công trong mạng riêng ảo. Nó đảm bảo sự an toàn của dữ liệu trong khi
truyền. IPSec bảo mật dữ liệu bằng cách mã hoá mỗi gói dữ liệu với các thuật toán
mã hoá mạnh. Kết quả là kẻ nghe trộm hoặc thậm chí cả ISP trung gian không thể
đọc được dữ liệu. Hơn nữa, IPSec xác thực mỗi gói dữ liệu riêng lẻ ngoài việc xác
thực người dùng cuối một lần. Điều này làm giảm khả năng giả mạo.
Thêm hai khía cạnh bảo mật của bất kỳ giao dịch nào dựa trên mạng riêng ảo
là quan hệ tin cậy và trao đổi khoá giữa các bên liên quan. Nếu một trong hai khía
cạnh này bị tổn hại thì sự an toàn của toàn bộ thiết lập mạng riêng ảo có thể bị tổn
hại.
Vấn đề quan hệ tin cậy:
Tin cậy là một phần không thể thiếu của việc đảm bảo an toàn cho bất kỳ hệ
thống nào, bao gồm cả thiết lập mạng riêng ảo của ta. Tuy nhiên, sự tin cậy có thể
bị khai thác để giành được quyền truy cập vào thiết lập an toàn cẩn mật của ta. Vì
vậy, cần phải để ý các vấn đề sau khi quyết định mức tin cậy trong thiết lập của ta
với các thực thể bên ngoài:
+ Các ứng dụng như Telnet, FTP rất dễ bị tấn công. Cân nhắc để sử dụng các
ứng dụng an toàn hơn, như SSH để thay thế
Ch
ú
ý
Vì sự phức tạp của các cơ chế bảo mật mà SSH sử dụng, hiệu suất của SSH
qua VPN sẽ bị chậm.
+ Không chạy các dịch vụ thêm trên Server VPN. Server VPN phải chạy
không chỉ tối thiểu các ứng dụng và dịch vụ liên quan đến mạng riêng ảo mà còn
phải tối thiểu hoá các dịch vụ mà kẻ xâm nhập có thể truy cập trong trường hợp
xâm nhập thành công.
+ Mặc dù việc không tin cậy hoàn toàn các Client VPN đã xác thực là không
thích hợp, ta nên duy trì một mức không tin cậy hợp lý. Nếu cung cấp truy cập hạn
chế tới các tài nguyên và thiết bị, nhưng vẫn cho phép người dùng thực hiện các
hoạt động cần thiết liên quan đến công việc của họ, ta có thể giảm hậu quả của sự
xâm nhập trong đó kẻ tấn công nhằm vào các máy của người dùng cuối. Cũng có
thể dùng firewal để hạn chế các truy cập nói trên
Các xem xét liên quan đến trao đổi khoá:
Trao đổi khoá giữa các bên liên quan là một khía cạnh khác của bảo mật mà
khi bị tổn hại có thể dẫn đến tổn hại rất lớn trong mạng. Vì thế, điều cốt yếu là khả
năng phân phối các khoá một cách an toàn, đặc biệt trong trường hợp sử dụng mật
mã đối xứng, như ta đã biết, trong mật mã đối xứng thường sử dụng một khoá mật
cho cả lập mã và giải mã. Vì thế, nếu khoá này rơi vào tay một kẻ xâm nhập, nó sẽ
mang lại cho kẻ xâm nhập khả năng truy cập tới các giao dịch đang tiếp diễn. Sẽ là
hợp lý khi sử dụng IPSec, bảo mật SSH và các ứng dụng dựa trên SSL/TSL, nó
tránh được việc trao đổi khoá dưới dạng rõ.
Mật mã phi đối xứng không giống như mật mã đối xứng, không dựa vào một
khoá cho việc giải mã và lập mã. Trái ngược với các mật mã đối xứng, mật mã phi
đối xứng trao đổi các khoá công khai giữa các bên liên quan và sử dụng các khoá
mật tương ứng với chúng cho chức năng giải mã. Tuy nhiên, các cơ chế này không
phải tuyệt đối an toàn và rất dễ bị tổn thương với các tấn công kiểu Man-in-the-
Middle. Trong kiểu tấn công này, kẻ xâm nhập có thể thay thế khoá công khai của
anh ta, và như vậy hoàn toàn truy cập được vào liên lạc giữa hai người dùng cuối
hợp lệ. Vì vấn đề này, ta cần phải xác nhận lại khoá công khai với những người
liên lạc khác sau khi pha trao đổi khoá hoàn tất, nhưng trước khi pha trao đổi dữ
liệu bắt đầu. Mặc dù để thực hiện như vậy mọi lúc là không thể, một sự kiểm tra
chéo ngẫu nhiên của các khoá công khai nhận được rất nên được thực hiện.
Một điểm mà ta phải luôn lưu ý, bất kể mật mã đối xứng hay phi đối xứng thì
các khoá không bao giờ lưu trữ trên một điểm cuối VPN, nơi chúng dễ dàng bị truy
cập bởi kẻ xâm nhập. Một giải pháp khả thi cho vấn đề này là lưu trữ các khoá
trong một vị trí tập trung, được bảo vệ tốt thay vì lưu trữ tất cả các khó trên một
Server VPN riêng. Mặc dùng quá trình truy cập khoá có thể bị kéo dài, nhưng
trong thực tế, nó không chỉ giảm gánh nặng lưu trữ trên Server VPN mà còn nâng
cao việc bảo đảm an toàn cho các khoá.
5.1.2. Vấn đề đánh địa chỉ và định tuyến mạng riêng ảo
Một vấn đề quan trọng khác trong việc lập kế hoạch và thiết kế mạng riêng ảo
là việc đảm bảo rằng các địa chỉ IP cần được gán cho các thiết bị mạng riêng ảo
phải có kế hoạch và hợp lý. Hơn nữa, cũng cần phải đảm bảo rằng lược đồ định
tuyến không chỉ có khả năng điều khiển kết nối mạng công cộng dựa trên địa chỉ
IP toàn cục, mà còn sẽ có khả năng thích ứng với bất kỳ về lược đồ đánh địa chỉ IP
của ta trong tương lai. Ngoài ra, giới hạn hợp lý phải được giữ để đảm bảo rằng các
đối tác thương mại bên ngoài và các Client từ xa cũng có thể kết nối tới mạng riêng
ảo của chúng ta mà không gặp phải vấn đề trục trặc
5.1.2.1. Vấn đề đánh địa chỉ
Trong một mạng riêng, một công ty A không cần mua các địa chỉ IP duy
nhất(được biết như là các địa chỉ IP toàn cầu) từ một cơ quan có thẩm quyền, nhưu
InterNIC, IANA hoặc từ ISP. Công ty A có thể sử dụng các địa chỉ IP riêng hoặc
bất kỳ một địa chỉ IP nào mà họ thích bởi vì truyền thông trong một mạng riêng
không phải định tuyến ra ngoài phạm vi công ty. Kết quả là, các host và các thực
thể đặt trong một mạng riêng không thể liên lạc với các mạng qua Internet hay các
mạng công cộng khác và vì vậy nó biệt lập với thế giới bên ngoài
Chú ý: Các địa chỉ IP trong phạm vi 10.0.0.0 – 10.255.255.255, 172.16.0.0 –
172.31.255.255 và 192.168.0.0 – 192.168.255.255 được dùng như các địa chỉ IP
riêng và có thể được dùng trong một mạng riêng hoặc Intranet không sử dụng một
mạng công cộng để kết nối tới các nhánh ở xa và người dùng từ xa
Lược đồ địa chỉ riêng không hoàn toàn đúng cho các mạng riêng ảo vì chúng
còn dựa trên một mạng đường trục công công để truyền thông. Điều này ngụ ý
rằng chỉ VPN Client và Server liên quan trong một giao dịch là cần một địa chỉ IP
công cộng. Liên lạc thực sự trên giao diện VPN ảo sẽ làm việc với các địa chỉ IP
riêng. Kết quả là, công ty A sẽ đòi hỏi ít nhất một khối địa chỉ IP duy nhất toàn cầu
từ ISP. Ta sẽ xem xét các nhân tố sau lúc đánh địa chỉ các thiết bị mạng riêng ảo
- Nếu công ty A sử dụng đường leased line để kết nối tới ISP, các thiết bị
mạng riêng ảo sẽ được cấp phát các địa chỉ IP tính. Các trường hợp khác, nếu sử
dụng các kết nối quay số để kết nối tới ISP POP, các Client VPN được dùng bởi
những người dùng di động phải được cấp phát các địa chỉ IP động, mặc dù VPN
Server sẽ vẫn đòi hỏi một địa chỉ IP tính để có khả năng truy cập. Tuy nhiên, có
một sự kế thừa vấn đề gắn với các Client VPN sử dụng địa chỉ IP động. Ta không
thể giới hạn truy cập tới VPN Server trên cơ sở các địa chỉ IP mà ISP có thể cấp
phát cho các VPN Client mỗi lần khác nhau. Trong hoàn cảnh này, các VPN
Server rất dễ bị tấn công bởi các nguy cơ bảo mật mà một kẻ tấn công có thể hành
động như một người dùng tin cậy.
- Sẽ không vấn đề gì nếu sử dụng một VPN Server đơn hoặc nhiều VPN
Server, tất cả phải được cấp phát một địa chỉ IP tĩnh. Nếu các VPN Server sử dụng
các địa chỉ IP động, VPN Client không thể định vị được Server mong muốn.
- Nếu địa chỉ IP xung đột có thể cắt xén nếu cần hợp nhất hai mạng riêng, như
trong trường hợp sát nhập hai tổ chức. Trong kịch bản này, nếu các mạng được hợp
nhất sử dụng địa chỉ IP riêng thì rất có thể một số địa chỉ IP có thể xung đột. Việc
thay đổi các địa chỉ IP xung đột là dễ dàng nếu chỉ với số lượng nhỏ các IP bị xung
đột. Tuy nhiên, với một số lượng lớn thì có thể ta phải thay đổi lược đồ địa chỉ IP
của ít nhất một mạng hoặc xấu nhất là toàn bộ mạng sau khi hợp nhất. Việc thay
đổi lược đồ địa chỉ là rất mất nhiều thời gian. Có thể sử dụng khả năng cẩu hình địa
chỉ IP tự động, như sử dụng DHCP. Giao thức này cho phép một thiết bị mạng
nhận được thông tin cấu hình, bao gồm cả một địa chỉ IP động khi thiết bị đó khởi
động.
- Nếu không có đủ địa chỉ IP duy nhất toàn cầu, cách thích hợp nhất là sử
dụng địa chỉ IP riêng trong mạng của công ty và một NAT tại vành đai mạng để
kết nối với thế giới bên ngoài. NAT sẽ cấp phát một địa chỉ IP duy nhất bất cứ lúc
nào một host bên trong cần kết nối tới Internet hoặc thiết lập một phiên mạng riêng
ảo. Cách này sẽ giúp ta đảm bảo rằng không có xung đột IP khi thiết lập kết nối
Internet hoặc một phiên mạng riêng ảo. Một điểm quan trọng ở đây là NAT và
VPN có thể xung đột vì việc ghi đè tiêu đề
Chúng ta giả thiết rằng công ty A trước đây có một mạng truyền thống, trong
đó các mạng Intranet khác nhau của công ty được kết nối với nhau qua các phương
tiện thiết bị riêng, như đường leased-line hoặc frame relay. Chúng ta cũng giả thiết
rằng công ty A đã xây dựng một lược đồ địa chỉ cho mạng của họ. Vì mạng là độc
lập và đường trục sử dụng chỉ các phương tiện thiết bị riêng, công ty A có thể sử
dụng hoặc các địa chỉ IP nhập nhằng toàn cục(private) hoặc các địa chỉ duy nhất
toàn cục(public) từ trung tâm thông tin mạng (Network Information Center - NIC).
Bởi vì việc gán địa chỉ IP công cộng được thực hiện bởi tổ chức có thẩm
quyền trên phạm vi toàn cầu, họ rất rõ ràng. Các địa chỉ công cộng có khả năng
định tuyến tới bất kỳ đâu. Tuy nhiên, vì việc gán địa chỉ riêng rất dễ dàng thực hiện
mà không cần đến một tổ chức có thẩm quyền trên phạm vi toàn cầu, chúng có thể
nhập nhằng khi sử dụng trong Internet công cộng và chỉ có thể có khả năng định
tuyến được trong một mạng riêng của chính công ty. Tóm lại:
1. Nếu công ty A sử dụng các địa chỉ công cộng trong mạng của mình, các địa
chỉ có thể tiếp tục được sử dụng mà không cần phải thay đổi trong môi trường
mạng riêng ảo. Nếu có mong muôn che dấu chúng trong khi gói dữ liệu được
truyên qua Internet, một đường hầm ESP có thể được sử dụng giữa các firewall.
2. Nếu một công ty A sử dụng các địa chỉ IP riêng trong mạng của mình, các
địa chỉ cũng có thể tiếp tục được dùng trên tất cả các mạng con không có kết nối
vật lý tới mạng Internet công cộng. Nếu không có các mạng con đó mà kết nối tới
Internet công cộng, đặc biệt tồn tại các liên kết tại vành đai của mạng Intranet, một
địa chỉ IP công công phải được sử dụng.
Chế độ đường hầm ESP hoặc AH và ESP kết hợp trong chế độ đường hầm
giữa các firewall giữ cho cả hai làm việc. Tiêu đề IP mới của đường hầm sẻ sử
dụng các địa chỉ toàn cục của hai firewall, cho phép các gói dữ liệu được định
tuyến quan Internet giữa hai firewall (hoặc các router). Tiêu đề của gói IP gốc sẽ
sử dụng các địa chỉ IP được gán cho người dùng trên Intranet, vì vậy các địa chỉ
này sẽ được che dấu khỏi sự dò xét bởi các giao thức mã hoá của ESP
5.1.2.2. Vấn đề định tuyến
Như trong các mạng truyền thống, việc định tuyến trong mạng riêng ảo liên quan tới việc xử lý định
tuyến tới một địa chỉ đích xác định. Trong định tuyến truyền thống, làm việc trên bất kỳ tuyến đường
hiện tại có thể dùng được để tới bộ