Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Ý nghĩa tên gọi các địa danh Việt Nam [Bắc Bộ] pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.21 KB, 4 trang )

Ý nghĩa tên gọi các địa danh Việt Nam [Bắc Bộ]
Ô Quan Chưởng xưa
Người ta thường nói Hà Nội có năm cửa ô. Đó là các cửa còn lưu lại địa danh
như ô Cầu Giấy, ô Cầu Dền, ô chợ Dừa, ô Đống Mác và ô Quan Chưởng.
Nhưng thực ra tài liệu xưa cho biết vào giữa thế kỷ XVIII, Hà Nội vẫn còn
mười sáu cửa ô. Còn hiện nay thì chỉ còn duy nhất một cửa ô Quan Chưởng là
còn lưu lại dấu tích.
Trong kế hoạch xây dựng biểu tượng kỷ niệm nghìn năm Thăng Long - Hà Nội,
có người đưa ra ý kiến nên xây dựng một cửa ô phía nam thành phố, nhưng
không biết đấy có phải là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội không. Trong khi chờ
đợi chúng ta hãy xem lại cửa ô xưa.
Vào triều vua Lê Hiến Tông (1740-1786) niên hiệu Cảnh Hưng, Thăng Long có
mười sáu cửa ô. Đấy là những cổng nằm trên La Thành, một thành đất bao
quanh thành phố, không có hình dáng nhất định mà phụ thuộc vào địa hình, vì
mục đích của thành này ngoài việc bảo vệ an ninh cho thành phố, còn có tác
dụng phòng lụt khi nước sông Hồng lên cao.
Trong tập Ký sự lên kinh, thầy thuốc nổi tiếng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu
Trác đã mô tả một cửa ô khi ông đi qua vào khoảng năm 1781 như sau: “Đi qua
cửa Vũ Quan vào thành. Chỉ thấy một cái thành đất không cao lắm. Bên cạnh là
một cái tường nhỏ, trên mặt tường là đường xe ngựa đi, ở mé ngoài là hàng rào
tre kín mít. Dưới chân tường là hào sâu. Trong hào thả chông xem ra rất kiên
cố. Thành có ba vọng canh, nơi nào cũng có lính sắp hàng, gươm súng sáng
quắc.” Tính đường đi của tác giả thì cửa ô này có thể là ô Chợ Dừa ngày nay.
Và đây cũng là đoạn văn duy nhất mô tả một cái cửa ô thời cổ, mỗi cửa ô đều
lấy tên theo địa phương có cửa ô đó.
Đến thế kỷ XX thì trên sách báo chỉ còn nhắc đến tên của năm cửa ô, với câu
thơ nổi tiếng của Xuân Diệu khi nói về ngôi sao vàng “năm cánh xòe trên năm
cửa ô”. Nhưng trên thực tế chỉ còn tồn tại duy nhất một cửa ô là ô Thanh Hà,
còn gọi là ô Quan Chưởng.
Các cửa ô khác chỉ còn lưu lại địa danh sau này trở thành tên gọi của phường
phố như ô Chợ Dừa là tên gọi một cái chợ phía tây-nam thành phố, ô Cầu Giấy


còn biết được vì là tên gọi của cái cầu gạch bắc qua sông Tô Lịch… chứ không
còn một kiến trúc nào có thể gợi lại vết tích xưa.
Thậm chí còn có một cửa ô thứ sáu chỉ còn tên gọi trong ký ức chứ không ai
biết nằm ở chỗ nào như ô Đồng Lầm, nay thuộc khu vực Kim Liên phía nam
thành phố.
Theo tài liệu trên tạp chí Xưa & Nay (số 76, tháng 6-2000) thì sau khi chiếm
Hà Nội, người Pháp cho phá hết các cửa ô cùng với một phần các con đê để mở
rộng thành phố, cũng như cho triệt hạ thành cổ Hà Nội.
Nhưng riêng ô Thanh Hà, nhờ có sự đấu tranh kiên trì của nhân dân và của ông
cai tổng tổng Đồng Xuân Đào Đăng Chiểu (1845-1916), người làng Khúc Thủy
(Hà Đông), nên chủ trương đó không thực hiện được. Vì ông Cai tổng cùng với
dân chúng nhất định không chịu ký tên vào tờ trình xin phép phá cửa ô nên cuối
cùng người Pháp phải nhượng bộ. Nhờ vậy mà đến nay thành phố còn lưu lại
được một vết tích quí của kiến trúc xưa.
Còn tại sao ô Thanh Hà lại đổi thành ô Quan Chưởng? Cũng theo những điều
còn ghi lại trong gia phả của họ Đào thì năm 1873, có một viên quan Chưởng
cơ người Bắc Ninh nổi dậy đánh Pháp, chẳng may bị bắt ở Gia Lâm, quân Pháp
giải về Hà Nội chém đầu và đem bêu đầu bên bờ sông Cái phía trước cửa ô
Thanh Hà, giao cho Cai tổng Đồng Xuân canh giữ.
Ngay đêm đầu tiên, ông Cai tổng nghe tiếng chó sủa ngoài sông vọng về, cho
tuần đinh ra tra xét thì thấy có hai chiếc đò cứ lởn vởn ở khúc sông gần chỗ bêu
đầu quan Chưởng cơ. Sợ có người đến lấy đầu của quan Chưởng cơ, ông Cai
tổng bèn cho đem thủ cấp vào treo trong cửa ô Thanh Hà.
Hôm sau người nhà quan Chưởng cơ đến thương lượng, xin ông Cai tổng cho
chuộc lại thủ cấp. Biết đây là một nghĩa cử phải làm, nhưng để khỏi mang tội
với quan trên, ông Cai tổng bèn lên bẩm báo với quan Đốc lý thành phố, xin
cho đem thủ cấp trôi sông để giữ vệ sinh trong khu dân cư, và được chấp thuận.
Đêm hôm đó ông Cai tổng trao trả thủ cấp cho gia đình quan Chưởng cơ, rồi
sáng sớm hôm sau sai tuần đinh tin cẩn lấy một hòn đất to bọc vải cho vào một
cái rọ đem ra giữa sông. Trước khi ném cái rọ xuống sông phải hô to cho mọi

người trong bờ nghe rõ: “Theo lệnh quan trên, thủ cấp này phải trầm hà!”
Câu chuyện quan Chưởng cơ bị bêu đầu được lan truyền trong tổng Đồng
Xuân, từ đấy ai đi qua cửa ô cũng gọi là ô Quan Chưởng, dần dần về sau cái tên
cũ ô Thanh Hà không được nhắc đến nữa.
Ô Quan Chưởng ngày nay
Ngày nay, ô Quan Chưởng là cửa ô duy nhất còn lại của Hà Nội, không những
là vết tích của Thăng Long - Hà Nội xưa, mà còn là bằng chứng tinh thần đấu
tranh bất khuất của nhân dân trong vùng.
Ngày nay, đi qua đây, có mấy ai biết đến câu chuyện xảy ra cách đây tuy không
xa lắm, nhưng đang dần đi vào quên lãng? Đi đến đây ta chỉ thấy một nơi tập
kết các xe chở hàng của một trung tâm buôn bán sầm uất, khách qua đường
không có chỗ dừng chân.
Điều duy nhất còn an ủi chúng ta là ngay tại góc phố nhìn ra cửa ô, còn có hàng
bún ốc nổi tiếng của bà Xuân, mà du khách có thể ngồi lại để thưởng thức một
món ăn truyền thống của Hà Nội.
Trong khi chờ đợi, nhìn bàn tay thoăn thoắt của bà chủ quán vừa gắp bún, vừa
khều ốc, cầm chiếc gáo nhỏ múc nước giấm bỗng, du khách có thể lặng lẽ quan
sát từng viên gạch vồ trên tường thành, nơi đã chứng kiến biết bao biến thiên
của đất Hà thành.

Xuất xứ tên gọi Hạ Long
Từ trước thế kỷ thứ XIX, tên vịnh Hạ Long chưa được ghi chép trong
những thư tịch cổ nước ta, mà vùng biển này được biết đến với những
tên An Bang, Lục Thủy, Vân Đồn Đến cuối thế kỷ XIX, tên vịnh Hạ
Long mới xuất hiện trên các bản đồ hàng hải của Pháp. Trên tờ "Tin tức
Hải Phòng" xuất bản bằng tiếng Pháp đã đưa tin: "Rồng xuất hiện trên
vịnh Hạ Long". Câu chuyện được tóm tắt như sau: Năm 1898, viên
thiếu úy Lagơrêdin, thuyền trưởng tàu Avalăngsơ đã gặp một đôi rắn
biển khổng lồ ba lần trên Vịnh Hạ Long. Không chỉ riêng viên thiếu úy
mà có rất nhiều thủy thủ khác trên tàu cùng chứng kiến. Người Châu

Âu liên tưởng, con vật này giống như con rồng châu Á. Cũng vì sự xuất
hiện của con vật kì lạ ấy mà vùng này được gọi là vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long
Cũng có một giả thiết khác về tên gọi này, đó là theo một huyền thoại
xưa cho rằng tên gọi Hạ Long gắn liền với câu chuyện về đàn rồng
xuống giúp dân Việt đánh giặc ngoại xâm. Chuyện kể: "Ngày xưa, khi
người Việt mới dựng nước, nhân dân đang sống yên ổn thì bị giặc
ngoại bang xâm lấn bờ cõi nước ta. Trước thế giặc mạnh, trời sai rồng
mẹ mang theo một đàn rồng con xuống giúp người Việt đánh giặc. Khi
thuyền giặc từ biển cả ào ạt tấn công vào bờ thì đàn rồng cũng lập tức
hạ giới phun ra vô số châu ngọc. Những châu ngọc ấy thoắt biến thành
muôn vàn đảo đá sừng sững, liên kết lại như bức tường thành vững
chãi. Thuyền giặc đang lao nhanh bất ngờ bị chặn lại liền đâm vào các
đảo đá, xô vào nhau vỡ tan tành. Sau khi giặc tan, thấy cảnh hạ giới
thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó,
đoàn kết giúp đỡ nhau. Rồng mẹ và rồng con không trở về trời, mà ở lại
hạ giới. Chỗ rồng mẹ xuống là Hạ Long, nơi rồng con xuống chầu bên
rồng mẹ là Bãi Tử Long. Đuôi của đàn rồng quẫy lên trắng xóa là Long
Vỹ (tức bán đảo Trà Cổ ngày nay)."
Như vậy, những giả thiết về tên gọi vịnh Hạ Long vẫn được hiểu theo
các truyền thuyết và chuyện kể được lưu truyền trong dân gian. Song
qua những chuyện kể dân gian đó, chúng ta lại thêm yêu và tự hào về
một di sản thiên nhiên đã được thế giới công nhận.

×