Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những “quả đấm thép” và con số của Kiểm toán Nhà nước ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.21 KB, 8 trang )

Những “quả đấm thép” và con số của
Kiểm toán Nhà nước
Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước công bố mới đây đã cho
thấy hiệu quả thấp của các khoản đầu tư ngoài ngành của
một số doanh nghiệp nhà nước lớn.
Bạn muốn download phần mềm kế toán FTS Accouting miễn phí
phải không? Hãy click vào đây
“Hoạt động đầu tư, góp vốn liên doanh, liên kết kinh doanh chứng
khoán của các ngân hàng, tổ chức tài chính, bảo hiểm có hiệu
quả thấp, các đơn vị được kiểm toán đều phải trích lập dự phòng
giảm giá chứng khoán và đầu tư dài hạn lớn. Tổng công ty Bến
Thành, Tổng công ty Du lịch Sài Gòn đầu tư qua đấu giá hoặc
giao dịch trên sàn chứng khoán bị thua lỗ lớn”, báo cáo của Kiểm
toán Nhà nước công bố mới đây đã cho thấy hiệu quả thấp của
các khoản đầu tư ngoài ngành của một số doanh nghiệp nhà
nước lớn. Tái cơ cấu, tập trung vào chất lượng tài sản và chấm
dứt tình trạng đầu tư dàn trải đang được nhiều doanh nghiệp
quyết liệt thực hiện nhằm khắc phục những hệ lụy xấu xảy ra.
Hiệu quả thấp
Số liệu công bố của Kiểm toán Nhà nước cho thấy, tổng nợ phải
thu của 20 tổng công ty đến 31/12/2008 là 26.586 tỷ đồng; tỷ lệ
nợ phải thu trên tổng tài sản là19,34%, trên vốn chủ sở hữu là
55,48%, trong đó có các khoản phải thu khó đòi tồn đọng nhiều
năm chưa được xử lý dứt điểm… Một số doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng có nhiều khoản phải thu khách hàng,
phải thu nội bộ, tạm ứng không được quyết toán, lưu trữ hồ sơ
không đầy đủ và khó có khả năng thu hồi. Đây thực chất là những
khoản lỗ tiềm ẩn trong tương lai.
Nhận xét về hoạt động quản lý đầu tư và góp vốn liên doanh, liên
kết của các tổ chức tài chính – ngân hàng đã được kiểm toán,
Kiểm toán Nhà nước cho hay, năm 2008, hoạt động đầu tư góp


vốn liên doanh, liên kết kinh doanh chứng khoán của các ngân
hàng, tổ chức tài chính, bảo hiểm có hiệu quả thấp, các đơn vị
được kiểm toán đều phải trích lập dự phòng giảm giá chứng
khoán và đầu tư dài hạn lớn. Đơn cử, Ngân hàng Phát triển nhà
ĐBSCL (MHB) đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại vượt tỷ
lệ quy định (vượt 11% vốn điều lệ hoặc giá trị dự án đầu tư). Hầu
hết các đơn vị được kiểm toán phản ánh không chính xác thu
nhập, chi phí và kết quả kinh doanh. Đơn cử tại Vietinbank, lợi
nhuận thực tế tại thời điểm phê duyệt đơn giá tiền lương cao gấp
1,8 lần lợi nhuận kế hoạch khi xây dựng đơn giá tiền lương, quỹ
lương thực tế năm 2008 cao gấp 2 lần quỹ lương kế hoạch
nhưng không điều chỉnh đơn giá tiền lương. MHB sử dụng quỹ
tiền lương chưa chi gửi ngân hàng 30 tỷ đồng lấy lãi; CTCK MHB
không xây dựng đơn giá tiền lương mà hạch toán trực tiếp vào
chi phí; PVFC huy động vốn, nhận ủy thác đầu tư, uỷ thác quản lý
vốn dưới 1 năm, mua lại thẻ tiết kiệm dưới hình thức chiết khấu
chưa đúng quy định đối với tổ chức tín dụng.
Theo đánh giá của Kiểm toán Nhà nước, hoạt động đầu tư tài
chính của các doanh nghiệp nhà nước chỉ có hiệu quả với các
khoản đầu tư chủ yếu được góp vốn theo giá gốc hoặc mua theo
giá ưu đãi với tư cách cổ đông chiến lược. Còn các khoản đầu tư
qua đấu giá, qua giao dịch trên sàn chứng khoán thường thua lỗ
lớn.
Trở lại ngành nghề cốt lõi
Petro Việt Nam (PVN) là một trong những tập đoàn mạnh tay
thực hiện cắt bỏ những khoản đầu tư ngoài ngành, dàn trải. Trao
đổi với ĐTCK, ông Nguyễn Ngọc Sự, Phó tổng giám đốc PVN
cho biết, trước đây PVN có đầu tư tài chính, ngân hàng, chứng
khoán, bất động sản, nay Tập đoàn đã thoái toàn bộ vốn đầu tư
vào lĩnh vực bất động sản (hiện PVN không góp vốn thực hiện

đầu tư bất cứ một dự án, một công ty bất động sản nào). Với lĩnh
vực tài chính ngân hàng, PVN sẽ sắp xếp để thoái vốn sở hữu tại
PVFC xuống còn 51%, phần vốn đầu tư vào CTCK, Tập đoàn
cũng đã chuyển nhượng cho đơn vị khác. “Hiện phần vốn đầu tư
ngoài ngành của PVN còn khoảng 4.000 tỷ đồng (chủ yếu góp
vào PVFC), chiếm 3,8% vốn điều lệ của PVN, thấp hơn nhiều so
với quy định. Hai năm nay, chúng tôi đã cơ cấu lại vốn đầu tư và
các công ty thành viên rất tích cực, thực hiện M&A dồn các đơn vị
có hoạt động giống nhau vào một đầu mối như tài chính ngân
hàng thì về PVFC, bất động sản chuyển cho PVX. Tuần này,
chúng tôi đang rà soát để hoàn chỉnh toàn bộ”, ông Sự nói.
Nhận thức rất rõ về cái giá quá đắt của việc đầu tư dàn trải, kém
hiệu quả khi năm 2008, PVFC phải trích lập dự phòng đầu tư lên
tới 2.000 tỷ đồng, nên 6 tháng đầu năm nay, mục tiêu nâng cao
chất lượng tài sản được tổng công ty này tập trung tối đa. PVFC
đã giảm giá trị danh mục đầu tư xuống 50% so với thời điểm đầu
năm 2010, số mã chứng khoán trong danh mục đầu tư giảm từ
hơn 100 xuống còn vài chục mã. PVFC đã giảm tỷ trọng các
khoản đầu tư dài hạn, chuyển nhượng vốn của Tổng công ty tại
các công ty thành viên cho các đơn vị có chức năng chuyên môn
như các dự án điện chuyển cho Tổng công ty Điện lực dầu khí;
thoái bớt chứng khoán đang niêm yết, chủ yếu nắm giữ cổ phiếu
của các công ty trong ngành như PVD, PVS, DPM với lợi thế
thông tin, cơ chế phối hợp. Cổ phiếu OTC được sàng lọc, cơ cấu
lại để thu hồi vốn. “PVFC đang giảm mạnh sự phụ thuộc của
danh mục đầu tư vào TTCK. Chúng tôi chấp nhận mất 5 – 10%
khi thu hồi các khoản đầu tư để dùng tiền đó kinh doanh các lĩnh
vực khác, có khả năng thu lời 10 – 15%. Quản trị tốt nguồn vốn,
tập trung vào chất lượng tài sản là mục tiêu lớn của PVFC bên
cạnh mục tiêu lợi nhuận”, ông Nguyễn Thiện Bảo, Tổng giám đốc

PVFC cho hay.
Những “quả đấm thép” của nền kinh tế đã và đang phải tự điều
chỉnh để tránh lao theo “vết xe đổ” của Vinashin. Từ 257 dự án
đầu tư với tổng kinh phí hơn 50.000 tỷ đồng, Chính phủ đã chỉ
đạo Vinashin phải thu hẹp lại ngành nghề kinh doanh, tới đây chỉ
tập trung vào 13 dự án với trọng tâm là đóng tàu, sửa chữa tàu
và công nghiệp phụ trợ cho đóng tàu. Trong trong quá trình tái cơ
cấu, Vinashin phải khẩn trương thoái vốn ở những doanh nghiệp
ngoài ngành kinh doanh chính, rà soát để bán hoặc chuyển giao
các dự án; di dời các nhà máy đóng tàu để sử dụng quỹ đất cho
mục tiêu mới để có thêm vốn phục vụ sản xuất; các công ty con
sẽ được chuyển nhượng cổ phần hoặc cổ phần hóa nhằm thu lại
vốn đầu tư.

×