Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.17 KB, 31 trang )

GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
I. Quan điểm và định hướng công tác quản lý thu thuế trong thời gian tới

1. Quan điểm
Kinh tế NQD sẽ cùng tồn tại khách quan với các thành phần kinh tế khác
trong thời kỳ quá độ, và tự nó đã và đang phát huy vai trị nhất định trong việc phát
triển kinh tế tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; góp phần
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Vì vậy nhận thức đúng đắn vị trí
kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ là cực kỳ quan trọng.
Xác định đúng vị trí vai trị của nó cịn giúp các ngành chức năng hoạch định
chính sách, cơ chế thực sự khuyến khích nó phát triển.
Cần coi các thành phần kinh tế NQD như những tế bào của nền kinh tế thống
nhất. Cần phải có cái nhìn đúng đắn hơn với những người chủ khu vực kinh tế
NQD và những người lao động trong khu vực kinh tế này.
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị kinh tế NQD thể hiện trong xây dựng
chính sách thuế và quản lý thu thuế là tìm mọi giải pháp để khuyến khích khu vực
kinh tế này phát triển, xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh và kinh
tế NQD, xoá bỏ ngay những quy định khơng phù hợp đang kìm hãm sự phát triển
của khu vực kinh tế này.
Cơ quan thuế, cán bộ thuế phải xác định khu vực kinh tế NQD là đối tượng
mình phục vụ thay cho quan niệm quản lý như hiện nay. Các cơ sở kinh tế là
nguồn cung cấp tài chính cho ngân sách, cơ sở kinh tế tồn tại và phát triển nguồn
thu tài chính cho ngân sách mới ổn định và ngày càng tăng, từ đó hướng dẫn giúp
đỡ cơ sở kinh doanh thực hiện đúng chính sách, lắng nghe ý kiến phản ánh của cơ


sở về những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, vướng mắc trong việc thực hiện
chính sách thuế để giải đáp giúp cơ sở vượt qua.
Bản thân chủ cơ sở sản xuất kinh doanh cũng cần phải nhận thức cho đúng


đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về chủ trương phát triển lâu dài
kinh tế NQD, tự xoá bỏ mặc cảm, tranh thủ nắm bắt thời cơ mạnh dạn đầu tư, đổi
mới công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời qua sản xuất kinh
doanh kiến nghị với Nhà nước những khó khăn vướng mắc gây cản trở đến sự phát
triển của khu vực kinh tế NQD để Nhà nước nghiên cứu tháo gỡ. Đấu tranh kiên
quyết với các cơ sở kinh doanh vi phạm pháp luật, kinh doanh theo lối chụp giật,
kinh doanh trốn thuế, lậu thuế... để hạn chế dần vi phạm trên, gây dựng lòng tin
cho các cơ quan quản lý và nhân dân.
Các cơ quan tuyên truyền cần thay đổi hướng tuyên truyền về khu vực kinh
tế NQD. Công tác tuyên truyền cũng cần phải định hướng lại cho dư luận và nhân
dân coi các cơ sở kinh tế NQD là những đơn vị trong binh chủng hợp thành của
nền kinh tế Việt Nam. Những ông chủ và người lao động trong doanh nghiệp NQD
là những nguời đã và đang góp phần xây dựng đất nước, xoá bỏ mặc cảm lâu đời
trọng nơng, khinh thương...
Tóm lại qua xác đinh đúng đắn vị trí, vai trị của kinh tế NQD từ đó tạo ra sự
thay đổi trong nhận thức và hành động của cơ quan quản lý, của các quan chức
chính phủ và của xã hội với khu vực kinh tế NQD.
2. Định hướng
Năm 2002 Nhà nước đã giao nhiệm vụ thu thuế đối với hoạt động sản xuất
công thương nghiệp và dịch vụ NQD cho toàn ngành và từng địa phương. So với
năm 2001 dự toán thu năm 2002 tăng khoảng 12% đến 13%. Để thực hiện được dự
toán này Tổng cục Thuế đã ra công văn số 4649 TCT/NV6 ngày 15/11/2001 nêu
những biện pháp rất cụ thể. Căn cứ vào những biện pháp chung của toàn ngành và
những biện pháp cụ thể nêu tại công văn trên đề nghị Cục thuế địa phương triển


khai nghiêm túc và cụ thể phù hợp với đặc điểm của địa phương mình. Tổng cục
Thuế nhấn mạnh thêm một số biện pháp lớn sau:
2.1. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ chính quyền, sự phối hợp của
các ngành rà soát nắm lại tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn để đưa

ngay vào điện quản lý thu thuế môn bài, trên cơ sở số hộ quản lý thu thuế môn bài,
phân loại hộ để áp dụng những biện pháp quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN
thích hợp theo hướng sau:
- Đối với hộ kinh doanh lớn tiếp tục triển khai thực hiện chế độ kế toán, mở
rộng diện áp dụng đối với các hộ kinh doanh lớn có điều kiện mở sổ sách kế toán,
lập hoá đơn chứng từ.
- Đối với hộ kinh doanh vừa và nhỏ, phối hợp với Hội đồng tư vấn xác định
lại doanh số, tổ chức công khai lấy ý kiến và công bố ổn định cho hộ kinh doanh.
Cục thuế phải giao chỉ tiêu tăng thu và chỉ đạo chặt chẽ các Chi cục Thuế, các đội
thuế thực hiện bằng và cao hơn chỉ tiêu đã giao. Mức tăng thu tối thiểu phải bằng
mức tăng trưởng kinh tế.
- Đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp, phải thực hiện các thủ tục miễn
giảm thuế đúng chính sách và cơng bố cơng khai để các hộ kinh doanh biết.
2.2. Đẩy mạnh việc triển khai chế độ kế toán:
- Đối với các doanh nghiệp: Yêu cầu 100% doanh nghiệp phải thực hiện
chế độ kế toán và thu thuế theo kê khai, nghiêm cấm thu thuế khoán. Kết hợp kiểm
tra quyết tốn thuế, kiểm tra hồn thuế với kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán,
kê khai nộp thuế, xử ký nghiêm khắc các doanh nghiệp vi phạm.
- Đối với các hộ kinh doanh cá thể: u cầu các hộ kinh doanh có mơn bài
bậc 1, bậc 2 phải mở sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ và nộp thuế theo kê khai.
Để chống thất thu thuế và chống các hành vi lợi dụng đối với những hộ kinh doanh
qua triển khai chế độ kế toán nếu kê khai doanh số và mức thuế lại thấp hơn doanh
số ấn định hoặc doanh số của hộ kinh doanh cùng ngành nghề cùng quy mơ thì


phải xử phạt vi phạm hành chính và ấn định doanh số, mức thuế mới bằng hoặc
cao hơn doanh số và mức thuế của hộ kinh doanh cùng ngành nghề cùng quy mơ,
khơng được ấn định bằng mức khốn trước đây.
- Đối với những hộ kinh doanh được cơ quan thuế chấp nhận cho nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ hoặc được xác định GTGT theo doanh số bán ra

trừ doanh số mua vào, yêu cầu các Chi cục Thuế phải thường xuyên kiểm tra để
phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm tránh lợi dụng. Thời gian qua, đã có
một số hộ kinh doanh lợi dụng chủ trương khuyến khích đăng ký nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ chuyển từ nộp theo phương pháp trực tiếp sang nộp
theo phương pháp khấu trừ, số thuế phải nộp khơng những giảm mà cịn được
hồn. Cục Thuế cần chỉ đạo chặt chẽ các Chi cục Thuế trong việc duyệt cho hộ
kinh doanh được nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
2.3. Đẩy mạnh việc triển khai các biện pháp chống thất thu đối với một số
ngành nghề và lĩnh vực cịn đang thất thu nhiều theo cơng văn số 3581/TCT ngày
11/9/2001 của Tổng cục Thuế. Những địa phương chưa triển khai cần tranh thủ
báo cáo Uỷ ban Nhân dân điạ phương để Uỷ ban nhân dân chỉ đạo các ngành phối
hợp thực hiện.
2.4. Nghiên cứu cải tiến các biện pháp thu nộp thuế theo hướng gắn công tác
quản lý thuế với chính quyền cơ sở, giảm các thủ tục hành chính, tiết kiệm chi phí
và tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế.
Mở rộng mơ hình hoạt động của các trung tâm dịch vụ đối tượng nộp thuế
để cung cấp thông tin và hướng dẫn các cơ sở kinh doanh hiểu rõ chính sách thuế,
chế độ kế tốn để họ tự giác chấp hành.
2.5. Nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cơ quan thuế và từng cán bộ thuế.
Mỗi đồng chí phụ trách cơ quan thuế, mỗi cán bộ thuế đều phải chịu trách nhiệm
về kết quả thu và kết quả triển khai các biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi phụ


trách của mình. Gắn kết quả hồn thành nhiệm vụ, kết quả chống thất thu với các
hình thức khen thưởng.
2.6. Trước hết để bảo đảm nhiệm vụ thu quý I cần thực hiện:
- Giao chỉ tiêu cụ thể cho từng Chi cục, từng đội thuế nhiệm vụ thu thuế
môn bài năm 2002
- Đối với hộ thuộc đối tượng khoán ổn định, phối hợp với hội đồng tư vấn
tổ chức điều tra doanh số, mức thuế và tổ chức công khai để mọi người kinh doanh

biết. Yêu cầu mức thuế mới xác định phải bảo đảm hồn thành dự tốn và tăng hơn
mức độ tăng trưởng kinh tế ở địa phương. Cục Thuế phải căn cứ vào mức độ tăng
trưởng kinh tế và mức độ thất thu giao chỉ tiêu cụ thể cho từng Chi cục, kiểm tra và
đôn đốc Chi cục thực hiện đúng chỉ tiêu đã giao. Chi cục nào thực hiện không đúng
kiên quyết yêu cầu làm lại
- Đôn đốc các doanh nghiệp, hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai nộp báo
cáo quyết toán thuế, báo cáo tạm nộp thu nhập đúng kỳ hạn.
Kiểm tra báo cáo quyết toán doanh nghiệp kê khai, nếu phát sinh thu thêm
thì căn cứ vào kê khai của doanh nghiệp ra thông báo yêu cầu nộp ngay. Kiểm tra
tờ khai nộp thuế TNDN nếu doanh nghiệp kê khai thấp hơn thu nhập thực tế của
năm 2001 và mức độ tăng trưởng năm 2002 thì yêu cầu kê khai lại, trường hợp
doanh nghiệp không kê khai lại hoặc không nộp tờ khai thì căn cứ vào thu nhập
năm 2001, mức tăng trưởng kinh doanh năm 2002 để ấn định mức tạm nộp q I.
II. GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ KHU VỰC KINH
TẾ NQD TRONG THỜI GIAN TỚI

1.

Một số giải pháp về các chính sách thuế
1.1.

Thuế mơn bài
Cần xây dựng hai biều thuế để áp dụng riêng cho hai loại đối tượng, một

biểu áp dụng cho tổ chức kinh tế có mức thuế mơn bài cao, một biểu áp dụng cho
hộ kinh doanh cá thể có thể chỉ duy trì hoặc điều tiết chút ít so với mức hiện hành.


1.2.


Thuế GTGT
- Về đối tượng áp dụng thuế GTGT chỉ nên áp dụng với các cơ sở kinh
doanh đạt một quy mơ nhất định cịn các cơ sở kinh doanh có quy mơ nhỏ thì áp
dụng thuế doanh thu như trước đây.
- Về thuế suất: Nên đơn giản về thuế suất chỉ nên áp dụng ba mức:
+ 0% với hàng xuất khẩu.
+ 15% hoặc 20% đối với hàng dịch vụ khơng khuyến khích sản xuất và
tiêu dùng.
+ 5% hoặc 10% đối với hàng sản xuất và tiêu dùng.
- Về kê khai nộp thuế: Nên có sự phân biệt: Doanh nghiệp kê khai nộp
thuế theo tháng. Doanh nghiệp vừa kê khai nộp thuế 3 tháng 1 lần. Doanh nghiệp
nhỏ kê khai nộp thuế 6 tháng 1 lần.
- Về kê khai nộp thuế: Nên bỏ khấu trừ theo tỷ lệ, chỉ áp dụng khấu trừ
nếu mua hàng hóa có hố đơn GTGT.
1.3. Thuế TNDN
Đề nghị bác bỏ thuế thu nhập bổ sung vì phân biệt lợi thế khách quan là rất
phức tạp và mang tính chủ quan, hoặc nếu áp dụng thì chỉ áp dụng đối với một số
mặt hàng Nhà nước độc quyền giá cả do Nhà nước quyết định.
Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp: đề nghị nâng mức từ
210.000 đồng đến 500.000 hoặc 700.000 đồng/ tháng. Hộ kinh doanh có thu nhập
vượt quá mức này thì chỉ tính và nộp trên phần thu nhập cao hơn.
1.4. Thuế XNK
- Cần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu.
- Đưa biểu thuế xuất nhập khẩu phù hợp với những cam kết quốc tế về cắt
giảm thuế quan, sau khi Việt Nam tham gia ký kết các điều ước quốc tế.
2. Về nhận thức tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử


- Nhà nước, cơ quan thuế cần phảI đối xử bình bẳng giữa các thành phận

kinh tế, khơng được ưu tiên một cách bất hợp lý khi ra các chính sách thuế.
_ Khu vực này cần được thơng thống, tạo điều kiện trong vay vốn, tham
gia thị trường,tuyển dụng lao động.
_Cần nhận thức đúng vai trị, vị trí của khu vực trong hoạch định chính sách.
3. Hồn thiện khn khổ pháp lý, chính sách thuế đối với kinh tế NQD
- Trước hết phải rà sốt lại các chính sách hiện hành có nội dung liên quan
đến khu vực kinh tế NQD để sửa đổi, điều chỉnh, bổ xung một cách cơ bản nhằm
tạo ra môi trường pháp lý rõ ràng, nhất quán, ổn định và khả thi cho khu vực kinh
tế NQD hoạt động và phát triển.
- Loại bỏ ngay những quy định trong các chính sách cụ thể có tính chất
phân biệt đối xử giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế NQD, tạo sự bình đẳng giữa các
cơ sở kinh tế Nhà nước và kinh tế NQD trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh
vực Tài chính, Thuế, Tín dụng, đất đai...
Những quy định trong chính sách cụ thể có tính chất phân biệt đối xử nhậy
cảm. Trước đây trong chính sách thuế lợi tức có nhiều điều mang tính phân biệt đối
xử như khu vực kinh tế NQD thì phải nộp thuế lợi tức bổ xung. Tính chi phí tiền
lương theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố mà không theo thoả ước
ghi trong hợp đồng lao động giữa cơ sở sản xuất với người lao động... luôn là tiêu
điểm để các cơ sở kinh tế NQD phê phán. Nay chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp đã xoá bỏ các phân biệt trên, nhưng vẫn cịn nhiều quy định ngồi luật dưới
hình thức quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn riêng cho khu vực kinh tế quốc
doanh mà các cơ sở kinh tế NQD không được áp dụng như hướng dẫn về xử lý
chênh lệch giá, về trích lập quỹ đề phịng rủi ro....
Theo văn bản này thực hiện luật thuế lợi tức các doanh nghiệp Nhà nước
được chuyển lỗ 5 năm - trong khi luật thuế lợi tức quy định chỉ được chuyển lỗ 2


năm, với văn bản này lợi thế lại thuộc về doanh nghiệp Nhà nước, điều mà các cơ
sở kinh tế NQD khơng được hưởng.
- Đối với các chính sách mới ban hành hoặc mới được bổ sung, sửa đổi có

liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế nói chung và
các cơ sở kinh tế NQD nói riêng cần được phổ biến rộng rãi cho cơ sở biết và phải
quan tâm đến khả năng thực hiện của cơ sở kinh doanh. Một chính sách mới hoặc
điều mới được sửa đổi, bổ sung có thể sẽ tạo điều kiện hoặc gây khó khăn cho
doanh nghiệp thực hiện, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do
đó doanh nghiệp cần phải biết và có thời gian để điều chỉnh cho phù hợp. Đây chưa
phải điều đã được các cơ quan hoặc chính sách quan tâm.
- Các văn bản hướng dẫn dưới luật phải tuyệt đối tuân theo mục đích, nội
dung đã nêu ra trong luật, khơng được vì quyền lợi cục bộ mà vi phạm vào những
mục đích nội dung luật quy định. Làm cho mục tiêu xuyên suốt của luật không
được thực hiện hoặc thực hiện không đúng đắn, sai lệch.
Trong hướng dẫn chính sách thuế và tổ chức thực hiện thường mắc tồn tại
này.
Thí dụ: Để khuyến khích các cơ sở kinh doanh đầu tư xây dựng cơ sở sản
xuất, luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư đều quy đinh: cơ
sở sản xuất mới thành lập được miễn giảm thuế TNDN, thuế nhập khẩu, tiền thuê
đất tuỳ theo dự án đầu tư thuộc ngành nghề, địa bàn cần khuyến khích hay khơng.
Thực hiện chủ trương này thơng tư hướng dẫn của Bộ Tài chính có quy định
một điểm khơng rõ ràng dẫn đến khó khăn cho thực hiện và rất dễ dẫn đến tuỳ tiện.
Cụ thể quy định là: Các cơ sở sản xuất được thành lập trên cơ sở sát nhập, chia
tách, mua lại cơ sở sản xuất cũ không thuộc đối tượng miễn giảm thuế. Thế là
trong tổ chức thực hiện luôn xảy ra: Một cơ sở sản xuất cũ làm ăn thua lỗ bán cho
một người khác, đối với người mua đây là cơ sở sản xuất mới nhưng theo quyết
định trên không được miễn giảm, nhưng nếu anh ta mua đất xây nhà xưởng, mua


máy móc thiết bị về lắp đặt thì được miễn giảm. Hoặc một cơ sở mới thành lập có
đầu tư xây dựng nhà xưởng, nhưng mua lại máy móc thiết bị của cơ sở sản xuất
cùng ngành nghề trước đó cũng được coi là chia, tách nên không được miễn giảm
thuế.

Trong phát triển hàng hoá theo cơ chế thị trường sự mua đi bán lại một
doanh nghiệp, một cơ sở kinh doanh là thường xuyên xảy ra. Đối với người mua
lại cơ sở sản xuất khai cũng cần xác định đó là mới vì xét mới hay cũ phải xét trên
pháp nhân hay thể nhân, chứ không phải xét trên nhà xưởng, máy móc.
Hay theo luật thuế GTGT, cơ sở mua hàng hoá được khấu trừ thuế đầu vào
theo tỷ lệ 2% tính trên giá mua. Tuy nhiên do khơng hướng dẫn rõ hàng hố nơng
sản được hiểu như thế nào nên thực hiện không thống nhất, như cây cà phê phá
chặt bán có phải là nơng sản hay khơng? Có nơi cho là hàng hố nơng sản, có nơi
khơng xác định là hàng hố nơng sản, lập luận hàng hố nơng sản là hạt cà phê...
Trong hàng hóa nơng sản thế nào là sơ chế, thế nào là chế biến cũng đang có sự
hiểu khơng thống nhất, mà chưa có sự giải thích cụ thể dẫn đến tình trạng cùng là
mặt hàng chè búp khô, long nhãn, mực khô có địa phương cho là đã qua chế biến
nên khơng khấu trừ theo tỷ lệ 2%, có nơi lại cho là nông sản chưa qua chế biến nên
đượckhấu trừ theo tỷ lệ 2%.
Trong điều kiện kinh tế thị trường có cạnh tranh việc thực hiện không thống
nhất nhiều khi vô tình tạo ra điều kiện cho cơ sở này phát triển nhưng lại đưa cơ sở
khác đến phá sản.
- Đẩy mạnh cơng tác tun truyền, hướng dẫn, giải thích luật và các chính
sách để các cơ sở kinh tế NQD nắm được các quy định của pháp luật và các văn
bản hướng dẫn dưới luật phải đồng bộ và phải có thời gian cho cơ sở kinh doanh
tiếp nhận và chuẩn bị để thi hành.
Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá X ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ xung một
số điều của luật thuế GTGT quy định Nghị quyết được thực hiện từ 1/1/2001 và


giao Chính phủ hướng dẫn thi hành. Chưa nói thời gian từ khi Quốc hội có nghị
quyết đến thời điểm thi hành là ngắn, nhưng đến 29/12/2000 Chính phủ mới có
thơng tư hướng dẫn thực hiện (thực tế Nghị định của Chính phủ và thơng tư của Bộ
Tài chính ký sau ngày trên). Khi các văn bản này được các cơ sở kinh tế NQD tiếp
nhận sớm nhất vào giữa tháng 2/2001. Và thực tiễn xảy ra do tháng 1/2001 các cơ

sở kinh doanh chưa tiếp nhận được văn bản hướng dẫn nên vẫn tính tốn chi phí,
kết quả kinh doanh, mức thuế theo hướng dẫn trước đó, nay hướng dẫn có một số
điều chỉnh làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp đã đề
nghị Bộ Tài chính, Chính phủ phải xem xét chấp nhận thực tiễn đó, nếu khơng sẽ
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tương tự như vậy, mỗi khi điều chỉnh tăng thuế XNK, điều chỉnh lại khung
giá tính thuế hàng nhập khẩu thời gian thực hiện chỉ sau ngày ký khoảng 1 tháng,
nhiều trường hợp doanh nghiệp đã ký hợp đồng với khách hàng trước đó trên cơ sở
tính tốn hiệu quả theo chính sách tại thời điểm, nay tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ
ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, bỏ hợp đồng sẽ bị phạt, thật là tiến
thoái lưỡng nan.
Mới đây nhất ngày 18/4/2001 Bộ Tài chính vừa có quyết định thu chênh lệch
giá đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Theo quyết định này một số mặt hàng hoá
nhập khẩu từ 1/1/2001 sẽ phải nộp chênh lệch giá, một số trường hợp từ 1/5/2001.
Đối với các trường hợp đã nhập từ 1/1 đến ngày quyết định ban hành chắc chắn
doanh nghiệp đã bán hoặc tính tốn giá bán khơng tính đến khả năng này, còn các
trường hợp nhập từ 1/5 cũng sẽ khơng thể thay đổi được vì hợp đồng đã ký rồi,
hàng hóa đã xuống tàu rồi...
Kiến nghị rằng: Mỗi khi ban hành chính sách mới hoặc sửa đổi, bổ xung
chính sách cũ, nếu có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thì cho phép cơ
sở kinh doanh được tiếp tục hưởng quy định trước trong một thời gian nhất định đủ


để cơ sở kinh doanh tính tốn thay đổi hoặc điều chỉnh phương án sản xuất kinh
doanh.
4. Mở rộng hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cung cấp thông tin, tư vấn thuế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc nắm thơng tin nhanh hay chậm,
chính xác hay khơng chính xác đều có ảnh hưởng trực tế tiếp đến kết quả sản xuất
kinh doanh của cơ sở. Đối với khu vực kinh NQD thường tiếp nhận thơng tin và
khơng chính xác vì khác với doanh nghiệp Nhà nước, HTX có cơ quan quản lý

chuyên ngành cấp trên thường tổ chức phổ biến và hướng dẫn các chủ trương,
chính sách mới đến doanh nghiệp, khu vực kinh tế NQD thường phải tự tìm hiều
lấy. Do đó việc mở rộng các hoạt động cung cấp thông tin là rất quan trọng.
Khu vực kinh tế NQD cũng cần Nhà nước hỗ trợ về các mặt vì vượt quá khả
năng từng cơ sở. Các hỗ trợ đó nên tập trung vào những lĩnh vực sau:
- Hỗ trợ về mặt luật pháp, đặc biệt là luật pháp về đăng ký kinh doanh, về
thuế, về hợp đồng kinh tế.
Về thuế cần mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ để cơ sở kinh tế NQD có
thể nắm được đầy đủ và chính xác những quy chế về thuế do vậy dịch vụ tư vấn
thuế phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay đang trở thành một
yêu cầu bức thiết đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ trên các mặt: thể chế hố
bằng văn bản các dịch vụ tư vấn nói chung, tư vấn thuế nói riêng. Khuyến khích và
có cơ chế ưu đãi phát triển các tổ chức tư vấn thuế. Hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng
lực của các chuyên gia, cán bộ làm công tác tư vấn thuế. Cải thiện các điều kiện
tiếp cận thông tin cho các tổ chức, các nhà tư vấn. Đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh
vực tư vấn bằng việc tạo điều kiện cho các tổ chức tư vấn trong nước thuê chuyên
gia nước ngoài vào làm việc. Tăng cường cho các doanh nghiệp sử dụng tư vấn
thuế trong hoạt động của mình như là một biện pháp minh bạch hố tình hình tài
chính doanh nghiệp và chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với nhà nước. Dịch vụ tư vấn


để họ chủ động tính tốn nghĩa vụ nộp thuế, tránh những vi phạm dẫn đến bị xử
phạt, đồng thời nắm được sự kiểm tra, xem xét của cơ quan quản lý. Việc nắm đầy
đủ và chính xác những quy định về thuế còn giúp cho cơ sở kinh tế NQD biết được
những ưu đãi về thuế mà mình được hưởng, kiểm tra lại việc tính thuế của cơ quan
thuế...
- Hỗ trợ, tư vấn về thị trường và giá cả, đặc biệt là thị trường và giá cả liên
quan đến hoạt động XNK. Để các cơ sở kinh tế NQD có thể tham gia hoạt động
mạnh hơn nữa vào hoạt động XNK và tránh thua thiệt thì thơng tin về giá cả thị
trường quốc tế là rất quan trọng, không ít những trường hợp do không nắm được

thị trường và giá cả đã bị khách hàng nước ngoài lừa bịp, nâng giá...
- Hỗ trợ, tư vấn về mặt công nghệ, kỹ thuật giúp các cơ sở kinh tế NQD có
thể bắt kịp đựơc những tiến bộ về khoa học và công nghệ trên thế giới để ứng dụng
vào sản xuất kinh doanh và không bị đối tác lừa gạt.
- Hỗ trợ về mặt đào tạo nâng cao trình độ quản lý, trình độ chun mơn của
người lao động.
Như trình bày ở phần những tồn tại của bản thân khu vực kinh tế NQD có
một tồn tại về mặt trình độ quản lý, trình độ chun mơn, đa số những người quản
lý và người lao động ở khu vực kinh tế này đều không qua các trường lớp đào tạo,
họ thực hiện chức năng quản lý hoặc chức năng kỹ thuật chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm.
Việc nâng cao trình độ cho họ cần có sự hỗ trợ của Nhà nước vì bản thân
mỗi cơ sở không đủ khả năng làm được. Nhà nước cần mở rộng các hoạt động đào
tạo, bồi dưỡng cho những cán bộ quản lý và người lao động ở khu vực kinh tế này.
5. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước, thuế
Bộ máy Nhà nước là cơ quan thể chế đường lối của Đảng thành pháp luật,
chính sách, đồng thời cũng là cơ quan quản lý và giám sát các cơ sở kinh tế NQD


hoạt động. Vì vậy chất lượng lập pháp và hành pháp phụ thuộc rất nhiều vào bộ
máy Nhà nước. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy Nhà nước cần tập trung
vào những việc sau đây.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, làm rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước, giảm tối đa sự chồng chéo, trùng lặp, tiến
tới quy định một vấn đề cụ thể, chỉ một cơ quan ở một cấp được phân quyền hạn
giải quyết và phải giải quyết trong thời hạn nhất định
Năm 2000 thực hiện Luật Doanh nghiệp mới, và các nghị định về đăng ký
kinh doanh mới các thủ tục hành chính đã được cải tiến đáng kể, thời gian chờ đợi
đã được giảm nhiều, chi phí cho thành lập cơ sở kinh doanh cũng giảm đáng kể.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại thực tế là nhiều quy định chưa được hoàn thiện, bổ

xung cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp mới và nghị định mới về đăng ký kinh
doanh. Thí dụ: Luật doanh nghiệp cho phép trong khi chờ đợi cấp giấy phép doanh
nghiệp có thể uỷ nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch kể cả xây
dựng cơ bản. Trong quá trình thực hiện các giao dịch đương nhiên phát sinh chi phí
và thuế GTGT đầu vào, nhưng trong thông tư hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT
lại quy định nguyên tắc: Thuế GTGT phát sinh tháng nào được kê khai khấu trừ
trong tháng đó. Các doanh nghiệp đang trong thời gian chuẩn bị và xin thành lập
đã đăng ký thuế đâu mà kê khai, thế là nhiều doanh nghiệp khơng được khấu trừ
hoặc hồn thuế GTGT đầu vào trong trường hợp này.
Các cơ quan quản lý thực hiện chức năng theo quy định của Chính phủ. Mỗi
vấn đề phát sinh chỉ một cơ quan giải quyết và cơ quan đã giải quyết phải chịu
trách nhiệm về quyết định của mình. Thực hiện luật thuế, đã quy định cơng tác
quản lý thu thuế do hệ thống thuế đảm nhiệm, tuy nhiên trong thời gian qua không
chỉ cơ quan thuế kiểm tra, xử lý những vấn đề liên quan đến chính sách thuế mà
nhiều ngành khác như cơng an, quản lý thị trường, kế toán, thanh tra, viện kiểm
sát... cũng kiểm tra và yêu cầu cơ sở kinh doanh phải xuất trình tài liệu liên quan


đến thực hiện chính sách thuế và xử lý vi phạm. Ngay trong hệ thống Tài chính
cũng cịn sự chồng chéo giữa cơ quan thuế với cơ quan thanh tra tài chính...
Trong cơng tác kiểm tra thuế cũng đang có hiện tượng chồng chéo, gây
phiền hà, lãng phí cho cơ sở kinh doanh. Nhiều trường hợp cơ sở kinh doanh phải
tiếp nhiều đoàn thanh tra thuế từ cấp quận, huyện đến cấp trung ương và mỗi cơ
quan kiểm tra lại có kết luận khác nhau, cơ sở kinh doanh khơng biết đâu là kết
luận đúng.
Yêu cầu cải cách hành chính thuế đang là vấn đề nổi cộm. Không phủ nhận
thời gian qua các thủ tục hành chính thuế có nhiều cải tiến nhưng vãn còn gây
phiền hà cho doanh nghiệp. Hướng cải cách hành chính thuế đề nghị tập trung vào
vấn các vấn đề trọng tâm sau đây:
- Tiếp tục cải cách thủ tục về đăng ký và cấp mã số thuế theo hướng gắn

việc cấp đăng ký kinh doanh với việc cấp mã số thuế để doanh nghiệp bớt các thủ
tục khai báo và thời gian chờ đợi.

- Tiếp tục cải cách lại thủ tục hoàn thuế, miễn giảm thuế:
Theo hướng đơn giản về mặt thủ tục và nâng cao trách nhiệm của doanh
nghiệp, khắc phục và chấm dứt tình trạnhg “xin cho” trong việc miễn giảm thuế,
hồn thuế. Theo hướng này đề nghị cần hướng dẫn rõ các thủ tục, hồ sơ về miễn
giảm thuế, về hoàn thuế để doanh nghiệp nắm được và thực hiên. Cơ quan thuế căn
cứ vào hồ sơ của doanh nghiệp phải hoàn thuế trong thời gian quy định mà không
cần phải ra quyết định. Các trường hợo hồ sơ không đầy đủ thì phải thơng báo cho
doanh nghiệp biết.
Đối với các dự án đầu tư đã có quyết định ưu đãi đầu tư của uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố thì khơng cần làm thủ tục miễn giảm thuế nữa vì khi xét cấp quyết
định, doanh nghiệp đã phải lập hồ sơ và đã được uỷ ban nhân dân xem xét trước
khi ra quyết định.


- Cải tiến các thủ tục về kê khai thuế theo hướng đơn giản cả về nội dung
kê khai, và các biểu mẫu kèm theo. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thay
thế việc kê khai nộp thuế hàng tháng thành kê khai nộp thuế theo quý
Theo quy định hiện nay, việc kê khai thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải lập
bảng kê hoá đơn đầu vào, hoá đơn đầu ra kèm theo. Đối với những cơ sở kinh
doanh có số lượng hố đơn đầu vào đầu ra lớn việc kê khai và lập bảng kê sẽ mất
nhiều thời gian vì nội dung bảng kê tương đối phức tạp, chưa nói đến việc chi phí
về giấy tờ, in ấn...
- Trong quản lý và sử dụng hoá đơn cũng cần cải tiến theo hướng tìm giải
pháp khuyến khích mạnh hơn nữa doanh nghiệp tự in hoá đơn để sử dụng. Theo
quyết định hiện nay việc doanh nghiệp muốn tự in hoá đơn để sử dụng phải xin lại xin - và được chấp nhận của Tổng cục Thuế và phải in ở nhà in do Tổng cục
Thuế chỉ định. Các doanh nghiệp NQD thường quy mô kinh doanh không lớn
muốn tự in hoá đơn để sử dụng cho tiết kiệm nhưng thủ tục phiền hà nên đành thôi.

Trong cải cách thủ tục hành chính cần hết sức chú ý: Khi đặt ra yêu cầu quản
lý hoặc cải tiến quản lý phải tính đến những tác động đối với đối tượng quản lý và
tính hiệu quả của quản lý. Khi thực hiện luật thuế GTGT đa số các cơ sở kinh
doanh đều phàn nàn chế độ kê khai thuế GTGT quá phức tạp nên doanh nghiệp đều
phải tăng biên chế và tăng chi phí. Trước đây thực hiện luật thuế doanh thu, hàng
tháng kế toán chỉ cần khoá sổ là xác định được doanh thu, tính được thuế phải nộp
và chỉ lập duy nhất một tờ khai. Theo chế độ thuế GTGT như trình bày trên tờ khai
quá phức tạp, xác định thuế cũng phức tạp hơn thuế doanh thu do phải xác định cả
đầu vào, đầu ra...
- Nâng cao trình độ nhận thức, năng lực làm việc và đạo đức của cán bộ cơ
quan Nhà nước, đặc biệt cần giáo dục để cán bộ các ngành các cấp nhận thức và
quan tâm đúng mức đối với khu vực kinh tế NQD thực hiện nghiêm túc những chủ
trương, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế NQD.


Cùng với sự đổi mới nhận thức về kinh tế và phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, cho thấy có một bộ phận khơng nhỏ cán bộ các cơ quan quản lý
Nhà nước không đủ năng lực, không đủ phẩm chất chính trị đã gây cản trở cho việc
phát triển kinh tế nói chung và kinh tế NQD nói riêng. Tình trạng cán bộ các cơ
quan quản lý Nhà nước lợi dụng chức quyền gây phiền hà cho cơ sở kinh doanh
thậm chí địi hối lộ đang diễn ra tương đối phổ biến.
Trong quản lý thu thuế nhiều cán bộ thuế khơng nhận thức đầy đủ mục đích
tác dụng của chính sách thuế, khơng nắm vững được chun mơn nghiệp vụ thuế,
quy trình quản lý thuế, nên trong giải quyết cơng việc thường khơng đúng, nhiều
trường hợp cịn giảI quyết sai gây thiệt hại cho cơ sở kinh doanh. Khơng ít trường
hợp lợi dụng chức quyền gây ra tiêu cực.
6. Về quản lý đối tượng nộp thuế
Phải rà sốt lại cả các đối tượng có thực tế sản xuất kinh doanh trên địa bàn
để đưa vào quản lý thu thuế.
- Đối với các doanh nghiệp:

Đối chiếu số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh với số doanh
nghiệp đã được cấp mã số thuế, số doanh nghiệp kê khai nộp thuế trên cơ sở đó
thống kê những doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không đăng
ký thuế, không xin cấp mã số thuế, số doanh nghiệp đã có mã số thuế nhưng từ đầu
năm đến nay không hoạt động, không kê khai nộp thuế, từ đó phối hợp với các
ngành ở địa phương và Chi cục thuế quận huyện tổ chức kiểm tra phát hiện những
doanh nghiệp có kinh doanh nhưng khơng xin cấp mã số, không kê khai nộp thuế.
Tiến hành xử phạt vi phạm hành chính và ấn định thuế GTGT, thuế TNDN để thu
những tháng không kê khai. Đối với những doanh nghiệp qua kiểm tra không tồn
tại hoặc ngừng hoạt động thì đề nghị sở Kế hoạch Đầu tư thơng báo công khai và
thực hiện thu hồi đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp di chuyển địa


điểm nhưng không khai báo phải phạt vi phạm hành chính và ấn định số thuế
những tháng khơng kê khai, yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay thuế vào ngân sách.
- Đối với hộ kinh doanh cá thể.
Đối chiếu số hộ lập bộ môn bài, số hộ lập bộ thuế GTGT, thuế TNDN với số
hộ điều tra thống kê, xác định số hộ chưa quản lý đồng thời tổ chức điều tra doanh
thu, thu nhập của những hộ này để đưa vào bộ thu thuế môn bài, thuế GTGT, thuế
TNDN nếu thu nhập kinh doanh lớn hơn thu nhập được miễn thuế.
Cục thuế chỉ đạo từng Chi cục thuế, đội Thuế phải tự kiểm tra rà soát địa bàn
nào qua kiểm tra lại vẫn còn thất thu về hộ phải kiểm điểm trách nhiệm của lãnh
đạo Chi cục, lãnh đạo đội Thuế.
7. Về quản lý doanh thu nộp thuế
7.1 Đối với doanh nghiệp NQD
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh nghiệp
NQD đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100% doanh
nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế theo
quy định.
Kết hợp kiểm tra kê khai nộp thuế, kiểm tra quyết tốn thuế, kiểm tra hồn

thuế với kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ phát hiện và xử
lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ những
doanh nghiệp khai khống giá mua hàng, bán hàng khơng lập hố đơn, chứng từ
hoặc lập hoá đơn nhưng ghi thấp hơn giá thực tế thanh tốn nhằm mục đích trốn
lậu thuế. Nếu kiểm tra phát hiện các vi phạm trên phải kiên quyết áp dụng biện
pháp ấn định giá để tính thuế.
- Khẩn trương kiểm tra báo cáo quyết toán thuế của các doanh nghiệp, qua
kiểm tra nếu phát hiện thu thiếu thì ra thơng báo u cầu doanh nghiệp nộp ngay số
phát sinh thêm vào ngân sách, đồng thời đối chiếu số phát sinh về thuế TNDN năm


2000 so với kê khai tạm nộp thuế TNDN năm 2001, nếu số kê khai tạm nộp năm
2001 thấp hơn so với doanh thu và thuế TNDN năm 2000 thì yêu cầu điều chỉnh lại
cho phù hợp với kết quả kinh doanh 6 tháng và kết quả kiểm tra quyết toán thuế.
- Qua kiểm tra quyết toán thuế và kiểm tra kê khai nộp thuế, nếu thấy
doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai khơng trung thực hoặc có nghi vấn trốn lâu thuế
thì báo cáo lãnh đạo cục thuế tiến hành kiểm tra thực tế hoặc xác minh hoá đơn,
nếu phát hiện vi phạm thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử phạt vi phạm hành
chính, truy thu thuế hoặc ấn định mức thuế phải nộp cao hơn mức thuế đã kê khai.
- Đối với các doanh nghiệp Cục Thuế đã phân cấp cho Chi cục Thuế quản
lý, yêu cầu các Chi cục Thuế phải trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra doanh nghiệp
thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ và kê khai nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ. Nghiêm cấm không được áp dụng thu thuế khoán. Trường hợp doanh
nghiệp vi phạm chế độ kế toán hoá đơn chứng từ, vi phạm chế độ kê khai phải phạt
vi phạm hành chính và ấn định mức thuế phải nộp.
- Thực hiện kiểm tra hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp đã được
hoàn thuế. Trước mắt là những doanh nghiệp có số thuế đã hồn lớn hoặc có dấu
hiệu vi phạm.
7.2 Đối với hộ kinh doanh cá thể
- Đối với hộ kinh doanh lớn:

Yêu cầu Cục thuế chỉ đạo các Chi cục Thuế phải thống kê, phân loại và triển
khai chế độ kế toán bắt buộc với tất cả các hộ kinh doanh lớn theo đúng chỉ thị số
03/2000/CT-BTC ngày 10/4/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc đẩy mạnh
triển khai chế độ kế tốn áp dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh công thương
nghiệp và dịch vụ NQD. Quyết định số 169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ kế tốn hộ kinh doanh và cơng văn số
1210 TCT/NV6 ngày 11/4/2001 của Tổng cục Thuế về tăng cường thực hiện chế


độ kế tốn hộ kinh doanh. Để có căn cứ xét thành tích thi đua năm 2001, Tổng cục
Thuế giao chỉ tiêu số hộ phải triển khai cho từng địa phương.
Yêu cầu cục Thuế địa phương:
+ Căn cứ chỉ tiêu Tổng cục giao phân bổ cho các Chi cục và chỉ đạo các
Chi cục Thuế căn cứ chỉ tiêu số hộ được giao, số hộ triển khai, xác định cụ thể số
hộ cịn phải thực hiện chế độ kế tốn để hoàn thành chỉ tiêu. Chi cục thuế căn cứ
vào chỉ tiêu Cục giao phân cho từng đội Thuế thực hiện ngay, đồng thời chỉ đạo
Chi cục thuế, đội thuế lựa chọn xác định những hộ kinh doanh, những ngành nghề
kinh doanh thuộc diện phải mở đầy đủ hệ thống sổ sách kế toán, những hộ kinh
doanh, ngành nghề kinh doanh, trước mắt chỉ cần mở sổ nhật ký bán hàng cho phù
hợp trình độ của người kinh doanh và phù hợp yêu cầu quản lý của cơ quan Thuế.
Tổ chức xét duyệt cho hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
chặt chẽ, tránh lợi dụng.
+ Tổ chức kiểm tra việc ghi chép sổ kế toán, phát hiện kịp thời những
vướng mắc để hướng dẫn, giúp đỡ hộ kinh doanh yên tâm thực hiện chế độ kế toán
và hạch toán trung thực. Đối với những hộ kinh doanh đã thực hiện hướng dẫn
nhưng cố tình khơng thực hiện hoặc cố tình hạch tốn, lập hố đơn, chứng từ
không trung thực với thực tế phát sinh nhằm trốn thuế thì phải lập biên bản xử phạt
vi phạm hành chính, nếu vẫn tái phạm thì ấn định doanh thu, thuế, mức ấn định
phải bằng hoặc cao hơn so với hộ kinh doanh thực hiện không đúng chế độ kế toán,
hoá đơn chứng từ, kê khai doanh thu hoặc kê khai thuế GTGT đầu ra, đầu vào

trung thực để động viên các hộ kinh doanh thực hiện đúng chế độ kế tốn và hộ
kinh doanh thấy được lợi ích thực tế, không tái phạm.
+ Tổ chức kiểm tra chặt chẽ tờ khai nộp thuế của các hộ kinh doanh. Đối
với những hộ kinh doanh kê khai doanh thu, mức thuế thấp (nếu tính thuế theo
phương pháp trực tiếp) hoặc kê khai số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra (đối
với hộ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) phải tổ chức kiểm tra, xác minh ngay


để tính trung thực của tờ khai, phát hiện và xử lý ngay nếu hộ kinh doanh vi phạm,
không để hộ kinh doanh lợi dụng triển khai chế độ kế toán làm thất thu thuế nhiều
hơn.
+ Để thúc đẩy các Chi cục Thuế thường xuyên quan tâm triển khai kế
toán hộ kinh doanh và nâng cao trách nhiệm của cán bộ thuế, Cục thuế phải phân
công cán bộ trực tiếp theo dõi năm tình hình triển khai, phản ánh kịp thời tiến độ,
kết quả triển khai, những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai. Đồng
thời định kỳ tổ chức kiểm tra thực tế việc triển khai kế toán hộ kinh doanh tại các
Chi cục thuế. Qua kiểm tra tình hình thực tế, kết hợp ý kiến phản ánh của cán bộ
được phân công trực tiếp theo dõi tại Chi cục thuế, phát hiện nhanh những nhân tố
tích cực để phổ biến, nhân rộng và có ý kiến chỉ đạo kịp thời, khắc phục thiếu sót
trong việc triển khai kế toán hộ kinh doanh để thực hiện tốt hơn. Đối với những
Chi cục thuế làm chưa tốt cần phê bình và yêu cầu chấn chỉnh ngay trong thời gian
tới.
+ Triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh nhằm đưa công tác quản lý
thu thuế vào nề nếp theo kết quả kinh doanh phản ánh trên sổ sách kế tốn là cơng
việc trọng tâm trong cơng tác quản lý hộ kinh doanh cá thể năm 2001 là căn cứ để
xét thi đua, khen thưởng, vì vậy Cục thuế phải chỉ đạo từng Chi cục thuế triển khai
hoàn thành chỉ tiêu Tổng cục giao (theo biểu đính kèm).
- Đối với hộ thu khoán:
Tổng cục đã chỉ đạo các Cục thuế phải xác định lại doanh thu đối với các hộ
khoán 6 tháng cuối năm. Đề nghị cục Thuế kiểm tra ngay các Chi cục. Đối với

những Chi cục chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phải xác
định lại cho phù hợp với mức độ tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất kinh
doanh.


Quá trình điều tra, xác định lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khốn phải
làm đúng quy trình, thực hiện công khai và không được điều chỉnh đồng loạt theo
kiểu bình quân.


8. Về quy trình quản lý thu thuế
Chỉ đạo các đơn vị thu thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các biện pháp, quy trình
quản lý đã đề ra: như quy trình quản lý doanh thu đối với hộ khốn, quy trình quản
lý doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, quy trình cấp mã số thuế,
quy trình thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, các biện pháp duyệt bộ tổng hợp,
chống thất thu qua kiểm tra việc lập hoá đơn phát hiện và xử lý các trường hợp lập
hoá đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán đối với một số ngành nghề, mặt hàng, xử
phạt các cơ sở kinh doanh vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ... quy trình
thu nộp thuế, quy trình quản lý hoá đơn chứng từ...:
Một là: phải rà soát lại các văn bản pháp luật thuế hiện hành để có những bổ
sung, điều chỉnh trong phần hướng dẫn thủ tục nộp thuế. Yêu cầu các doanh nghiệp
có trách nhiệm chủ động nộp đầy đủ số thuế phải nộp đã kê khai vào kho bạc nhà
nước trong thời hạn quy định của luật thuế, thay cho việc doanh nghiệp nộp theo
thông báo thuế của cơ quan thuế. Cơ quan thuế chỉ ra thông báo nộp thuế trong
một số trường hợp đặc iệt như: thông báo ấn định thuế, thông báo chậm nộp thuế
và xử lý nộp chậm. Để thực hiện được vấn đề như trên cần phải cải tiến lại mẫu các
tờ khai thuế. Hiện nay ở mỗi tờ khai thuế đều có phần cam kết của doanh nghiệp ở
phía dưới tờ khai: “Xin cam đoan số liệu kê khia trên là đúng, nếu sai xin chịu
trách nhiệm xử lý theo pháp luật”. Phần cam kết trên mới chỉ cam kết số liệu kê
khia mà chưa gắn việc kê khai nộp thuế của doanh nghiệp, vậy nên sửa lại là: “Xin

cam đoan số liệu kê khai trên là đúng, doanh nghiệp cam kết sẽ nộp đầy đủ, đúng
hạn số thuế kê khai trên vào kho bạc nhà nước. Nếu kê khai sai hoặc chậm nộp, xin
chịu trách nhiệm xử lý theo pháp luật”. Với dòng cam kết này, các doanh nghiệp sẽ
tự ý thức được trách nhiệm của họ trước pháp luật trong việc kê khai và nộp thuế,
không trông chờ vào thông báo nộp thuế của cơ quan thuế.


Hai là: Nên bỏ chương trình tính lại thuế trên máy vi tính như hiện nay,
những sai sót trên tờ khai thuế như: kê khai thuế chỉ tiêu, kê khai sai thuế ssuất,
hoặc sai số về tính tốn số học... sẽ được phịng quản lý thu kiểm tra, kiểm sốt,
u cầu doanh nghiệp điều chỉnh hoặc kiểm tra xử lý theo đúng trình tự của quy
trình và quy định của luật thuế. Có như vậy, mới thực sự tơn trọng số liệu tự kê
khai của doanh nghiệp.
Ba là: theo quy định hiện hành, thì chậm nhất trong vịng 60 ngày, kể từ khi
kết thúc năm tài chính, các doanh nghiệp phải lập và gửi các tờ quyết toán thuế:
dẫn đến việc lập, gửi các tờ quyết toán thuế của các doanh nghiệp đến cơ quan thuế
cũng như việc thu thập và xử lý thông tin của cơ quan thuế từ các tờ quyết toán
thuế diễn ra rất rời rạc, thiếu khoa học, thậm chí nhiều doanh nghiệp gửi các tờ
quyết tốn thuế khơng đầy đủ, khơng đồng nhất. Để đơn giản trong việc lập báo
cáo quyết toán thuế, vừa để đảm bảo yêu cầu của các luật thuế, nên quy định thống
nhất các doanh nghiệp chỉ phải lập một báo cáo quyết toán thuế. Trong báo cáo
quyết toán thuế phải nêu được đầy đủ 3 nội dung: chi tiết quyết tốn từng loại thuế.
Tổng hợp tình hình thanh tốn với ngân sách nhà nước, phản ánh tổng hợp số thuế
nộp đầu kỳ, phát sinh trong kỳ, nộp trong kỳ, miễn giảm trong kỳ và tồn đọng cuối
kỳ của tất cả các loại thuế. Phần thuyết minh báo cáo phản ánh nguyên nhân chênh
lệch giữa tổng hợp tờ khai thuế 12 tháng với quyết toán thuế của từng loại thuế,
nguyên nhân của nợ đọng thuế.
9. Tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn thu, những ngành nghề và lĩnh vực
còn đang thất thu nhiều
Thời gian qua, do tập trung vào triển khai các luật thuế mới, các địa phương

ít quan tâm chỉ đạo tăng cường quản lý và chống thất thu thuế đối với khu vực kinh
tế NQD. Trước mắt tập trung giải quyết nợ đọng thuế của doanh nghiệp và các hộ
kinh doanh lớn vẫn đang hoạt động. Đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn


còn nợ đọng thuế nhưng vẫn hoạt động mà cục Thuế đã đôn đốc, đã phạt nộp chậm
vãn không nộp thuế thì ra lệnh phong toả tài khoản hoặc lập hồ sơ đề nghị các
ngành chức năng can thiệp.
Đối với hộ kinh doanh vừa và nhỏ chủ yếu dùng biện pháp phối hợp hội
đồng tư vấn vận động hộ kinh doanh nộp thuế còn nợ đọng để thúc đẩy thu nhanh
gọn số thuế phát sinh. Cục thuế, Chi cục Thuế giao chỉ tiêu phấn đấu cho từng đơn
vị phải thu dóc số thuế phát sinh, khơng để số thuế nợ đọng phát sinh thêm.
Đồng thời Cục thuế cần quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm và kỷ luật lao
động cho cán bộ thuế, đồng thời tăng cường kiểm tra thúc đẩy các Chi cục Thuế,
đội thuế, cán bộ thuế thực hiện nghiêm túc các quy trình biện pháp nghiệp vụ và
những nội dung Tổng cục Thuế tập trung chỉ đạo.
- Đối với những hộ kinh doanh xe gắn máy, đồ điện tử, điện lạnh... tăng
cường kiểm tra xác minh đối chiếu hoá đơn, chứng từ đối với các cơ sở kinh doanh
các mặt hàng này vì đang bị lợi dụng lập hố đơn khơng đúng thực tế thanh tốn.
Phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá
niêm yết, nếu kiểm tra phát hiện thu tiền nhưng khơn lập hố đơn hoặc lập hố đơn
khơn đúng giá thanh tốn thì căn cứ vào giá niêm yết để ấn định doanh thu, đối với
những cơ sở không niêm yết giá tuỳ theo đặc điểm cụ thể, cục Thế kết hợp với các
ngành xây dựng bảng giá tối thiểu làm căn cứ để cơ quan thuế áp giá tính thuế, áp
giá tính chi phí kiểm tra phá hiện có lợi dụng.
Qua kiểm tra xác minh, nếu phát hiện có vi phạm, lập hố đơn khơn đúng
phải kiên quyết bác bỏ số liệu kê khai của các hộ, thực hiện ấn định thuế theo
hướng dẫn tại công văn 740 ngày 23/3/2001 của Tổng cục Thuế.
+ Đối với hoạt động vận tải: Từng đội Thuế phải phối hợp hội đồng tư
vấn rà soát tại địa bàn, đồng thời kết hợp với Cảnh sát Giao thơng, Cơ quan đăng

ký để rà sốt nắm số lượng phương tiện có hoạt động kinh doanh, đối chiếu với số
phương tiện đã được các cơ sở kê khai, phương tiện các chủ phươn tiện đang kinh


doanh nhưng không khai báo nộp thuế để đưa vào diện quản lý. Đối với các
phương tiện vận tải đã kinh doanh không khai nộp thuế phải xử phạt hành chính và
truy thu thuế từ tháng bắt đầu kinh doanh.
+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải phải kiểm tra chặt chẽ
phương thức quản lý, phương thức hạch toán kế toán, kiểm tra việc đăng ký, sử
dụng vé, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp thu tiền của khách hàng nhưng
không xuất vé. Đối với các HTX dịch vụ vận tải: Nếu HTX có cung ứng dịch vụ
cho xã viên thì phải kê khai nộp thuế GTGT và thuế TNDN tính trên tiền cơng dịch
vụ HTX thu về. Các xã viên nhận khoán phải kê khai nộp thuế trên doanh thu nhận
khoán, để thuận tiện chi cục Thuế có thể bàn với các HTX đứng ra kê khai và nộp
thuế thay cho từng xã viên.
+ Đối với các doanh nghiệp vận tải có mở các đại diện ở các địa phương
khác, cần phải phối hợp với các cơ quan Thuế nơi mở đại diện để cùng kiểm tra,
giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Xem xét lại doanh thu, mức thuế ấn định đối với các phương tiện vận
tải tư nhân, đảm bảo sự cơng bằng và bình đẳng giữa các hộ kinh doanh vận tải tư
nhân với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải.
+ Đối với hoạt động xây dựng tư nhân: Yêu cầu đội Thuế có trách nhiệm
phối hợp hội đồng tư vấn, Thanh tra Xây dựng kiểm tra báo cáo đầy đủ các cơng
trình đang xây dựng trê địa bàn phường, xã để phối hợp với các Chi cục Thuế và
các phòng quản lý của cục Thuế quản lý hết các cơng trình xây dựng phát sinh trên
địa bàn. Đối với các cơng trình do doanh nghiệp ký kết hợp đồng xây dựng thi
cơng thì thơng báo ngay cho phòng quản lý biết để kiểm tra đối chiếu, phát hiện lợi
dụng. Đối với các cơng trình xây dựng do tư nhân thi cơng thì u cầu người nhận
thầu phải kê khai tạm nộp thuế theo tiến độ thi công, trường hợp chủ nhà thông
đồng với chủ thi công nhận là tự xây nhà để trốn thuế thì đề nghị hội đồng tư vấn



×