Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Giải pháp đưa kế toán và kiểm toán Việt Nam ngang tầm khu vực quốc tế potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.57 KB, 19 trang )

Giải pháp đưa kế toán và kiểm
toán Việt Nam ngang tầm khu vực
quốc tế
Trong cơ chế kinh tế mới, kinh tế thị trường, mở cửa và h
ội nhập,
kế toán và kiểm toán không chỉ là công cụ quản lý kinh tế- tài
chính và cung cấp thông tin hữu ích, tin cậy phục vụ các quyết
định quản lý và kinh doanh, mà đã trở thành một ngành một lĩnh
vực dịch vụ- dịch vụ hỗ trợ quản lý kinh doanh - quan trọng trong
phạm vi từng quớc gia, trong khu vực và thế giới. Hội nhập kinh
tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích dài hạn, nhưng đặt ra không ít
thách thức đối với nền kinh tế kinh tế Việt nam. Việt nam đã ra
nhập AFTA và đang trong lộ trình cắt giảm thuế quan. Trong
khuôn khổ hợp tác với các nước ASEAN Việt nam đã tham gia
đàm phán và cam kết mở cửa thị trương dịch vụ. Việt nam cũng
đã chính thức trở thành thành viên thứ 21 của Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu á-Thái bình dương (APEC). Trong khuôn khổ APEC
Việt nam đã đưa ra kế hoạch hành động quốc gia mang tính tự
nguyện, tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư vào năm 2020.
Hiệp định thương maị song phương Việt-Mỹ cũng đã được ký kết
và có hiệu lực từ năm 2001. Từ đầu năm 2007, Việt nam trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Hội nhập chỉ có hiệu quả và mang lại lợi ích khi chúng ta
có bước đi thích hợp trong toàn bộ quá trình từ đàm phán, cam
kết đến thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế, kể cả song
phương và đa phương.
Kế toán và kiểm toán với tư cách là một ngành, một lĩnh vực
thưong mại dịch vụ được quan tâm và hội nhập khá toàn diện.
Thương mại dịch vụ nói chung, thương mại dịch vụ kế toán và
kiểm toán nói riêng đã trở thành ngành kinh tế quan trọng và
chiếm tỷ trọng đáng kể trong thương mại của từng quốc gia và


toàn cầu. Tự do hoá thương mại dịch vụ, tự do hoá dịch vụ kế
toán, dịch vụ kiểm toán đã trở thành mối quan tâm của nhiêù
quốc gia , nhất là các nước phát triển. Mục tiêu của tự do hoá
thương mại dịch vụ, dịch vụ kế toán và kiểm toán là các quốc gia
loại bỏ những hạn chế , những rào cản đối với hoạt động của
phấp nhân và thể nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước mình và
dành cho nhau quy chế đối xử quốc gia (NT). Nghĩa là không có
sự phân biệt đối xử trong hoạt động thương mại hàng hoá và d
ịch
vụ. Theo đó mỗi thành viên phải dành cho dịch vụ của thành viên
khác sự đối xử ưu đãi tương tự như ưu đãi dành cho dịch vụ của
mọi thành viên khác. Không có quốc gia nào được hưởng các lợi
thế thương mại đặc biệt hơn so với quốc gia khác. Các thành
viên được đối xử công bằng và đêu được quyề hưởng lợi từ các
cuộc đàm phán về thuế quan , về hàng rào phi thuế quan và mở
củă thị trường dịch vụ. Quy chế đối xử quốc gia (NT) còn quy
định một sản phẩm hoặc dịch vụ khi được nhập khẩu vào thị
trường một quốc gia phải được đối xử ưu đãi như s
ản phẩm, dịch
vụ tương tự sản xuất trong nước. Nội dung của tự do hoá th
ương
mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ kế toán và kiểm toán được thể
hiện qua 4 hình thức:
- Cung cấp dịch vụ qua biên giới,
- Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài
- Hiện diện thương mại,
- Hiện diện thể nhân,
Trong 4 hình thức cung cấp dịch vụ này, trong lĩnh vực kế toán v
à
kiểm toán, hình thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện

thương mai và hiện diện thể nhân được nhiều nước thành viên
quan tâm và cũng là hình thức hoạt động có hiệu quả, dễ được
chấp nhận.
Kế toán và kiểm toán trong kinh tế thị trường, ngoài vai trò cung
cấp thông tin tin cậy cho quản lý và cho các quyết định kinh tế-tài
chính, đã và đang được thừa nhận là một dịch vụ không thể
thiếu của một nền kinh tế mở. Luật pháp của Việt nam và của
nhiều nước đã thừa nhận và có những quy định mang tính pháp
lý về hành nghề kế toán, kiểm toán, về cung cấp dịch vụ kế toán
và kiểm toán. Trong những cam kết mà Việt nam phải thực hiện,
Việt nam có lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ kế toán , kiểm
toán. Sẽ có các công ty dịch vụ kế toán-kiểm toán của nươc
ngoài được phép thành lập và hoạt động ở Việt nam. Ngược lại,
các công ty dịch vụ kế toán-kiểm toán Việt nam sẽ được phép
hoạt động ở nước ngoài với tư cách là nhà đầu tư Việt nam đầu
tư ra nươc ngoài. Các chuyên gia kế toán và các kiểm toán viên
có chứng chỉ hành nghề, đủ điều kiện được hành nghề sẽ được
phép hành nghề và cung cấp dịch vụ không chỉ ở trong nước mà
cả ở nước ngoài.
Rõ ràng là, thị trường dịch vụ kế toán và kiểm toán thống nhất đã
và đang hình thành trong khu vực các nước ASEAN. Đó là một
thực tế, một yêu cầu mới , một cơ hội mới cho sự phát triển và
nhất thể hoá nghề kế toán, kiểm toán trong khu vực. Thị trường
dịch vụ kế toán-kiểm toán thống nhất đòi hỏi có sự chuẩn bị ở tất
cả các nước thành viên về khung khổ pháp lý, về sự hài hoà các
chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, thu hẹp khoảng cách
của sự khác biệt, về sự phối hợp và thống nhất của chương tr
ình,
nội dung đào tạo, huấn luyện; thi cử và đánh giá chất lượng đào
tạo, chất lượng dịch vụ; về sự thừa nhận lẫn nhau các chứng chỉ

hành nghề của mỗi quốc gia Có những việc phải làm từ phía
nhà nước ở tầm quốc gia. Nhưng có rất nhiều việc phải làm từ
bản thân các tổ chức , cá nhân hành nghề, từ phía các tổ chức
nghề nghiệp.
1. Yêu c
ầu đặt ra đối với kế toán v
à ki
ểm toán

Trong cơ chế kinh tế thị trường và môi trư
ờng mở cửa, hội nhập,
yêu cầu đặt ra với kế toán và kiểm toán đã có sự thay đổi căn
bản và nâng lên về chất:
- Cung cấp những thông tin kinh tế tài chính toàn diện, đầy đủ,
kịp thời, tin cậy cho mọi đối tượng trong và ngoài đơn vị.
- Thoả mãn yêu cầu quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính.
- Phân tích và dự báo kinh tế-tài chính phục vụ điều h
ành và các
quyết định kinh tế-tài chính.
2. Đặc điểm và tính chất của kế toán và kiểm toán trong nền
kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, tính chất của kế toán và kiểm
toán đã có sự thay đổi căn bản, không chỉ thuần tuý là Tổ chức
ghi nhận, xử lý và tổng hợp các thông tin kinh tế-tài chính, không
chỉ là Công cụ kiểm kê, kiểm soát và đo lường hoạt động và hiệu
quả kinh tế- tài chính, mà đã trở thành hoạt động dịch vụ tài
chính, một lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh, hỗ trợ
hoạt động quản lý. Đây là hoạt động dịch vụ có chất lượng cao,
có giá trị pháp lý nhất định và không được phép có sản phẩm
hỏng, có dịch vụ thiếu độ tin cậy. Tính độc lập, tính khách quan,

những bằng chứng pháp lý, phẩm chất nghề nghiệp và yêu cầu
kiểm soát chất lượng dịch vụ là đặc điểm nổi bật của loại hình
dịch vụ này.
3. Những đòi hỏi và yêu cầu cụ thể đối với người hành nghề
kế toán, kiểm toán
Xuất phát từ đặc điểm và tính chất của kế toán và kiểm toán,
những người hành nghề kế toán và kiểm toán trong cơ chế kinh
tế mới, trước hết phải có Tính chuyên nghiệp cao, tâm huyết và
trách nhiệm với nghề. Chỉ có như vậy mới có thể cung cấp nh
ững
dịch vụ có chất lượng theo yêu cầu của các đối tượng sử dụng
dịch vụ trong nề kinh tế. Về Năng lực chuyên môn, phải có Sự
hiểu biết,có năng lực, trình độ tổ chức, điều hành công vi
ệc, có kỹ
năng và sự nhậy cảm, sáng tạo trong xử lý nghiệp vụ, đặc biệt là
năng lực xử lý các nghiệp vụ kinh tế tài chính trong một nền kinh
tế năng động và hội nhập. Về Phẩm chất và đạo đức nghề
nghiệp: trung thực, khách quan và bản lĩnh nghề nghiệp. thuộc
lĩnh vực công tác. Bản lĩnh nghề nghiệp của người làm kế toán v
à
kiểm toán rất cần thiết không chỉ cho nghề nghiệp mà còn rất cần
thiết cho nền kinh tế, cho xã hội, cho sự lành mạnh trọng hoạt
động kinh tế tài chính của đất nước của mọi nhà đầu tư , mọi nhà
kinh tế. Bản lĩnh nghề nghiệp đòi hỏi người làm kế toán phải tôn
trọng sự thực và tính khách quan của hoạt động kinh tế, các ý
kiến và thái độ trước thông tin kinh tế tài chính ph
ải thể hiện trách
nhiệm và sự vững vàng về chuyên môn, sự tin cậy và xác thực
của bằng chứng, sự mềm mại trong ứng xử và thuyết phục.
Đối với năng lực nghề kế toán, kiểm toán phải đạt được những

yêu cầu cụ thể sau:
- Có hiểu biết cần thiết về pháp luật, đặc biệt là hiểu biết và khả
năng tuân thủ, giải thích các quy định pháp lý về kinh tế-tài chính.

- Có kiến thức tốt về kinh tế, tài chính, hiểu biết sâu về các quy
định kế toán và kiểm toán
- Có khả năng tổ chức công việc thu thập, xử lý và tổng hợp
thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản lý.
- Tham mưu về quản trị doanh nghiệp, trong các quyết định kinh
doanh, trong chiến lược đầu tư và kinh doanh
- Có khả năng thích ứng trong môi trường kinh tế đa chiều, luôn
biến động.
4. Những khó khăn và thách thức đối với kế toán và kiểm
toán Việt Nam-Thực trạng đội ngũ kế toán và kiểm toán viên
ở Việt nam
Mạnh
- Đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý về kế toán và kiểm toán
cho sự vận hành và hoạt động nghề nghiệp. Hệ thống kế toán đã
được đổi mới và tiếp cận dần với nguyên tắc, thông lệ và chuẩn
mực kế toán thế giới và khu vực
- Đội ngũ hành nghề kế toán được đào tạo có hệ thống và có
kinh nghiệm trong hoạt đông nghề nghiệp, dám vượt qua thử
thách , khó khăn, dễ thích nghi với hoàn cảnh mới.
- Đa số thực sự yêu nghề, tận tuỵ và say sưa ngh
ề nghiệp, sẵn
sàng tiếp cận và tiếp thu cái mới. Ham học hỏi, có chí tiến thủ
- Có ý thức tuân thủ, kỷ cương, kỷ luật.
Hạn chế
- Quen hoạt động trong môi trường tĩnh, thụ động, cam chịu.
- Nhận thức về kế toán, kiểm toán trong kinh tế thị trường còn

hạn chế, không ít trường hợp mới dừng lại ở công việc kế toán ,
kiểm toán thuần tuý, chưa thấy hết vai trò, tác dụng và chưa làm
cho công tác kế toán thực sự là công cụ quản lý, điều hành hoạt
động kinh tế tài chính, công cụ hữu hiệu quản trị kinh doanh,
tham gia tích cực kiểm kê, kiểm soát, đo lường hiệu quả kinh tế
tài chính, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh doanh.
- Vai trò và tác động của Hội nghề nghiệp chưa đủ mạnh
5. Nâng tầm kế toán và kiểm toán Việt nam lên vị thế tương
xứng trong nghề nghiệp ở khu vực và thế giới
Yêu cầu khách quan phải sớm nâng cao vị thế và chất lượng
hoạt động nghề nghiệp kế toán và kiểm toán của Việt Nam. Kế
toán và kiểm toán Việt Nam phải là công cụ quản lý kinh tế tài
chính tin cậy, góp phần tạo lập môi trường đầu tư lành mạnh và
hội nhập thành công đem lại hiệu quả cao nhất cho đát nước
trong lĩnh vưc thương mại dịch vụ. Có nhiều việc phải làm, kể cả
trước mắt và lâu dài, kể cả những việc làm mang btính chiến
lược và những giải pháp tình thế, nhưng cần tập trung làm tốt
một số công việc sau
Một- Thống nhất cao về nhận thức đối với họat động kế toán v
à
kiểm toán, coi trọng đúng mức kế toán và ki
ểm toán không chỉ với
tư cách là công cụ quản lý, là tổ chức hệ thống thông tin, mà cả
với tư cách là một ngành dịch vụ- dịch vụ tài chính hỗ trợ kinh
doanh, hỗ trợ vận hành nền tài chính quốc gia. Cần nhận thức
đúng và đánh giá tác động thiết thực của độ tin cậy, tính hữu
dụng của các thông tin kinh tế tài chính do kế toán cung cấp,
được kiểm toán xác nhận phục vụ yêu cầu quyết định đầu tư ,
quyết định quản lý và bảo vệ an toàn tài sản tiên của nhà nước,
của nhân dân

Hai- Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý về tài chính, về
kế toán và kiểm toán, trước hết là quy định pháp lý về tài chính
nhà nước, về kiểm toán độc lập , về kiểm soát và kiểm toán nội
bộ. Rà soát và bổ sung những quy định pháp lý về kế toán, về
kiểm toán nhà nước, về hành nghề kế toán, về hành nghề kiểm
toán đảm bảo một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho kế toán và
kiểm toán trong kinh tế thị trường phù hợp với Việt nam và tiếp
thu có chọn lọc các nguyên tắc, thông lệ và chuẩn mực quốc tế
về kế toán và kiểm toán. Nghiên cứu và điều chỉnh các quy định
pháp lý về tiêu chuẩn, chức danh, chức năng và quyền hạn của
chuyên gia kế toán, kế toán viên công chứng, kế toán viên có
chứng chỉ hành nghề , kiểm toán viên và kiểm toán viên có ch
ứng
chỉ hành nghề, tránh sự nhầm lẫn và ngộ nhận như hiên nay.
Sớm có sự thống nhất trong các Hội viên AFA và phù hợp tiêu
chuẩn, tiêu chí của Việt nam.
Ba- Đổi mới chương trình, nội dung, phương thức và nâng
cao chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán ở mọi trình độ, mọi
cấp độ; bồi dưỡng kế toán trưởng, thi tuyển chuyên gia kế toán
và kiểm toán viên. Tích cực tham gia và thúc đẩy các thành viên
của AFA sớm tạo lập quan hệ hợp tác trong đào tạo, huấn luyện,
cấp chứng chỉ hành nghề và quy chế công nhận chứng chỉ hành
nghề giữa các tổ chức thành viên. Sớm hình thành chương trình
và nội dung đào tạo , huấn luyện kế toán và kiểm toán dùng
chung cho các nước ASEAN.
Bốn- Tăng cường quản lý, kiểm soát đạo đức hành nghề và
chất lượng hành nghề kế toán và kiểm toán. Đây là công vi
ệc mới
nhưng rất cần thiết để nâng cao vị thế và chất lư
ợng nghề nghiệp

Năm- Tăng cường vai trò và chất lượng hoạt động của tổ chức
nghề nghiệp. Hôi kế toán và kiểm toán Việt nam (VAA), thành
viên của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt nam, thành
viên của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Hội đã và
đang tham gia tích cực vao các hoạt động, góp phần xứng đáng
và quan trọng và sự phát triển nghề nghiệp trong khu vực và
nâng cao vị thế AFA trong khu vực cũng như trong nghề nghiệp
kế toán thế giới. Hội đã liên tiếp đưa ra các sáng kiến nghề
nghiệp, trong đó có sáng kiến về hợp tác đào tạo và huấn luyện
nghề nghiệp, thống nhất chương trình, nội dung đào tạo, huấn
luyện, cấp chứng chỉ hành nghề và thừa nhận chứng chi hành
nghề kế toán và kiểm toán. Hội và các tổ chức thành viên đang
tích cực triển khai công việc quản lý hành nghề kế toán và kiểm
toán do Bộ tài chính chuyển giao. Trong thời gian tới Hội cần đổi
mới mạnh hơn, nhiều hơn cả về tổ chức, phương thức họat động
và nội dụng hoạt động để làm trọn chức năng là nơi tập hợp và
kiểm soát nghề nghiệp.

×