Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.77 KB, 63 trang )

A. Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu.
1. Lý do chọn đề tài.
Ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Sự kiện này cũng đánh dấu sự hội nhập sâu của
kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế mở ra cho Việt Nam
nhiều cơ hội để có thể vươn lên “sánh vai với các cường quốc” nhưng cũng đưa đến
không ít những khó khăn thách thức.
Như một con tàu vươn ra biển lớn, để kinh tế Việt Nam có thể chống chọi
với “bão táp phong ba” mà vẫn vững vàng về đích thì Chính Phủ Việt Nam với vai
trò là thuyền trưởng cần có những bước đi đúng hướng để ứng phó với mọi tình
hình biến động từ bên ngoài cũng như giải quyết các tốt các vấn đề nội bộ.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm 2007-2010
đã ảnh hưởng tới hầu hết mọi nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vậy
suy thoái kinh tế là gì? Nguyên nhân và hậu quả của hiện tượng này như thế nào?
Chúng ta biết gì về khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu những năm 2007-
2010 và nó ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam ra sao? Chính phủ Việt Nam đã có
những hành động gì trong bối cảnh đó?
Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên, em đã chọn đề tài nghiên cứu khoa
học cho mình là “ Suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu của Chính phủ
Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Mục tiêu tổng quát:
Nhằm nâng cao hiểu biết của bản thân về các vấn đề kinh tế xã hội.
- Mục tiêu cụ thể:
Hệ thống hoá lý thuyết suy thoái kinh tế, tìm hiểu nguyên nhân, cách
nhận biết cũng như giải pháp.
1
Phân tích, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm từ gói kích cầu của chính
phủ Việt nam trong năm 2009.
Tìm hiểu, phân tích và rút ra kinh nghiệm từ giải pháp kích cầu của
Chính phủ Trung Quốc.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
những năm cuối thập niên 2000 và những ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế
Việt Nam.
Nghiên cứu chính sách cầu của chính phủ Việt Nam trong năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, kết hợp với các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp…
nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập, xử lý số liệu từ các nguồn thông tin thứ cấp.
2
B. Nội dung chính
Chương I: Một số vấn đề chung về suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu.
I. Suy thoái kinh tế.
1. Định nghĩa:
Suy thoái kinh tế: (recession/economic downturn) là giai đoạn thu hẹp
quy mô của nền kinh tế trong chu kỳ kinh doanh.
Hình 1: Chu kỳ của nền kinh tế
Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng
GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì gọi là suy thoái.
2. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái.
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền
trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất
3
cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm
và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao
động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản

xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng
tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
- Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán
thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ
kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời
kỳ suy thoái.
3. Nguyên nhân suy giảm kinh tế theo quan điểm Keynes.
Theo lý thuyết Keynes, trong ngắn hạn sản lượng thực tế có thể thấp
hơn so với mức sản lượng tự nhiên của nền kinh tế. Và nguyên nhân của hiện
tượng này là do sự suy giảm tổng cầu của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế mở tổng cầu bao gồm các yếu tố sau: (i) tiêu
dùng của các hộ gia đình (C); (ii) đầu tư tư nhân (I); (iii) chi tiêu của Chính
phủ (G); (iv) và xuất khẩu ròng (NX) là chênh lệch giữa xuất khẩu(X) và
nhập khẩu (M).
4
Hình 2: Sự dịch chuyển của đường tổng cầu
AD = C + I + G + NX
Sự suy giảm của tổng cầu được biểu diễn bằng sự dịch trái của đường
AD (AD0=>AD1). Khi đó nền kinh tế sẽ di chuyển theo đường tổng cung (AS)
từ trạng thái cân bằng E0 đến trạng thái cân bằng mới E1.Tại trạng thái cân
bằng mới, sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y0 xuống Y1 và mức giá giảm từ
P0 đến P1. Như vậy là sự suy giảm của tổng cầu dẫn đến giảm sản lượng của
nền kinh tế và giảm giá cả.
Chính vì lẽ đó mà Keynes chủ trương cần có sự can thiệp của nhà nước
làm cho đường tổng cầu dịch chuyển trở về vị trí ban đầu hay còn gọi là chính
sách kích cầu khi nền kinh tế lâm vào trạng thái suy giảm.
II. Chính sách kích cầu.
1. Khái niệm.
5
Kích cầu là sử dụng các công cụ chính sách để làm tăng các thành phần

của tổng cầu của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế.
2. Mục tiêu.
Trong suy thoái, việc tăng tổng cầu thường được thực hiện nhằm ngăn
chặn tổng cầu sụt giảm sẽ dẫn đến đổ vỡ nền kinh tế qua tác động dây
chuyền: suy giảm kinh tế ->thất nghiệp-> giảm thu nhập-> giảm tiêu dùng ->
giảm tổng cầu-> doanh nghiệp không có đầu ra -> doanh nghiệp thu hẹp sản
xuất, sa thải nhân công và thất nghiệp tăng. Như vậy, mục đích của chính
sách kinh tế vĩ mô là giảm thiểu khó khăn nhất thời của nền kinh tế để đưa nền
kinh tế về trạng thái ban đầu trước khủng hoảng. Cụ thể là tạo sức cầu cho
nền kinh tế, giữ thị trường cho doanh nghiệp, hỗ trợ họ duy trì sản xuất nhằm
đảm bảo duy trì được các công việc có sẵn.
3. Các biện pháp kích cầu cơ bản.
Để nhằm kích cầu Chính phủ có thể nhắm vào các thành phần của tổng
cầu đó là C, I, G và cả X, M. Cụ thể:
- Để tăng tiêu dùng hộ gia đình (tăng C), có thể giảm thuế thu nhập cá
nhân, tăng các khoản thu nhập của các hộ gia đình từ chuyển nhượng của
chính phủ, từ trợ cấp thất nghiệp. Các khoản giảm thuế gián thu, thuế trực thu
của doanh nghiệp không làm tăng tức thời tiêu dùng của hộ gia đình mà phải
đến vòng chu chuyển kinh tế thứ hai mới có tác dụng.
- Để tăng đầu tư tư nhân (tăng I), có thể giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, giảm thuế đánh vào thu nhập từ vốn, giảm lãi xuất cho vay đối với
các khoản đầu tư tăng vốn, cho phép khấu hao nhanh. Ngoài ra đầu tư tư nhân
còn có khoản xây nhà của hộ gia đình. Do vậy, hỗ trợ vay vốn xây nhà cũng
có tác dụng tăng tổng cầu.
- Để tăng chi tiêu của chính phủ cho hàng hoá dịch vụ (tăng G), có thể
tăng chi tiêu cho tiêu dùng hoặc tăng chi tiêu cho đầu tư công.
6
- Để tăng xuất khẩu (tăng X), có thể sử dụng chính sách tỷ giá hối
đoái, các hoạt động xúc tiến thương mại.
- Để giảm nhập khẩu (giảm M), có thể sử dụng chính sách thuế xuất

nhập khẩu, các hàng rào phi thuế quan khác hoặc khuyến khích sử dụng hàng
trong nước thay thế nhập khẩu.
4. Những nguyên tắc quan trọng khi kích cầu
Theo các nhà kinh tế học kích cầu không phải là việc mà các nhà hoạch
định chính sách thiết kế các phương án rồi cứ thế thực hiện mà điều quan
trọng hàng đầu là phải đảm bảo các nguyên tắc riêng của nó .Nhà kinh tế học
Lawrence Summers (giáo sư kinh tế, từng là hiệu trưởng trường đại học
Harvard và là cố vấn kinh tế cho tổng thống Mỹ Obama) cho rằng để một gói
kích cầu có hiệu quả (effective) thì phải đảm bảo ít nhất 3 tiêu chí (3T), đó là
kịp thời (timely), đúng đối tượng (targeted) và ngắn hạn hay nhất thời
(temporary).
4.1. Kích cầu phải kịp thời – Timely
Tính kịp thời của kích cầu thường được dựa vào việc chính phủ can
thiệp vào nền kinh tế ngay khi có nguy cơ suy thoái, đồng thời việc can thiệp
của chính phủ sẽ có tác động kích thích ngay tổng cầu.
Chính Phủ phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu
hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm
quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát.
Nhưng nếu thực hiện chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Việc thực
hiện kích cầu đúng lúc càng phải được chú ý nếu các quá trình chính trị và
hành chính để cho một gói kích cầu được phê duyệt và triển khai là phức tạp.
Thường thì chính phủ phải đệ trình quốc hội kế hoạch kích cầu và phải được
cơ quan lập pháp tối cao này thông qua. Và, muốn nó diễn ra suôn sẻ thì cần
có các bằng chứng thuyết phục và kế hoạch rõ ràng. Do đó, thách thức lớn
7
nhất chính là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyển pha của chu
kỳ kinh tế. Có trường hợp nền kinh tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một
thời gian rồi mà công tác thu thập và phân tích số liệu thống kê không đủ khả
năng phán đoán ra.
Một khi chính phủ thực hiện thì các biện pháp này sẽ có hiệu ứng kích

thích kinh tế ngay, tức là làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh tế. Nếu để tự
nền kinh tế phục hồi thì việc phục hồi sớm muộn cũng sẽ diễn ra, nhưng nó có
thể kéo dài và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, cho nên mục tiêu của kích
cầu là đẩy nhanh việc phục hồi của nền kinh tế. Do đó, việc kích cầu chỉ có
thể được thực hiện một cách có ý nghĩa trong một khoảng thời gian nhất định.
Các chính sách mất quá nhiều thời gian để thực hiện sẽ không có tác dụng, vì
khi đó nền kinh tế tự nó đã có thể phục hồi, và việc gói kích cầu lúc đó lại có
thể có tác dụng xấu do có khả năng làm hun nóng nền kinh tế dẫn đến lạm
phát và những mất cân đối vĩ mô lớn
Các chương trình đầu tư, dự án đầu tư có tốc độ giải ngân chậm không
phải là những công cụ kích cầu tốt. Điều này là bởi vì khi tổng cầu sụt giảm,
thì các biện pháp này lại không có tác động gì tới tổng cầu trong lúc cần phải
tăng tổng cầu lên nhiều nhất (để tránh các tác động tích cực của suy thoái như
việc các doanh nghiệp sa thải công nhân).
Rất khó lượng hoá để đánh giá tính kịp thời trong việc thực hiện kích
cầu. Nhưng chúng ta có thể đánh giá tính kịp thời dựa vào so sánh thời điểm
suy thoái kinh tế và thời điểm chính sách được ban hành; thời điểm ban hành
và thời điểm thực thi chính sách cùng với tốc độ giải ngân gói kích cầu.
4.2. Kích cầu phải đúng đối tượng – targeted
Gói kích cầu có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào xu
hướng chi tiêu và đầu tư của các đối tượng mà gói kích cầu nhắm đến. Để
kích thích được cầu đối với hàng hoá và dịch vụ thì gói kích cầu phải được
8
nhắm tới đối tượng sao cho gói kích cầu được sử dụng ngay (chi tiêu ngay),
và qua đó làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế. Những biện pháp kích cầu
đúng đối tượng là những biện pháp nhắm tới các đối tượng sẽ chi tiêu hầu như
toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ. Mục tiêu của gói kích cầu là làm tăng
cầu, nên chìa khóa để thực hiện điều này là cấp tiền cho những người sẽ sử
dụng ngay những đồng tiền này, và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế.
Tiền kích cầu phải được sử dụng để khuyến khích các nhóm đối tượng này

tiến hành các khoản chi tiêu mới, hoặc hạn chế việc các nhóm này cắt giảm
chi tiêu.
Việc đánh giá tính hiệu quả trong việc lựa chọn đối tượng kích cầu
thường được thực hiện qua việc đánh giá hiệu quả kích cầu trên một đồng đô
la thực hiện kích cầu, hay nói cách khác, một đồng đô la bỏ ra sẽ làm tăng
tổng cầu lên bao nhiêu đồng.
Ví dụ: Giả sử ông A nhận được khoản tiền mặt trợ cấp 100 đồng từ gói
trợ cấp của Chính phủ. Với gia cảnh cũng như thói quen của mình, ông A sẽ
sử dụng một phần số tiền trợ cấp nhận được. Đây được gọi là xu hướng tiêu
dùng cận biên. Nếu ông A tiêu hết 90 đồng thì xu hướng tiêu dùng cận biên sẽ
là 90%. Nếu ông A mua sảm phẩm của ông B thì ông B sẽ có thu nhập là 90
đồng. Và cũng giống như ông A, ông B sẽ tiêu dùng khoảng 81 đồng (90%
thu nhập), vào sản phẩm của ông C. Đến luợt mình, 81 đồng đó sẽ tạo ra thêm
72,9 đồng cho tổng cầu của nền kinh tế. Trong ví dụ này, 100 đồng kích cầu
sẽ tạo ra thêm tổng cầu là 243 đồng, nếu tất cả người có thêm thu nhập có
mức tiêu dùng cận biên cao là 90% và chỉ tiêu dùng hàng sản xuất nội địa.
Nhưng nếu ở đây có hiện tượng “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập thì 100 đồng
kích cầu sẽ không tạo ra thêm lượng tổng cầu như cũ nữa mà thấp hơn. Cũng
ví dụ trên, nếu ông A dùng 30 đồng mua hàng ngoại nhập thì chỉ còn 60 đồng
tiêu dùng trong nước, lượng cầu mới tạo ra đã bị “rò rỉ” đi mất 30 đồng ở
9
vòng 1. Tương tự như vây, hiệu ứng tạo cầu trong vòng 2 còn phụ thuộc vào
có bao nhiêu trong tổng số đồng ông B nhận được bị “rò rỉ” sang hàng ngoại
nhập. Như vậy, lượng “rò rỉ” sẽ ảnh hưởng đến việc tạo thêm tổng cầu cho
nền kinh tế. Nếu nó càng lớn thì hiệu quả của gói kích cầu sẽ càng bé.
Vậy để kích cầu có hiệu quả thì gói kích cầu phải nhắm vào những đối
tượng có khuynh hướng tiêu dùng biên cao và mức độ “rò rỉ” sang hàng ngoại
nhập thấp.
Khi nền kinh tế khủng hoảng thì nhóm người có thu nhập thấp là nhóm
chịu nhiều bất lợi nhất. Nhóm người này lại thường có mức tiêu dùng biên cao

và chi tiêu chủ yếu vào hàng nội. Do vậy nếu kích cầu vào đúng nhóm đối tượng
này thì đạt được đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và công bằng, khác với sự
đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà trong kinh tế vẫn thường gặp.
Để kích cầu trúng đúng đối tượng, các nhà hoạch định chính sách
thường dựa vào các mô hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích
cầu qua các kịch bản khác nhau tương ứng với các mục tiêu khác nhau, từ đó
tìm ra mục tiêu hợp lý nhất.
4.3. Kích cầu chỉ trong ngắn hạn – temporary
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế
được cải thiện. Khi thực hiện các biện pháp kích cầu phải đảm bảo rằng các
biện pháp chỉ có tính tạm thời và sẽ chấm dứt khi nền kinh tế đã vượt qua
suy thoái. Thông thường, sau khi vượt qua suy thoái, nên thực hiện các biện
pháp để giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có một số điểm cần
chú ý sau:
Thứ nhất, tính ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu.
Những chính sách mà vẫn còn hiệu lực sau khi nền kinh tế phục hồi là
những biện pháp kích cầu kém hiệu quả bởi vì những biện pháp kích cầu này
sẽ trở thành những khoản chi phí của chính phủ hoặc khoản thất thu khi mà
10
thời gian kích thích đã kết thúc. Hơn thế nữa các biện pháp như tín dụng đầu
tư, hoặc ưu đãi khấu hao tài sản sẽ là những biện pháp kích cầu hiệu quả hơn
khi được thực hiện là những gói tạm thời, ngắn hạn. Nếu là những biện pháp
dài hạn thì sẽ không kích thích được cầu. Điều này là do các biện pháp nếu chỉ
thực hiện trong ngắn hạn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ
đầu tư để tận dụng ưu đãi. Những biện pháp dài hạn sẽ không phải là một biện
pháp kích cầu tốt, bởi vì các doanh nghiệp sẽ cảm thấy không cần thiết phải
đẩy nhanh tốc độ đầu tư trong giai đoạn nền kinh tế cần được kích thích nhất.
Thứ hai, kích cầu vừa đủ để đảm bảo nền kinh tế có thể vượt qua suy
thoái nhưng không làm ảnh hưởng lớn tới ngân sách trong dài hạn và làm tăng
tính bất ổn của nền kinh tế. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt

hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở
thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu lớn qua tạo ra tác động kéo dài khiến
cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích
thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Thường thì khi
thực hiện các biện pháp kích thích nền kinh tế việc mở rộng chi tiêu (tạm
thời) của Chính Phủ sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách. Do đó phải đảm bảo các
chính sách kích thích kinh tế trong ngắn hạn không có tác động xấu tới nền
kinh tế trong dài hạn hoặc gây khó khăn cho ngân sách trong dài hạn hay làm
thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn. Việc đảm bảo rằng trong dài hạn tình
hình kinh tế không kém đi cũng là yếu tố qua trọng để gói kích cầu ngắn hạn
đạt hiệu quả hơn. Thâm hụt ngân sách lớn trong tương lai cũng đồng nghĩa
với suy giảm tiết kiệm trong dài hạn, dẫn tới giảm đầu tư và ảnh hưởng tới
tăng trưởng. Vì vậy cần phải thiết kế một gói kích cầu vừa đủ tức là gói kích
cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn.
Thứ ba, thời điểm rút kích cầu cũng rất quan trọng. Chính phủ cần rút
kích cầu khi nền kinh tế đã phục hồi. Nếu rút kích cầu quá muộn sẽ làm cho
11
nền kinh tế tăng trưởng quá nóng, gây lạm phát tạo ra sự bất ổn kinh tế. Còn
nếu rút kích cầu quá sớm, khi nền kinh tế còn chưa phục hồi hay dấu hiệu
phục hồi chưa rõ ràng thì sẽ làm cho nền kinh tế không thể phục hồi hoặc sẽ
đi vào trạng thái chu kỳ hình W. Như vậy thời điểm rút kích cầu cũng rất
quan trọng, nó quyết định cho kết quả của quá trình kích cầu và trạng thái mới
của nền kinh tế.
Tóm lại: khi nền kinh tế lâm vào tình trang suy thoái thì chính phủ cần
có chính sách kích cầu phù hợp. Để có thể đưa nền kinh tế ra khỏi suy thoái
nhanh nhất và không ảnh hưởng tới khả năng phát triển trong tương lai chính
phủ cần chú ý đến các biện pháp kích cầu và các nguyên tắc khi thực hiện
chính sách kích cầu.
12
Chương II: Khủng hoảng tài chính toàn cầu những năm 2007-2010 và

những ảnh hưởng tới Việt Nam.
I. Khủng hoảng tài chính toàn cầu.
1. Diễn biến của khủng hoảng.
Năm 2007 và đặc biệt năm 2008, thế giới chứng kiến những ngày tồi tệ
nhất của thị trường tài chính toàn cầu. Chúng ta sẽ điểm lại những mốc sự
kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào:
• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida,
Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị
trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè
năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh
doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm,
kinh doanh bất động sản đi xuống, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể.
Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một
năm trước đó.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà
tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm
với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất
động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ
tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần này là “mối nguy hiểm ảnh
hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”.
Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15
trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ
đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
13
Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất
Mỹ, tuyên bố phá sản.
Tháng 6: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại
chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu

tư lớn thứ 5 của Mỹ quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được
đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu
tiên trong lịch sử.
Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán
dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh
mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân
hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục
dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp
lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la
từ một nhóm các ngân hàng khác.
Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50
điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%
Tháng 9: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại
châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay
dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự
cứu trợ từ chính phủ.
Ngày 14/09: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến
bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế
chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính
phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng
14
khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm
do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake
và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm
của việc vỡ bong bóng bất động sản.
Ngày 15/10: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công
bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự

phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ
chức vào ngày 4/11.
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm
xuống 4.5%
Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân
hàng vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên
bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
Ngày 17/12: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn
nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn
ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu
Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.
• Năm 2008
Ngày 11/01: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền
gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide
Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do
các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
Ngày 30/01: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự
phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do
những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
Ngày 17/02: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
15
Ngày 28/02: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các
nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản
mất giá là 1,36 tỷ euro.
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla
một cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la
để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn.
Ngày 29/04: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một
khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho
các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp

bất động sản.
Ngày 11/07: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân
hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn
nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD
trong vòng 11 ngày.
Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã
báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
Ngày 31/07: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo
là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche
Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín
dụng toàn cầu.
Ngày 7/09: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt
quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie
Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
Ngày 11/09: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác
để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
16
Ngày 14/09: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29
USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. Merrill Lynch
được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô la.
Ngày 15/09: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường
này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm
2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill
Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group -
tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản
thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
Ngày 16/09: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ
USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và
ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm
gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ

80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc
Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
Ngày 17/09: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm
mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng
khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống.
Ngày 19/09: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ
công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó
khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.
Ngày 20-21/9: Mỹ công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi
thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng
đầu tư tại Phố Wall.
Ngày 22/09: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD
để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại
17
Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua
20% cổ phần Morgan Stanley.
Ngày 23/09: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman
Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và
Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
Ngày 25/09: Washington Mutual Inc (WaMu), một trong những ngân
hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho
vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền
kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất
Mỹ cho JPMorgan Chase & Co với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài
sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C, các thành viên chủ chốt trong quốc hội
đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
Ngày 29/09: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị
trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công

nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh
nhất từ trước tới nay.
Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân
hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán
lẻ cho đối thủ Citigroup.
Ngày 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo
luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân
sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại cơ quan bảo
hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
Ngày 3/10: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ
phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171.
18
Không đầy 2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế
hoạch thành đạo luật.
Ngày 4/10: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp
thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu
là Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng
hoảng, nhưng không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình
của Mỹ.
Ngày 5/10: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết
định của Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại
Ireland, nhưng Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền
gửi ngân hàng tại Đức sẽ được bảo hiểm không có giới hạn.
Ngày 6/10: Ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi email thông báo
đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 19,8 tỷ USD) để mua lại ngân
hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền
mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ
mảng bảo hiểm của Fortis tại Bỉ.
Ngày 8/10: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ

liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng
trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh
hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc
Đại suy thoái năm 1930.
Ngày 10/10: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật
là Yamato Life Insurance Co chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do
các khoản nợ đã vượt tài sàn 11,5 tỷ yên (tương đương 116 triệu USD).
Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á.
Ngày 13/10: Giải Nobel Kinh tế 2008 được công bố thuộc về Giáo sư
Paul Krugman. Ngoài thành tích xây dựng mô hình ứng dụng thương mại toàn
19
cầu, ông cũng là người chỉ trích kịch liệt Chính phủ của Tổng thống Bush, và
là người vạch ra những hiểm họa của tự do thị trường thiếu sự giám sát của
Chính phủ.
Ngày 14/10: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải
cứu 700 tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu
ưu đãi của các ngân hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải
cứu, vì trong kế hoạch ban đầu, Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại
nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần.
• Năm 2009: Kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Chính Phủ các nước
đồng loạt tung ra các gói kích cầu lớn.
2. Những tác động toàn cầu của khủng hoảng.
2.1. Suy thoái kinh tế toàn cầu.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước trên thế giới.
Các nước phát triển nói chung bắt đầu suy giảm tốc độ tăng trưởng từ
quý III năm 2007 và GDP bắt đầu giảm từ quý III năm 2008. Quý IV năm
2008 ghi nhận mức thu hẹp GDP của các nước phát triển nói chung lên đến
7,97%.
Hoa Kỳ rơi vào suy thoái bắt đầu từ quý III năm 2008 với mức giảm
lớn kỷ lục kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước

lượng rằng nền kinh tế Hoa Kỳ năm 2009 thu hẹp 2,6%. Năm 2009, GDP của
Đức giảm 6,2%; và dự báo sẽ còn giảm trong năm 2010. Còn GDP của Nhật
20
Bản năm 2009 cũng giảm tới 6%. Những nước phát triển lớn khác bị giảm
GDP là Anh, Canada, Pháp, Tây Ban Nha, Ý. Cả khu vực đồng euro nói
chung giảm 4,8% trong năm 2009 và dự báo sẽ còn giảm 0,3% trong năm
2010.
Trong các nước OECD, chỉ có Hy Lạp, Hàn Quốc, Ba Lan, Slovaky là
không bị rơi vào suy thoái kinh tế (theo cách xác định suy thoái là hai quý
liên tục tăng trưởng dưới 0), song vẫn bị suy giảm tốc độ tăng trưởng.
Các nước công nghiệp hóa mới châu Á đều là những nền kinh tế theo
định hướng xuất khẩu. Suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới đã làm GDP của
các nước này đang từ chỗ tăng tới 5,1% trong năm 2007 giảm xuống chỉ còn
tăng 1,5% trong năm 2008 và dự kiến sẽ giảm 5,2% trong năm 2009. Các
nước và lãnh thổ lâm vào suy thoái là Hồng Kông và Singapore (từ quý IV
năm 2008)
Các nước đang phát triển châu Á hầu hết đều bị giảm tốc độ tăng trưởng,
thậm chi có nước còn tăng trưởng âm. Các nước Bangladesh, Indonesia,
Pakistan, Việt Nam vốn có mức tăng trưởng trên dưới 6% trong các năm 2007
và 2008, sang năm 2009 chỉ còn tăng trưởng trên dưới 3%. Các nước Malaysia
và Thái Lan tăng trưởng với tốc độ -3,0% và -3,5% trong năm 2009.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh vốn có độ mở cao và phụ thuộc vào vốn
nước ngoài và xuất khẩu nguyên liệu-năng lượng. Vì thế, các nước trong khu
vực này bị suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức độ khác lớn. Mexico bị
suy giảm nhiều nhất do nền kinh tế này gắn kết chặt chẽ với kinh tế Hoa Kỳ.
GDP của Mexico giảm tới 3,7% trong năm 2009. Những nước lớn khác có
GDP giảm là Argentina, Ecuador và Venezuela.
Tất cả các nước ở Trung Đông đều bị suy giảm kinh tế. Những nước
Trung Đông xuất khẩu nhiều dầu lửa là Ả Rập Saudi, UAE và Kuwait còn bị
giảm GDP. Kinh tế Israel cũng bị giảm 1,7% trong năm 2009. Nền kinh tế

21
này vốn phụ thuộc khá cao vào xuất khẩu trong khi kinh tế toàn cầu lại rơi
vào suy thoái và suy giảm tăng trưởng.
Kinh tế các nước châu Phi gặp khó khăn chủ yếu do xuất khẩu của họ
bị giảm (do lượng cầu thế giới giảm và do giá nguyên liệu-năng lượng giảm)
và kiều hối bị giảm. Các nước Ghana, Kenya, Nigeria, Nam Phi và Tunisia bị
giảm nguồn vốn nước ngoài (FDI và đầu tư gián tiếp). Angola, Guinea Xích
đạo và Nigeria bị tác động mạnh bởi lượng dầu xuất khẩu và giá dầu giảm.
Tuy nhiên, kinh tế Côte d’Ivoire và Kenya không những không bị suy giảm
mà lại còn tăng tốc.
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng quý của thế giới (đường màu
lam), của khu vực các nước phát triển (đường màu đỏ) và khu vực các nước
đang phát triển (đường màu rêu) thời kỳ 2005-2009.
2.2. Thương mại quốc tế giảm sút.
Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhu cầu giảm sút mạnh, đặc biệt là ở
các nước phát triển, đã tác động tiêu cực đến hoạt động tương mại thế giới.
22
Tổng hoạt động thương mại toàn cầu năm 2009 giảm 14,4% so với năm 2008.
Bên cạnh giảm sút nhu cầu, giá cả hàng hóa giảm cũng là một nguyên nhân
nữa làm giảm hoạt động thương mại. Giá hàng hóa không phải là năng lượng
giảm 21,6% so với năm 2008. Giá dầu mỏ bình quân trong năm 2009 cũng
thấp hơn các năm trước đó và giảm 36,3% so với năm 2008. Ngoài ra, giá trị
trên một đơn vị hàng sản xuất xuất khẩu trên thế giới cũng giảm 4,9% so với
năm 2008.
Bảng 2: Giá cả và thương mại thế giới (% thay đổi)
Nhìn vào diễn biến thương mại thế giới năm 2009 ở bảng trên có thể
thấy rõ khuynh hướng phục hồi trong nửa sau của năm 2009. Thương mại thế
giới đã giảm mạnh từ năm 2008 và chạm đáy vào tháng 3 năm 2009 (giảm
22%), sau đó có sự phục hồi liên tục. Tuy có sự phục hồi mạnh những đến
cuối năm 2009, nó vẫn còn thấp hơn 2,8% so với thời kỳ trước khủng hoảng.

2.3. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Năm 2009 là năm mà tỷ lệ thất nghiệp leo thang tại nhiều nền kinh tế
trên thế giới. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu
tăng 6,6% trong năm 2009. So với năm 2007 thì tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu
năm 2009 tăng 0,9 điểm phần trăm. Số người thất nghiệp năm 2009 trên toàn
23
cầu đã tăng kỷ lục 34 triệu người so với năm 2007, đưa số người thất nghiệp
trên toàn thế giới lên 212 triệu người trong năm 2009. Trong đó, số thanh niên
thất nghiệp đã tăng 13,4% (thêm 10,2 triệu người), mức tăng cao nhất kể từ
năm 1991.
Đồ thị 2:Thất nghiệp toàn cầu giai đoạn 1999 – 2009*
Nguồn: Tổ chức lao động thế giới (ILO), 2009*: Số liệu ước tính sơ bộ
Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 10/2009 đạt mức kỷ lục 10,2%,
mức cao nhất trong 26 năm qua, trước khi giảm nhẹ nhưng vẫn duy trì ở mức
hai con số 10% trong tháng 11 và tháng 12. Tỷ lệ thất nghiệp EU cũng nằm
trong xu hướng gia tăng qua các tháng năm 2009. Tháng 10/2009 tỷ lệ thất
nghiệp của EU là 9,3%, số người thất nghiệp là 22,51 triệu người, tăng
258.000 người so với tháng 9/2009 và tăng 5 triệu người so với tháng
10/2008. Tháng 11/2009, khu vực EU có thêm nhiều người tham gia nhóm
thất nghiệp, đưa mức thất nghiệp của khu vực này lên con số 9.5%. Tại Nhật
Bản, tỷ lệ thất nghiệp đã đạt mức kỷ lục 5,7% trong tháng 7/2009.
24
3. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính
Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro
liên tiếp mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính
mình.
Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau –
đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ.
3.1. Cho vay dưới chuẩn

Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa
(securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái
phiếu có gốc bất động sản (MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản
vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các
danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia
tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều
này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín
dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán
sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro
nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên
quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo
cáo các khoản lỗ kinh doanh.
3.2.Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu
đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt
bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá
25

×