơn như động Tam Thanh, Nhị Thanh được tôn tạo lại. Bước sang thế kỷ thứ XVI, cùng
sự suy vong của nhà Lê Sơ, Lạng Sơn rơi vào tình trạng thường xuyên bị náo động.
Từ năm 1527, nhà Mạc thành lập, Lạng Sơn tạm yên trở lại, nhưng vẫn còn có một số
phụ đạo, thổ tù ủng hộ nhà Lê, không theo Mạc. Chiến tranh Nam - Bắc triều bùng lên,
Lạng Sơn lại chịu cảnh binh lửa. Từ đó đến năm 1625, giao tranh giữa hai bên Trịnh -
Mạc liên tục xảy ra trên đất Lạng Sơn.


Do ảnh hưởng của chiến tranh, nên cuộc sống của nhân dân Lạng Sơn trong thế kỷ XVII
- XVIII gặp rất nhiều khó khăn, nhất là những năm 1670. Ruộng ít, hộ khẩu thưa, mỗi
năm chỉ cày cấy được một vụ. Thêm vào đó, những năm hạn hán không cày cấy được,
phải ăn rau cỏ, củ nâu mà cũng không đủ no.
Thủ công nghiệp mang tính chất gia đình, thôn bản, lác đác có một số lò rèn, lò đúc
chuyên chế tạo lưỡi cày, lưỡi cuốc, liềm hái. Hàng thủ công có tiếng của Lạng Sơn lúc
bấy giờ là thổ cẩm, đồ gỗ, tre trúc. Riêng thương nghiệp vùng biên giới phát triển mạnh,
thương nhân hai nước lấy các địa điểm ở Lạng Sơn làm nơi trao đổi hàng hoá. Nhiều
người Hoa, người Kinh ở đây mở quầy hàng, lập phố chợ, trong đó nổi lên có phố Kỳ
Lừa, Đồng Đăng.

3. Lạng Sơn từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX
Từ giữa thế kỷ XIX, tình hình kinh tế - xã hội Lạng Sơn trở nên khó khăn. Tại Trung
Quốc, phong trào nông dân bùng lên ở khắp nơi. Một số lực lượng bị quân triều đình nhà
Thanh đánh bại đã bỏ chạy sang Lạng Sơn, Cao Bằng quấy phá. Từ năm 1850 đến năm
1854, thổ phỉ nhà Thanh liên tiếp tràn sang cướp phá. Triều đình Nguyễn phải cử thêm
nhiều chiến binh đóng giữ. Năm 1854, Lạng Sơn bị bão lụt lớn, mất mùa, nạn đói xảy ra.
Triều đình phải vận động các tỉnh láng giềng cứu giúp. Tình hình nói trên kéo dài cho đến
khi thực dân Pháp tấn công Bắc Kỳ rồi tiếp đó xâm chiếm toàn bộ nước ta.
Đầu năm 1885, Pháp đưa lực lượng mạnh tiến đánh Lạng Sơn. Đến cuối năm 1885, quân
Pháp chiếm được thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn), Đồng Đăng, Thất Khê và
một số vị trí chiến lược quan trọng dọc trên đường số 4 đến tận địa giới tỉnh Cao Bằng.
Còn đoạn đường (thuộc đường số 4) từ thị xã Lạng Sơn xuôi về tỉnh Quảng Ninh, phải
đến tháng 1-1888, quân Pháp mới kiểm soát được.
4. Quá trình chuyển biến từ phong trào đấu tranh yêu nước sang phong trào đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Từ năm 1891, sau khi tiến hành bình định Bắc Kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thiết lập chính
quyền đô hộ ở Lạng Sơn. Cùng với thiết lập, tăng cường củng cố bộ máy cai trị, thực dân
Pháp đã thực thi nhiều chính sách phản động về chính trị và kinh tế khiến đời sống của
nhân dân rất cực khổ bởi gánh nặng sưu thuế.

Năm 1925, chịu ảnh hưởng
của phong trào cách mạng
trong cả nước, đồng thời là
địa bàn hoạt động thường
xuyên của các nhân sĩ "Hội
Việt Nam cách mạng Thanh
niên", phong trào đấu tranh
yêu nước, cách mạng ở Lạng
Sơn cũng sớm được hình
thành và phát triển. Năm
1926, hưởng ứng cuộc vận
động của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên, những
nhóm thanh niên yêu nước,
có chí hướng cứu nước đã ra
đời, tiêu biểu là nhóm thanh
niên yêu nước của Trường Tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn. Trong số những thanh niên
yêu nước nhạy cảm trước sự chuyển biến của cách mạng có Hoàng Văn Thụ và Lương
Văn Tri (lúc bấy giờ đang là học sinh học tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn).
Các anh được kết nạp vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1929,
đồng chí Hoàng Văn Thụ được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), thực hiện cuộc vận động và xây dựng phong trào
quần chúng cách mạng ở các tỉnh miền núi, biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn với mục
đích tạo địa bàn hoạt động thuận lợi cho Đảng ta, Chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập
với nhiệm vụ chỉ đạo cách mạng vùng núi biên giới Cao - Bắc - Lạng.
Từ giữa năm 1930, chi bộ đã hướng nhiệm vụ trọng tâm vào việc bắt mối, gây dựng các
tổ chức quần chúng cách mạng ở hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng. Đồng chí Hoàng Văn
Thụ được chi bộ phân công gây dựng phong trào quần chúng cách mạng ở Lạng Sơn.
5. Sự ra đời của các chi bộ Đảng đầu tiên và phong trào đấu tranh cách mạng giai
đoạn 1933 - 1940

5.1. Thành lập chi bộ Đảng ở Thụy Hùng (Văn Uyên) và phong trào đấu tranh cách mạng
giai đoạn 1933 - 1935
Trước sự tiến triển không ngừng của phong trào cách mạng quần chúng, chi bộ Đảng
vùng biên giới đã quyết định thành lập cơ sở Đảng ở Văn Uyên để làm nòng cốt chỉ đạo
phong trào trước mắt và lâu dài. Được sự uỷ nhiệm của Đảng, giữa năm 1933, đồng chí
Hoàng Văn Thụ đã tới Thuỵ Hùng, tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập chi bộ Đảng do
bản thân đồng chí trực tiếp làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Văn
Uyên và cũng là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Lạng Sơn sau này. Chi bộ
Đảng Thuỵ Hùng ra đời ghi nhận bước trưởng thành của phong trào cách mạng Lạng Sơn
sau thời gian ngắn tổ chức và xây dựng (1930 - 1933).
Ải Chi Lăng
Ảnh: Thu Hằng
Giữa năm 1934, được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo Trung ương Đảng, Ban Cán
sự tỉnh Lạng Sơn được thành lập trên cơ sở nòng cốt là Chi bộ Đảng Thuỵ Hùng. Do có
sự tổ chức và chỉ đạo tích cực của Ban Cán sự, nên đầu năm 1935, các cơ sở quần chúng
cách mạng ở Văn Uyên đã liên hệ mở rộng địa bàn tuyên truyền cách mạng sang Thất
Khê (Tràng Định).

5.2. Thành lập Chi bộ Đảng ở Vũ Lăng (Bắc Sơn), Phi Mỹ (Tràng Định)
Chấp hành chủ trương của Xứ uỷ Bắc Kỳ về việc tiếp tục củng cố, phát triển phong trào
cách mạng ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng núi biên giới, giữa năm 1936, đồng
chí Hoàng Văn Thụ - cán bộ đặc trách chỉ đạo vùng biên giới Cao - Bắc - Lạng - đã trực
tiếp về Bắc Sơn để giác ngộ, tổ chức các cơ sở quần chúng cách mạng. Ngày 25-9-1936,
Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn gồm 4 đảng viên được thành lập tại thôn Mỏ
Tát, xã Vũ Lăng.
Được sự ủy nhiệm của Xứ uỷ Bắc Kỳ, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tới Phi Mỹ, trực tiếp
giác ngộ, tích cực bồi dưỡng quần chúng, kết nạp đảng viên mới, thành lập Chi bộ Đảng
Cộng sản để làm nòng cốt chỉ đạo phong trào. Ngày 11-4-1938, với sự chỉ đạo trực tiếp
của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Tràng Định đã được
thành lập. Đây là dấu mốc quan trọng ghi nhận sự trưởng thành rõ rệt của phong trào

cách mạng Tràng Định. Chi bộ Đảng ở Bắc Sơn và Tràng Định ra đời đã trở thành lực
lượng nòng cốt, thúc đẩy phòng trào cách mạng ở Lạng Sơn trong những giai đoạn cách
mạng trước mắt.

5.3. Khởi nghĩa Bắc Sơn với sự chuyển biến của phong trào cách mạng trong tỉnh
Ngày 22-9-1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn. Sau vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp
rút chạy toán loạn qua Bắc Sơn về Thái Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này bị
tan rã. Nắm lấy thời cơ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương, nhân dân
Bắc Sơn đã vùng lên tước vũ khí của tàn binh Pháp, tự vũ trang để đánh Pháp, đuổi Nhật.
Tại Nông Lục (Hưng Vũ), sáng ngày 27-9-1940, một số đồng chí sau khi thoát khỏi nhà
tù Lạng Sơn đã về họp với các Chi bộ Đảng ở Hưng Vũ, Bắc Sơn, với chủ trương lãnh
đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngay chiều 27-9-1940, nhân dân các xã
Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên với trang bị súng kíp, giáo mác, gậy gộc chia
làm ba cánh tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Buối tối cùng ngày, cuộc tấn công bắt đầu. Khởi
nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa chiếm được châu lỵ Bắc Sơn, chính quyền địch
bị tan rã. Do chưa có sự chuẩn bị chu đáo, nên chúng ta chưa thành lập được chính quyền
cách mạng và cũng vì quân ta chưa chuẩn bị được lực lượng đối phó nên đã bị quân Pháp
đàn áp, chiếm lại châu lỵ, thiết lập chính quyền bù nhìn tay sai. Tuy nhiên, quân địch
không thể dập tắt được tinh thần chiến đấu của nhân dân. Phong trào cách mạng và khí
thế khởi nghĩa Bắc Sơn vẫn được duy trì.

6. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1941 - 1945)
6.1. Chuẩn bị lực lượng tiến tới Cách mạng Tháng Tám (từ năm 1941 đến tháng 3-1945)
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, thực dân Pháp cấu kết với phát xít Nhật tiến hành đàn áp khốc
liệt phong trào cách mạng của nhân dân. Quán triệt đường lối của Đảng và các chính sách
của Mặt trận Việt Minh, cùng với các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên
Quang, phong trào Việt Minh tại Lạng Sơn đã phát triển ở nhiều vùng nông thôn, thị xã
và thị trấn. Cuối năm 1942 đến đầu năm 1944, phong trào Việt Minh đã phát triển ở Bắc
Sơn, Tràng Định, Thoát Lãng, Bình Gia.
Từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, được sự tăng cường chỉ đạo của Tổng bộ Việt

Minh, Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng và sự vận động, tổ chức tích cực của cứu quốc quân
từ căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, các đội vũ trang tuyên truyền chiến đấu đã lần lượt ra
đời ở nhiều địa phương trong tỉnh như Hội Hoan (Thoát Lãng), Thuỵ Hùng (Văn Uyên),
Chí Minh (Tràng Định).
Đến đầu năm 1945, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng quần chúng, sự ra
đời của các đội vũ trang tuyên truyền, chiến đấu với việc thành lập các căn cứ du kích đã
tạo điều kiện cần thiết cho việc tổ chức lực lượng, khi có thời cơ đến sẽ tiến lên khởi
nghĩa giành chính quyền.

6.2. Tiến trình giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Từ tháng 4 đến tháng 7-1945, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng, các Ban Việt
Minh ở các châu Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Bằng Mạc, Tràng Định, Thoát Lãng,
Điềm He, đã phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần cách
mạng của nhân dân cả nước. Trước tình hình đó, ngày 19-8, tại Đồng Mỏ (Ôn Châu),
dưới sự chỉ đạo của Ban Việt Minh, được sự tăng cường của lực lượng vũ trang chủ lực
tỉnh, quần chúng cách mạng đã nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật, làm chủ châu lỵ. Ôn
Châu hoàn toàn giải phóng.
Cùng ngày, tại Hữu Lũng, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng nổi dậy làm chủ
phố Mẹt, châu lỵ Hữu Lũng. Ngày 21-8, tại Thất Khê (Tràng Định), dưới sự chỉ đạo của
Đảng bộ, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã nổi dậy tiến công, bao vây,
tước vũ khí quân Nhật, làm chủ phố Thất Khê, giải phóng hoàn toàn Tràng Định. Ngày
22-8, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng ở Thoát Lãng đã làm chủ Na Sầm,
giải phóng hoàn toàn Thoát Lãng. Rạng sáng ngày 25-8, lực lượng vũ trang cách mạng và
quần chúng các vùng lân cận bằng nhiều hướng đã tiến vào thị xã. Do có sự chuẩn bị
trước, ngay từ sáng sớm, nhân dân thị xã đã rầm rộ đổ ra các ngõ phố đón chào quân cách
mạng. Vào đến thị xã, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã nhanh chóng
chiếm các cứ điểm của địch, bao vây dinh tỉnh trưởng bù nhìn, buộc địch phải đầu hàng.


×