Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Các bệnh do thiếu dinh dưỡng (Kỳ 1) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.12 KB, 5 trang )

Các bệnh do thiếu dinh dưỡng
(Kỳ 1)


Những kết quả nghiên cứu của khoa học dinh dưỡng đã chỉ ra trong
thức ăn có chứa các thành phần dinh dưỡng cần thiết đối với cơ thể, đó là
protein, lipid, các vitamin, chất khoáng và nước. Thiếu một trong các chất
này có thể gây ra nhiều bệnh tật, như bệnh scobut do thiếu vitamin C đã lấy
đi sinh mạng 100 trong số 160 thủy thủ theo Vasco de Gama tìm đường sang
phương Đông, viêm da pellagre hay gặp ở các vùng ăn toàn bắp do thiếu
vitamin PP, bệnh tê phù do thiếu vitamin B1 Người ta gọi đó là các bệnh
thiếu dinh dưỡng đặc hiệu, nghĩa là nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một
thành phần dinh dưỡng nào đó.
Nhờ áp dụng kiến thức dinh dưỡng vào chăm sóc sức khỏe, nhiều loại bệnh
đã được đẩy lùi về quá khứ. Tuy vậy ở các nước nghèo vẫn còn nổi trội các vấn đề
sức khỏe do thiếu dinh dưỡng, bệnh thiếu dinh dưỡng quan trọng nhất hiện nay là
thiếu protein năng lượng, thiếu vitamin A và bệnh khô mắt, thiếu máu dinh dưỡng,
thiếu iod và bệnh bướu cổ. Các đặc điểm về tình trạng dinh dưỡng là những
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình trạng sức khỏe và phát triển của một
cộng đồng.
Dinh dưỡng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến các dạng
rối loạn thường gặp.
Đói và các bệnh thiếu dinh dưỡng hiển nhiên là đặc điểm của các nước
nghèo, nhưng liệu các nước đã “no”, dư thừa về thực phẩm thì vấn đề về dinh
dưỡng có gì đáng quan tâm nữa không? Các thống kê về dịch tễ học so sánh ở
từng nước trong các thời kỳ khác nhau và so sánh các quần thể di cư từ vùng này
sang vùng khác cho thấy, mô hình bệnh tật thay đổi theo lối sống và cách ăn uống.
Ở các nước giàu, tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường tăng lên.
Bệnh béo phì chiếm 20 - 40% số dân trưởng thành ở nhiều nước phát triển, là nguy
cơ quan trọng của nhiều bệnh khác.
Như vậy cả thiếu ăn lẫn thừa ăn (thừa về số lượng và thiếu về chất lượng)


đều có thể gây bệnh. Một chế độ ăn cân đối, hợp lý là cần thiết cho con người sống
lâu và khỏe mạnh.
Thiếu dinh dưỡng protein năng lượng
Thiếu dinh dưỡng protein năng lượng là loại thiếu dinh dưỡng quan trọng
nhất ở trẻ em, với biểu hiện lâm sàng là tình trạng chậm lớn và hay đi kèm với các
bệnh nhiễm khuẩn. Vấn đề này thường xảy ra do:
- Chế độ ăn thiếu về số lượng và chất lượng.
- Tình trạng nhiễm khuẩn, đặc biệt là các bệnh đường ruột, sởi và viêm
đường hô hấp cấp dẫn đến giảm ngon miệng và giảm hấp thu.
Suy dinh dưỡng thể còm Marasmus là thể thiếu dinh dưỡng nặng hay gặp
nhất. Đó là hậu quả của chế độ ăn thiếu cả nhiệt lượng lẫn protein do cai sữa sớm
hoặc ăn bổ sung không hợp lý. Tình trạng vệ sinh kém gây tiêu chảy, trẻ ăn càng
kém và vòng lẩn quẩn bệnh lý bắt đầu. Kwashiorkor ít gặp hơn Marasmus,
thường là do chế độ ăn quá nghèo về protein nhưng carbohydrat tạm đủ (chế độ ăn
chủ yếu dựa vào khoai sắn). Ngoài ra còn có thể phối hợp Marasmus -
Kwashiorkor.
Suy dinh dưỡng bắt đầu từ biểu hiện chậm lớn cho đến các thể nặng là
Marasmus và Kwashiorkor. Trong hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, việc
nhận biết các thể nhẹ và vừa có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Trong điều kiện thực
hành, người ta chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu nhân trắc (cân nặng theo tuổi, chiều
cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao, vòng cánh tay) để phân loại tình trạng suy
dinh dưỡng. Khi đo vòng cánh tay cần sờ nắn để đánh giá tình trạng lớp mỡ dưới
da.
Ở cộng đồng, cách phân loại thông dụng nhất trước đây do Gomez F. đưa
ra từ năm 1956, dựa vào cân nặng theo tuổi quy ra phần trăm của cân nặng chuẩn.
Thiếu dinh dưỡng độ 1 tương ứng 75 - 90% của cân nặng chuẩn. Thiếu dinh
dưỡng độ 2 tương ứng 60 - 75%. Cách phân loại của Gomez F. đơn giản nhưng
không phân biệt được thiếu dinh dưỡng mới xảy ra hay đã lâu.
Để khắc phục nhược điểm đó, Waterlow J.C. đề nghị cách phân loại như
sau: thiếu dinh dưỡng thể gầy còm (tức là hiện đang thiếu dinh dưỡng) biểu hiện

bằng cân nặng theo chiều cao, thấp so với chuẩn, thiếu dinh dưỡng thể còi cọc
(tức là thiếu dinh dưỡng trường diễn) dựa vào chiều cao theo tuổi thấp so với
chuẩn. Theo khuyến nghị của Tổ chức y tế thế giới, các chỉ tiêu thường dùng để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng là cân nặng theo tuổi và cân nặng theo chiều cao.
Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng thấp (dưới 2.500 g) là chỉ tiêu có ý nghĩa về
tình trạng dinh dưỡng của người mẹ, sự chăm sóc của người mẹ trong thời kỳ
mang thai. Những trẻ sơ sinh có cân nặng thấp thường có nguy cơ tử vong cao, dễ
bị bệnh và suy dinh dưỡng.

×