MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đội ngũ CBQL các cấp là những người tổ chức thực hiện các chủ
trương, đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, là nhân tố quyết định chất
lượng GDĐT. CBQLGD nói chung và CBQL ở các trường PTDTNT nói
riêng; ngoài chức năng là nhà giáo dục, người lãnh đạo, họ còn là cán bộ quần
chúng, là người góp phần vào sự nghiệp thắng lợi của công cuộc đổi mới GD.
Yêu cầu về phát triển để nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL đã, đang trở
thành vấn đề trọng tâm của cả ngành GDĐT hiện nay.
Yêu cầu về đổi mới GD phổ thông hiện nay đang đòi hỏi phải thực hiện
đồng bộ hàng loạt các biện pháp nhằm tăng cường các điều kiện đảm bảo về
chất lượng GV, CSVC - trang thiết bị, nguồn lực tài chính,… trong đó đổi mới
QLGD có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới GD, mở đường cho việc
triển khai những chủ trương đã được đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
“muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [22].
Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành. Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là
chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách
mạng Việt Nam. Trường PTDTNT là nơi tạo nguồn cho các trường đại học,
cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp để đào tạo cán bộ và lực lượng lao động
có trình độ, tay nghề cao tham gia vào công cuộc xây dựng quê hương, vùng
dân tộc [7].
Tỉnh Đăk Nông có nhiều đồng bào các dân tộc cùng sinh sống nên việc
GD học sinh dân tộc thiểu số cũng phải chú ý đến tính đặc thù này, để mỗi
CBQL có những nội dung, phương pháp GD sao cho phù hợp với mục tiêu
GD theo tính đặc thù của địa phương. Đội ngũ CBQLGD ở Đăk Nông, đặc
1
biệt là CBQL tại các trường PTDTNT giữ một vị trí rất quan trọng, họ thật sự
là những người gắn bó với sự nghiệp GD để nuôi dưỡng, đào tạo HS dân tộc
thiểu số - những cán bộ tương lai của của địa phương - làm trụ cột để giữ
vững ổn định chính trị, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đăk
Nông ngày càng vững mạnh và phát triển.
Với mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục được
chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay
nghề của nhà giáo. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 40-
CT/TW, ngày 16/6/2004 về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và CBQLGD [1]; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
09/2005/QĐ-TTg, ngày 11/01/2005 về việc phê duyệt đề án “Xây dựng nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD giai đoạn 2005 – 2010” [11],
với mục tiêu tổng quát là: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo
hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức lối
sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp GD trong công cuộc đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước”.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đăk Nông lần thứ X (nhiệm kỳ 2010 -
2015) xác định phương hướng, nhiệm vụ đối với lĩnh vực GDĐT; phát triển
nguồn nhân lực: “Tăng cường đầu tư nguồn lực cho sự nghiệp GDĐT, nâng
cao chất lượng GDPT, đẩy mạnh GD hướng nghiệp – dạy nghề, nhất là dạy
nghề ở nông thôn, trong vùng đồng bào DTTS; gắn đào tạo xây dựng nguồn
nhân lực với các chương trình mục tiêu phát triển, khai thác tiềm năng, lợi thế
của tỉnh” [17].
Những năm qua, ngành GDĐT tỉnh Đăk Nông đã nỗ lực phấn đấu đạt
được những thành tựu quan trọng, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của hệ
thống các trường PTDTNT. Với vai trò, chức năng nhiệm vụ được qui định,
2
cùng với những đặc thù của địa phương, đội ngũ CBQL ở các trường PTDTNT
tỉnh Đăk Nông đã có những nỗ lực góp phần tạo nên chất lượng giáo dục dân
tộc ở địa phương, góp phần cùng cả tỉnh hoàn thành mục tiêu phổ cập
GDTHCS vào tháng 12/2009.
Tuy nhiên, chất lượng GDPT ở tỉnh Đăk Nông còn thấp, GD dân tộc
cũng nằm trong thực trạng chung đó. Một trong những nguyên nhân của
thực trạng này là một bộ phận không nhỏ đội ngũ CBQL của các trường
PTDTNT trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Vì
vậy, việc nghiên cứu để đề xuất các biện pháp QL phát triển đội ngũ CBQL
các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Đăk Nông là rất cần thiết. Nghiên cứu
thành công sẽ góp phần giải quyết được những tồn tại trong giáo dục dân tộc
của tỉnh hiện nay.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường Phổ thông
dân tộc nội trú tỉnh Đăk Nông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng đội ngũ và QL
phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông, đề xuất các
biện pháp QL phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT của tỉnh để đáp
ứng yêu cầu phát triển giáo dục dân tộc hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác QL phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT trên địa
bàn một tỉnh miền núi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp QL phát triển đội ngũ CBQL trường PTDTNT tỉnh Đăk
Nông đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục dân tộc hiện nay.
3
4. Giả thuyết khoa học
Công tác QL phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT của tỉnh Đăk
Nông tuy đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm.
Song do thiếu những cơ sở quy hoạch, chưa kế hoạch hóa được sự phát triển về
số lượng, chất lượng, chưa hợp lý về cơ cấu. Nếu các đề xuất về biện pháp QL
phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT phù hợp với sự phát triển kinh tế
- xã hội, phù hợp với đặc điểm ngành và được triển khai một cách đồng bộ thì
chắc chắn sẽ phát triển được đội ngũ CBQL các trường PTDTNT, qua đó nâng
cao chất lượng giáo dục dân tộc trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ CBQL các
trường phổ thông nói chung và đội ngũ CBQL các trường PTDTNT nói riêng.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ và công tác QL phát triển đội
ngũ CBQL các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Đăk Nông cùng các nguyên
nhân của thực trạng đó.
5.3. Đề xuất một số biện pháp QL phát triển đội ngũ CBQL các trường
PTDTNT tỉnh Đăk Nông trong giai đoạn hiện nay.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài tìm kiếm các biện pháp QL phát triển
đội ngũ CBQL bao gồm Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường PTDTNT
tỉnh Đăk Nông.
Đề tài sử dụng các số liệu về giáo dục dân tộc của tỉnh Đăk Nông từ khi
thành lập tỉnh 01/01/2004 đến nay.
4
7. Các phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng và phối hợp
các phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Để có cơ sở lý luận, làm nền tảng cho việc nghiên cứu đề tài chúng tôi
đã hệ thống, thu thập và phân tích các tài liệu khoa học, các văn bản Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, của Bộ GDĐT, Tỉnh ủy, HĐND, UBND
tỉnh Đăk Nông về quản lý, phát triển nhằm xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề
QL phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7. 2.1. Phương pháp điều tra viết
Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để tìm hiểu, khảo sát nhằm thu thập
những thông tin cần thiết về công tác QL ở các trường PTDTNT tỉnh Đăk
Nông. Từ đó phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn: Trực tiếp tiếp xúc với CBQL các cấp,
GV thông qua một số câu hỏi để tìm hiểu về trình độ, năng lực của CBQL các
trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông (có ghi biên bản)
7.2.3. Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động GD ở các trường
PTDTNT tỉnh Đăk Nông với các hình thức:
- Quan sát không tham dự: Lập phiếu hỏi
- Quan sát có tham dự: Tham quan CSVC, trang thiết bị nhà trường; dự
các buổi sinh hoạt chuyên môn, họp hội đồng nhà trường, nghiên cứu sản
phẩm của các CBQL (kế hoạch, các văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ QL trong nhà trường PTDTNT,…)
5
7.2.4. Phương pháp chuyên gia: Dùng phiếu trưng cầu ý kiến để xin ý
kiến các chuyên gia hoặc khách thể nghiên cứu để khảo nghiệm tính cần thiết
và khả thi của biện pháp đề xuất trong đề tài.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công thức toán học như tính tỷ lệ phần trăm, tính hệ số
tương quan… để thống kê số lượng, chất lượng về đội ngũ CBQL, GV, kết
quả học tập của HS trường PTDTNT và xử lý số liệu, định lượng kết quả
nghiên cứu nhằm đưa ra những kết luận phục vụ công tác nghiên cứu.
8. Đóng góp mới của đề tài
8.1. Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng của vấn đề QL
phát triển đội ngũ CBQL trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông.
8.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm QL phát triển đội ngũ CBQL
trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông để đáp ứng với nhu cầu phát triển GDĐT
trong giai đoạn hiện nay.
9. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về QL phát triển đội ngũ CBQL các trường
PTDTNT
Chương 2: Thực trạng đội ngũ và công tác QL phát triển đội ngũ
CBQL các trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông.
Chương 3: Biện pháp QL phát triển đội ngũ CBQL các trường
PTDTNT tỉnh Đăk Nông đáp ứng yêu cầu đổi mới GD dân tộc trong giai đoạn
hiện nay.
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
1.1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Trên thế giới
Trong lịch sử Trung hoa cổ đại (những năm 500 đến 300 TCN), đã xuất
hiện tư tưởng QL của Khổng Tử nhằm mục đích đào tạo ra lớp người cai trị
xã hội, tư tưởng đó được xây dựng trên cốt lõi triết lý của đạo nhân với các
yếu tố: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng. Những tư tưởng trên, tuy chưa thực sự
chuyên sâu về QL nhưng đã đặt nền móng cho việc hình thành tư tưởng về
nâng cao chất lượng những người làm công tác QL trong xã hội lúc bấy giờ.
Giữa thế kỷ 18, một số nhà khoa học như: Robert Owen (1771-1858),
nhà xã hội không tưởng vĩ đại người Anh hay Charles Babbage (1792-1871),
nhà toán học người Anh đã đưa ra những quan điểm: tìm giải pháp QL với
việc nâng cao năng xuất lao động và nâng cao trình độ QL. Tiếp đó, Frederick
Winslow Taylor (1856-1915) với công trình tiêu biểu là cuốn “Những nguyên
tắc quản lý khoa học” (The Principles of Scientific Management) xuất bản
năm 1911 – trong công trình này, F.W. Taylor đã đưa ra bốn nguyên tắc QL
khoa học đề cập đến việc tuyển chọn, huấn luyện công nhân, sự hợp tác cần
thiết của người QL với người bị QL nhằm nâng cao chất lượng của người QL.
Kế đó, Henri Faylor (1841-1925), một kỹ nghệ gia người Pháp có công trình
“Tổng quát về quản lý – hay Thuyết quản trị” (Adiministration Industriell et
Generale) xuất bản năm 1916 mà cống hiến lớn nhất của ông là đưa ra 5 chức
năng cơ bản QL, 16 quy tắc về chức trách QL và 14 nguyên tắc QL hành
chính. Theo ông, nếu người QL có đủ phẩm chất và năng lực, kết hợp nhuần
nhuyễn các chức năng, quy tắc và nguyên tắc QL thì chất lượng và hiệu quả
công việc, năng xuất lao động được nâng cao.
7
Từ những năm 70-80 của thế kỷ XX, một trường phái tiếp cận về QL
trên cơ sở xem xét những yếu tố văn hóa giữa con người với con người đã
xuất hiện với công trình nghiên cứu của William (Giáo sư trường Đại học
California, Mỹ). Ông đã khẳng định, yếu tố quan trọng của văn hóa trong QL
và nêu ra 7 yếu tố có ảnh hưởng đến hiệu quả QL được mô tả trong sơ đồ 7S:
Strategy (chiến lược), Skills (kỹ năng), Style (cách thức), System (hệ thống),
Structure (cơ cấu), Shared value (các giá trị chung) và đặc biệt là Staff (đội
ngũ). Thông qua mô hình và phân tích đặc điểm của 7 yếu tố trên, chúng ta sẽ
thấy giá trị của chất lượng đội ngũ người QL [18,228].
Khi xã hội công nghiệp có sự bùng nổ thông tin và chuyển dần thành xã
hội thông tin, các nhà khoa học nghiên cứu về QL đã có các công trình về QL
trong môi trường luôn biến đổi, QL theo quan điểm hệ thống, QL tình huống
[10,29] và vấn đề chất lượng người QL thực sự đã được đề cập tới với những
yêu cầu và cách thức nâng cao chất lượng đội ngũ. Cụ thể một số công trình
nổi tiếng, đó là của Harold Koont, Cyrii Odonell, Heinz Weihrich với tác
phẩm nổi tiếng: “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” [18], công trình này đề
cập nhiều hơn về yêu cầu chất lượng của người QL. Hay gần đây, Trung
Quốc đang thành công trên con đường phát triển và hội nhập với thế giới, đã
xuất hiện công trình nghiên cứu “Khoa học lãnh đạo hiện đại” [29]. Trong
công trình này, các tác giả đã chú ý nêu vấn đề chất lượng của cán bộ lãnh
đạo và QL.
Ngoài ra, ở Liên xô (cũ), các công trình nghiên cứu – xét ở góc độ lý
luận giáo dục học của các tác giả đã đề cập tới lực lượng GD; trong đó nêu rõ
vai trò, vị trí, chức năng của CBQL trường học, tiêu biểu là công trình của các
nhà khoa học nổi tiếng như: Ilina T.A với tác phẩm Giáo dục học (tại tập 3:
Những cơ sở của công tác giáo dục [23]; Savin N.V với tác phẩm Giáo dục
học (ở Chương 22, tập 2: Những vấn đề cơ bản của QL nhà trường).
8
Năm 1991, tổ chức UNESCO đã xuất bản cuốn “Quản lý hành chính và
sư phạm” của Jean Valérien, nhằm giới thiệu các modul về vai trò, chức năng,
trách nhiệm, yêu cầu chất lượng và nhiệm vụ của người Hiệu trường trường TH.
1.1.2. Ở Việt Nam
Đầu tiên phải nói đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969)
về công tác QL, nhiều quan điểm chỉ đạo của Người đều nhắc đến tầm quan
trọng của người QL. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [22].
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
sự nghiệp GD; trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng về vấn đề phát
triển đội ngũ CBQL. Điều đó được thể hiện qua các chủ trương, chính sách,
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; tiêu biểu gần đây nhất là Chỉ thị số
40-CT/TW, ngày 16/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục [1];
Quyết định số 09/2005/QĐ – TTg, ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010” [11]; Dự thảo Chiến lược
phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 [5].
Với xu hướng kế thừa, nhiều nhà khoa học Việt Nam như: Phạm Minh
Hạc, Thái Duy Tuyên, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Gia Quý, Trần Kiểm,…đã
chắt lọc những vấn đề tinh túy nhất của hầu hết các tác phẩm QL của nước
ngoài để thể hiện trong các công trình nghiên cứu của mình về sự phát triển
của công tác QL. Đáng lưu ý là các tác phẩm: “Cơ sở khoa học quản lý”
(Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc) [10]; “Những luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ CNH-HĐH đất
nước” (Nguyễn Phú Trọng – Trần Xuân Sầm) [33]; “Một số vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện các dân tộc người Tây Nguyên” (Lê Hữu
Nghĩa) [28].
9
Xét ở góc độ nghiên cứu lý luận QLGD, dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học nước ta tiếp
cận QLGD và QL trường học để đề cập tới việc phát triển công tác QL trường
học, tiêu biểu nhất có: “Phương pháp luận khoa học giáo dục” (Phạm Minh
Hạc) [19]; “Khoa học quản lý giáo dục - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
(Trần Kiểm) [24].
Các nhà QLGD các cấp cũng đã có nhiều nghiên cứu, đề xuất những
giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL, GV nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển của sự nghiệp GD.
Tại trường Đại học sư phạm Hà Nội, trong một số Luận văn Thạc sỹ,
chuyên ngành QLGD có những tác giả nghiên cứu cùng hướng với đề tài như:
Hoàng Quốc Huy (2005), Trần Quốc Thắng (2005), Nguyễn Xuân Trường
(2006), Nguyễn Hữu Chương (2006), Nông Như Ngà (2007), Nguyễn Thị Chi
Mai (2007),…
Tại trường Đại học sư phạm Huế: Hoàng Thị Lý (2004), Nguyễn Văn
Triết (2006), Nguyễn Văn Đệ (2007),…
Một số luận văn Thạc sỹ đề cập đến loại hình trường PTDTNT nhưng
đánh giá ở hoạt động dạy – học, đó là: “Các biện pháp QL của Hiệu trưởng
đối với hoạt động tự học của học sinh ở các trường PTDTNT tỉnh Quảng Trị”
(Nguyễn Văn Hùng, Huế, 2006) hoặc “Các biện pháp QL của Hiệu trưởng đối
với hoạt động dạy và học ở các trường PTDTNT tỉnh Lâm Đồng” (Huỳnh
Văn Bảy, Viện Chương trình và Chiến lược giáo dục, 2006). Tuy nhiên, vấn
đề QL phát triển đội ngũ CBQL các trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông chưa có
tác giả nào đề cập, nghiên cứu. Vì thế, việc nghiên cứu QL phát triển đội ngũ
CBQL các trường PTDTNT tỉnh Đăk Nông là cần thiết.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Nói đến hoạt động QL, người ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của
C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
10
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để
điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát
sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của
những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình,
còn dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [9].
Hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều những khái niệm, định nghĩa về QL.
Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”, tác giả người Mỹ Harold
Koont đã đưa ra khái niệm “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi
nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể
đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn
cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật; còn
kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học” [18,32].
Theo quan điểm chính trị xã hội: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người QL, người tổ chức QL) lên
khách thể QL (đối tượng QL) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế…
bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát
triển của đối tượng” [32].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể QL
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực trong và ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ
chức với hiệu quả cao nhất” [24].
Xét quản lý dưới góc độ là một hành động, tác giả Vũ Ngọc Hải cho
rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra” [20,1].
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể khái quát: Quản lý là
những tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể QL đến đối tượng QL
11
nhằm bảo đảm cho sự vận động, phát triển của hệ thống phù hợp với quy luật
khách quan, trong đó sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất các tiềm năng, các
cơ hội để đạt được mục tiêu đã xác định theo ý chí của chủ thể QL.
1.2.1.2. Chức năng quản lý
Chức năng QL là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của chủ
thể QL lên đối tượng QL. Quản lý có các chức năng cơ bản, chức năng cụ thể
với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Hiện nay, đa số các nhà khoa học và các
nhà QL cho rằng QL có 4 chức năng cơ bản, đó là:
- Chức năng lập kế hoạch: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá
trình QL. Từ trạng thái xuất phát của hệ thống, căn cứ vào mọi tiềm năng đã
có và sẽ có, dự báo trạng thái kết thúc của hệ, vạch rõ mục tiêu, nội dung hoạt
động và các biện pháp lớn nhỏ nhằm đưa hệ thống đến trạng thái mong muốn
vào cuối năm học.
- Chức năng tổ chức: Là giai đoạn tổ chức thực hiện kế hoạch đã được
xây dựng. Tổ chức là sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, bộ phận nhằm
đạt được mục tiêu của kế hoạch. Nếu người QL biết cách tổ chức có hiệu quả,
có khoa học thì sẽ phát huy được sức mạnh của tập thể. Lênin đã khẳng định:
“Liệu một trăm có mạnh hơn một ngàn hay không? Có chứ! Khi mà một trăm
được tổ chức lại. Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên mười lần”.
- Chức năng chỉ đạo: Là huy động lực lượng vào việc thực hiện kế
hoạch, là phương thức tác động của chủ thể QL, điều hành mọi việc nhằm
đảm bảo cho hệ vận hành thuận lợi. Chỉ đạo là biến mục tiêu QL thành kết
quả, biến kế hoạch thành hiện thực.
- Chức năng kiểm tra: Đây là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ QL. Giai
đoạn này làm nhiệm vụ là đánh giá, kiểm tra, tư vấn, uốn nắn, sửa chữa,… để
thúc đẩy hệ đạt được những mục tiêu, dự kiến ban đầu và việc bổ sung điều
chỉnh và chuẩn bị cho việc lập kế hoạch tiếp theo.
12
Kế hoạch
Tổ chức
Chỉ đạo
Kiểm tra
Sơ đồ 1.1: Các chức năng quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên yếu tố đầu tiên là sản xuất ra của
cải vật chất. Ph.Ăngghen viết: “Các Mác là người đầu tiên đã phát hiện quy
luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra cái sự thật đơn giản… là
trước hết con người cần phải ăn, uống, mặc và ở trước khi có thể lo đến
chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,…” [9,6].
Cùng với việc phát triển sản xuất, xã hội ở một giai đoạn đều tiến hành
chức năng giáo dục. Giáo dục là quá trình chuẩn bị cho con người, trước hết
là thế hệ trẻ, tham gia lao động sản xuất, tham gia vào đời sống xã hội bằng
cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của loài người một cách có ý thức, có mục đích. Tham gia quá trình giáo dục
có những phương tiện, điều kiện giáo dục …Tất cả những yếu tố trên quy tụ
lại thành “Hệ thống giáo dục quốc dân”. Đây là một bộ phận của hệ thống xã
hội. QLGD chính là QL bộ phận này của xã hội. QLGD được hiểu là QL quá
trình giáo dục và đào tạo. Tùy theo các cấp độ thì sự QLGD sẽ khác nhau.
Về khái niệm QLGD, hiện nay cũng có nhiều định nghĩa khác nhau.
QLGD là thực hiện việc QL trong lĩnh vực giáo dục. Ngày nay, lĩnh vực giáo
dục mở rộng hơn nhiều so với trước, do mỗi chỗ mở rộng đối tượng giáo dục
từ thế hệ trẻ sang người lớn và toàn xã hội. Tuy nhiên, giáo dục thế hệ trẻ là
bộ phận nòng cốt của lĩnh vực giáo dục cho toàn xã hội.
13
QLGD có hai nội dung chính: QL nhà nước về giáo dục; QL nhà
trường và các cơ sở giáo dục khác. QLGD là việc thực hiện và giám sát
những chính sách giáo dục, đào tạo trên cấp độ quốc gia, vùng, địa phương và
cơ sở.
Trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực QLGD, khái niệm QLGD được
nhiều tác giả diễn đạt như sau:
Hiểu QLGD theo tác giả Đặng Quốc Bảo: là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển xã hội [2].
“QLGD (vi mô) được hiểu là những tác động trực tiếp (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể QL đến tập thể
GV, công nhân viên, tập thể HS, cha mẹ HS, các lực lượng xã hội trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của
nhà trường” [24,11].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho hệ
thống vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực hiện được
các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, GD thế hệ trẻ, đưa hệ GD tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng
thái mới về chất” [30].
Qua các định nghĩa trên có thể thấy, QLGD là tập hợp những biện
pháp: tổ chức, phương pháp, kế hoạch hoá,… tác động có mục đích, hợp quy
luật của chủ thể QL đến khách thể QL nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục. QLGD có thể hiểu là sự QL
hệ thống GDĐT bao gồm một hay nhiều cơ sở giáo dục, trong đó nhà trường
là đơn vị cơ sở, ở đó diễn ra các hoạt động quản lý giáo dục cơ bản nhất.
14
Trong QLGD, chủ thể QL chính là bộ máy QL các cấp; đối tượng QL
chính là nguồn nhân lực, cơ sở vật chất - kỹ thuật và các hoạt động thực hiện
các chức năng của quá trình GDĐT.
1.2.3. Quản lý trường học
1.2.3.1. Trường học
Trường học là một bộ phận của xã hội, là tổ chức GD cơ sở của hệ thống
GD quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của nhà trường.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Trường học là một thiết chế xã hội
trong đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai
nhân tố thầy - trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng
máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở” [3,63].
1.2.3.2. Quản lý trường học:
QL trường học là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống
QLGD nói chung. Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực
hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là
đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [19].
QL nhà trường về bản chất là QL con người. Điều đó tạo cho các chủ
thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt chẽ không
những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật khách quan của một
tổ chức xã hội – nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động QL
của chính bản thân GV và HS.
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý nhà trường thực chất là việc xác
định vị trí của mỗi người trong hệ thống xã hội, là quy định chức năng, quyền
hạn, nghĩa vụ, quan hệ cùng vai trò xã hội của họ mà trước hết là trong phạm
vi nhà trường với tư cách là một tổ chức xã hội’ [25,259].
15
Như vậy: QL trường học nói chung và QL trường PTDTNT nói riêng là
tổ chức chỉ đạo và điều hành quá trình giảng dạy của thầy và hoạt động học
của trò; đồng thời, QL những điều kiện CSVC, công việc phục vụ cho dạy và
học nhằm đạt được mục đích giáo dục và đào tạo. Xét về bản chất, QL con
người trong nhà trường là tổ chức một cách hợp lý lao động của GV và HS, là
tác động đến họ sao cho hành vi, hoạt động của họ đáp ứng được yêu cầu của
việc đào tạo con người.
1.2.4. Cán bộ quản lý, đội ngũ CBQL và phát triển đội ngũ CBQL
1.2.4.1. Cán bộ quản lý
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Cán bộ là người phụ trách một công
tác của chính quyền hay của một đoàn thể, phân biệt với dân thường” [34]. Từ
cán bộ còn để chỉ “Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức” [34].
CBQL là những người đứng đầu của một cơ quan, một tổ chức, được
giao chức trách tổ chức điều hành hoạt động của đơn vị. Cán bộ QLGD trước
hết phải là những người đã có nhiều kinh nghiệm thực tiễn hoặc được bồi
dưỡng nghiệp vụ QL đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị,
được phân công một hay nhiều lĩnh vực trong công tác giáo dục của một tổ
chức trong hệ thống giáo dục, cơ sở giáo dục, tổ chức điều hành hoạt động giáo
dục của đơn vị. Cán bộ QLGD phải là một nhà giáo đã có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn hoặc được bồi dưỡng nghiệp vụ trong các trường QLGD của ngành.
1.2.4.2. Đội ngũ cán bộ quản lý
- Khái niệm về đội ngũ:
Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Văn hoá - Thông tin, 1999) thì đội ngũ
được hiểu là một tập hợp số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp
hợp thành một lực lượng hoạt động trong một tổ chức.
16
- Đội ngũ CBQL:
Theo đó, đội ngũ CBQL các trường PTDTNT là tập hợp những người
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường PTDTNT trong cùng một địa phương
(tỉnh, huyện) hoặc trong cả nước, cùng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
QLGD trong hệ thống các trường PTDTNT theo quy định của pháp luật.
1.2.4.3. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
Trước hết, chúng ta phân tích khái niệm phát triển. Phát triển là quá trình
biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Theo quan điểm này thì tất cả sự vật, hiện tượng, con người và xã hội hoặc
tự bản thân biến đổi hoặc do bên ngoài làm cho biến đổi tăng lên cả về số lượng
và chất lượng. Như vậy, “Phát triển” là một khái niệm rất rộng, nói đến “Phát
triển” là người ta nghĩ ngay đến sự đi lên của sự đi lên đó thể hiện việc tăng lên
về số lượng và chất lượng, thay đổi về nội dung và hình thức.
Sự phát triển đội ngũ CBQL được hiểu là quá trình biến đổi làm cho số
lượng, cơ cấu và chất lượng luôn vận động đi lên trong mối quan hệ hỗ trợ bổ
sung lẫn nhau tạo nên thế cân bằng, bền vững.
Phát triển đội ngũ CBQL là một bộ phận của phát triển nguồn lực con
người (Human Resousrce) hay còn gọi là phát triển nguồn nhân lực. Phát triển
nguồn nhân lực trong giáo dục được thể hiện trong các mặt:
- Một là, phát triển đội ngũ CBQL là gây dựng đội ngũ CBQL làm cho
đội ngũ đó được biến đổi theo chiều hướng đi lên, xây dựng đội ngũ đủ về số
lượng, từng bước nâng cao chất lượng, đồng bộ về cơ cấu.
- Hai là, thực hiện tốt tất cả các khâu từ việc quy hoạch, tuyển chọn, bổ
nhiệm sử dụng hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ CBQL.
Đó là quá trình làm cho đội ngũ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính
trị, năng lực quản lý, có phẩm chất tốt, có trí tuệ và tay nghề thành thạo, nhằm
giúp họ hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của người QL.
17
- Ba là, con người với tư cách là tiềm lực của sự phát triển GDĐT, phát
triển xã hội, cải tạo xã hội, làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng cao hơn.
Như vậy, phát triển đội ngũ CBQL là phát triển sao cho đảm bảo số
lượng (đảm bảo định mức lao động), nâng cao chất lượng đội ngũ nhằm giúp
họ hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của người QL. Chất lượng của đội ngũ QL
được hiểu trên bình diện gồm có chất lượng và số lượng. Số lượng luôn gắn
chặt với chất lượng, chất lượng bao hàm số lượng. Khi xem xét đến chất
lượng đội CBQL cần phải xét các mặt:
- Số lượng đội ngũ: Cơ cấu phù hợp.
- Chất lượng đội ngũ: gồm phẩm chất và năng lực.
Một đội ngũ được đánh giá là có chất lượng khi đội ngũ đó đủ về số
lượng, đảm bảo chất lượng và đồng bộ về cơ cấu.
Phát triển đội ngũ CBQL là vấn đề cốt lõi của việc phát triển nguồn lực
con người, nguồn lực quý báu nhất có vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Nói cách khác, phát triển con người bền vững để phát triển xã
hội. “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [31].
1.2.5. Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường học
1.2.5.1. Biện pháp
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa Hà Nội năm
2005: “Biện pháp là cách hành động lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích”.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học: “Biện
pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [34].
18
Như vậy, biện pháp là một bộ phận tổ thành của phương pháp, có nghĩa
là để sử dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau và cùng một biện pháp có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.
1.2.5.2. Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường học
Từ khái niệm về biện pháp, chúng ta có thể hiểu: Biện pháp QL phát
triển đội ngũ CBQL trường học là cách tổ chức thực hiện, chỉ đạo điều hành
của chủ thể QL đối với đội ngũ CBQL trường học nhằm làm cho đội ngũ
ngày càng vững mạnh, hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ.
1.3. VỊ TRÍ, MỤC TIÊU, VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA TRƯỜNG PTDTNT
TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
1.3.1. Vị trí của trường phổ thông dân tộc nội trú
Trường PTDTNT được tổ chức và hoạt động theo quy định của Điều lệ
trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học ban hành theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT, ngày
02/4/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo [6]; các quy định tại Quy chế về tổ
chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành theo Quyết
định số 49/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 25/8/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
[7]; Thông tư số 06/2009/TT-BGDĐT, ngày 31/3/2009 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung Điều 10 và Điều 13 của Quy chế tổ chức và
hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú ban hành kèm theo Quyết
định số 49/2008/QĐ-BGDĐT [8].
1.3.2. Mục tiêu, vai trò và nhiệm vụ của trường PTDTNT
1.3.2.1. Mục tiêu
Nhà nước thành lập trường PTDTNT cho con em các dân tộc thiểu số,
con em các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn, nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này.
19
1.3.2.2. Vai trò
Trường PTDTNT có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Trường PTDTNT là loại trường chuyên biệt mang tính chất phổ thông,
dân tộc và nội trú.
1.3.2.3. Nhiệm vụ của trường phổ thông dân tộc nội trú
Trường PTDTNT thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều lệ trường
trung học và các nhiệm vụ sau đây:
- Tuyển sinh đúng đối tượng theo chỉ tiêu kế hoạch được giao hàng năm.
- Giáo dục học sinh về truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số và đường lối, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước.
- Giáo dục lao động và hướng nghiệp, giúp học sinh định hướng nghề
phù hợp với khả năng của bản thân và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, giáo dục học sinh ý thức phục vụ quê hương sau khi tốt nghiệp.
- Tổ chức đời sống vật chất, tinh thần cho học sinh PTDTNT.
- Có kế hoạch theo dõi số học sinh đã tốt nghiệp nhằm đề ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả giáo dục.
1.4. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA CBQL TRƯỜNG PTDTNT
1.4.1. Nhiệm vụ của CBQL trường PTDTNT
CBQL trường PTDTNT phải thực hiện tốt những quy định trong Điều
lệ trường trung học, đồng thời phải chú ý đến tính chất dân tộc và đặc điểm
nội trú khi tiến hành các hoạt động.
Theo điều 19, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông
và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số:
07/2007/QĐ – BGDĐT, ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo) [6,8] quy định:
20
1.4.1.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng
- Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
- Thực hiện các Nghị quyết, Quyết nghị của Hội đồng trường;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
- Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công
tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen
thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước; quản
lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
- Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức;
xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận
hoàn thành chương trình tiểu học vào học bạ học sinh tiểu học (nếu có) của
trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học
sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
- Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân
viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà
trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường.
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật;
- Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ được quy
định trong khoản 1 Điều này.
1.4.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Hiệu trưởng
- Thực hiện và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về nhiệm vụ được
Hiệu trưởng phân công;
- Cùng với Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước cấp trên về phần việc được giao;
- Thay mặt Hiệu trưởng điều hành hoạt động của nhà trường khi được
Hiệu trưởng uỷ quyền;
21
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
CBQL trường PTDTNT đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước tới cán bộ, giáo viên
và học sinh trong nhà trường. Đồng thời, có trách nhiệm phản hồi toàn bộ tình
hình GDĐT của nhà trường về những mặt tích cực cũng như những việc chưa
làm được và kết quả GDĐT tới cơ quan QLGD cấp trên.
1.4.2. Đặc trưng về phẩm chất và năng lực của CBQL trường PTDTNT
Người cán bộ trong trường PTDTNT phải thể hiện mình trước hết là
một nhà lãnh đạo, do đó hệ tố chất của người CBQL có các đặc trưng chung
sau [27,35]:
1.4.2.1. Những phẩm chất cần
- Về phẩm chất chính trị và đạo đức: sự trung thành, mẫn cán và sáng
tạo; trong sạch và không vụ lợi; dám chịu trách nhiệm và biết hy sinh; trung
thực và không xu thời; lòng tự trọng cao; biết tuân thủ cấp trên.
- Về năng lực trí tuệ: Có hiểu biết sâu rộng, vững vàng về văn hóa,
chính trị, xã hội; có kiến thức rộng, cơ bản, hiện đại về chuyên môn nghiệp
vụ; có tầm nhìn chiến lược và óc thực tiễn trong lĩnh vực hoạt động; có khả
năng cập nhật tri thức, thích ứng với những thay đổi của khoa học - công
nghệ, diễn biến của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội; có năng lực giao tiếp,
tác phong làm việc khoa học và thực tiễn; có kỹ năng tự nghiên cứu, tự hoàn
thành nhân cách.
- Về phương pháp và phong cách:
+ Về phương pháp: có phương pháp vừa khái quát, vừa cụ thể; có gan
nghĩ việc, có gan quyết đoán, có gan làm việc và dám chịu trách nhiệm trước
cấp trên, trước tập thể.
22
+ Về phong cách: phải mềm dẻo về hành xử nhưng cứng cỏi trong biện
luận, thuyết phục; nghe tất cả, nhìn tất cả nhưng quyết sách phải độc lập, cơ
bản trên cơ sở tập trung ý kiến tập thể; phải chủ động trong công việc để thực
hiện điều cần đạt: Mục tiêu thì có một nhưng phương án thực thi có hàng
chục; phải bao quát nhưng không hời hợt.
CBQL trường PTDTNT là người thể hiện vai trò lãnh đạo và là một
trong những nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển của tập thể. Vì vậy, phẩm
chất và rèn luyện phẩm chất là một nhân tố cơ bản để tạo nên uy tín của người
cán bộ trong công tác cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, ba
nhân tố cơ bản: bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp và bản lĩnh sống là
những nhân tố chung nhất có tính chất cần đối với mỗi CBQL.
1.4.2.2. Những phẩm chất đủ
Thứ nhất, là tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị - tư tưởng: Đây là phẩm
chất rất cơ bản của người CBQL ở trường PTDTNT, bởi thiếu nó thì không
thể nói tới việc định hướng và khả năng nhận thức đúng đắn và phấn đấu có
hiệu quả nhằm thực hiện thắng lợi những chủ trương, đường lối của Đảng;
chính sách và pháp luật của nhà nước. Phẩm chất này là niềm tin vững chắc lý
tưởng XHCN, là tiền đề giáo dục và kích thích tinh thần cách mạng.
Thứ hai, là tiêu chuẩn về nhân cách: Điều này thể hiện trước hết trên
phương diện tiềm năng trí lực và văn hóa, đó là những hiểu biết đầy đủ về chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là quá trình giác ngộ chính trị - tư
tưởng cao; là niềm tin bền vững vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới và sự
nghiệp CNH-HĐH của đất nước; đó là trình độ chuyên môn, khoa học, QL
trong đó năng lực khám phá, hiểu biết về con người và tâm lý con người; về
các phương pháp làm việc hợp với mọi người, từ đó xây dựng tập thể hoạt
động tập trung, có sáng tạo cao. Sau nữa, nhân cách của người QL đó là
phong cách lãnh đạo: tính nguyên tắc, sự tinh tế nhạy bén, sự chú ý đến mọi
23
người, quan tâm tới những yêu cầu cần thiết hàng ngày của tập thể; tính
khiêm tốn và thái độ nghiêm khắc đối với tất cả các thiếu sót của bản thân
mình, song cũng phải rất độ lượng với những khuyết điểm của cấp dưới.
Thứ ba, là uy tín và năng lực tổ chức: Không có uy tín, người QL
không thể lãnh đạo tốt. Uy tín này được hình thành trên cơ sở của chính phẩm
chất chính trị, phẩm chất đạo đức và phẩm chất trí tuệ; đòi hỏi người có uy tín
cao phải trải qua quá trình phấn đấu, tu dưỡng bền bỉ, thường xuyên trên mọi
mặt trong một thời gian cần thiết. Có thể nói, uy tín của người QL là kết quả
tổng hợp của các mặt sau: đó là sự gương mẫu toàn diện, có lối sống trong
sạch, trình độ nhận thức và vốn sống, có tinh thần trách nhiệm, có năng lực tổ
chức,… Như vậy, muốn có được năng lực tổ chức – lãnh đạo, người CBQL
phải: hiểu biết tâm lý, có óc thực tiễn, có năng lực hoạt động độc lập, sẵn sàng
nhận các nhiệm vụ về mình, có tài chỉ đạo đúng đắn, biết xây dựng tập thể có
tinh thần phấn khởi làm việc với năng suất và hiệu quả cao.
Thứ tư, là phẩm chất tâm lý – đạo đức: đối với người lãnh đạo, sự kiên
tâm, bền bỉ, nhã nhặn, tính chín chắn, thận trọng, tự chủ và bình tĩnh, giản dị
và khiêm tốn, biết lắng nghe ý kiến người khác với thái độ trân trọng, theo dõi
và quan tâm mọi người, tự hào về thành công của đồng nghiệp, của cấp dưới
và không tự đề cao mình
1.5. NHỮNG YÊU CẦU CỦA QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CBQL TRƯỜNG
PTDTNT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trên cơ sở nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về “con người”, “Phát triển
con người”, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đã nhất quán coi con người là trung tâm của quá trình
phát triển đất nước.
Phát triển GD với phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ biện chứng
và có tính “cân bằng cộng”, nên GD nói chung và nhà trường nói riêng phải
luôn điều chỉnh để nâng mình lên nhằm đáp ứng được các yêu cầu phát triển
24
kinh tế - xã hội của thời đại và tận dụng được những điều kiện mới mà kinh tế
- xã hội mang lại cho GD.
Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có sự
chuyển đổi nhanh từ nền văn minh vật chất sang nền văn minh tinh thần, từ
nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế trí thức với sự phát triển như vũ
bão của khoa học và công nghệ, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa và cơ chế thị
trường đã tạo ra một số đặc trưng mới của thời đại ngày nay. Sự hình thành
những trung tâm kinh tế, khoa học trên thế giới, sự thay đổi trong lao động
sản xuất, sự hợp tác và lòng tin, sự mạo hiểm, là những nhân tố cấu thành sự
thành công trong phát triển kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia và tính đổi mới,
sáng tạo là một tài sản quý giá.
Từ những đặc điểm chủ yếu của sự biến đổi nêu trên, cho chúng ta thấy
xu thế phát triển kinh tế - xã hội của thời đại ngày nay đã đặt ra cho hoạt động
giáo dục những nhân cách thích ứng với:
- Một thế giới phát triển tri thức;
- Một thế giới hòa nhập xã hội;
- Một thế giới mà mỗi con người luôn luôn luôn phải bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc, nhưng lại bị ảnh hưởng của sự giao lưu văn
hóa, khoa học và công nghệ giữa các cộng đồng, các dân tộc, các quốc gia;
- Một thế giới đang có nguy cơ khủng hoảng về giá trị con người, về
bùng nổ dân số và về ô nhiễm môi trường.
Vì vậy, để đảm bảo tốt công tác quản lý phát triển đội ngũ CBQL các
trường PTDTNT thì cần phải chú ý những yêu cầu sau:
1.5.1. Phát triển đội ngũ CBQL trường PTDTNT bảo đảm yêu cầu
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn về chất lượng
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg, ngày 11/01/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt đề án “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục” giai đoạn 2005-2010 đã khẳng định: Xây
25