Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

phương pháp kế toán. ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.32 KB, 18 trang )


phương pháp kế toán.

Các phương pháp kế toán là công cụ quan trọng của kế toán
nhằm thu nhập, xử lý, kiểm tả,phân tích và thông tin kinh tế tài
chính của đơn vị cho các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, trong
các tài liệu phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu kế toán hiện nay
lại không thống nhất về tên gọi, cách hiểu các phương pháp này.
Sự không thống nhất đó tuy không làm ảnh hưởng đến chất
lượng thông tin kế toán cung cấp nhưng có ảnh hưởng đến tư
duy, nhận thức của người làm kế toán. Và lớn hơn nữa nó thể
hiện sự phát triển của khoa học kế toán Việt Nam chưa cao.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến một phần nhỏ
sự không đồng nhất đó là số lượng, khái niệm các phương pháp
kế toán.
Các phương án kế toán là một nội dung quan trọng trong
chương trình môn học Nguyên lý kế toán. Xác định đúng các
phương pháp kế toán là cơ sở, tiền đề giúp sinh viên khối ngành
kinh tế có thể tiếp cận, hiểu và vận dụng cũng như thực hiện
được công tác kế toán. Chúng ta biết rằng Nguyên lý kế toán là
môn học bắt buộc trong chương trình khung của Bộ Giáo dục và
Đào tạo cho khối ngàng kinh tế. Tuy nhiên trong mô tả môn học
này của Bộ chỉ đưa ra nội dung rất chung là: “Học phần cung cấp
những kiến thức cơ bản về lý thuyết kế toán: Khái niệm, bản chất
kế toán; Các phương pháp kế toán”. Trong khi đó giáo trình môn
học này của các trường Đại học kinh tế Việt Nam lại có nhiều
điểm khác nhau.
Các trường Đại học ở miền Bắc như Đại học Thương mại, Học
viện Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng có bốn phương
pháp kế toán là: Chứng từ kế toán, Tài khoản kế toán (Đối ứng tài
khoản-Đại học kinh tế quốc dân), Tính giá và Tổng hợp cân đối


kế toán. Trong khi đó, các Trường Đại học Kinh tế Thành phố
HCM, Đại học Quốc gia Tp HCM, Đaih học Ngân hàng TP HCM,
Viện Kế toán và Quản trị doanh nghiệp và một số sách tham khảo
về Nguyên lý kế toán đưa ra 6 phương pháp là Chứng từ kế toán,
Kiểm toán, Tài khoản kế toán, Ghi sổ kép, Tính giá và Tổng hợp
cân đối kế toán. Sự khác nhau trong các giáo trình nguyên lý kế
toán không chỉ về số lượng các phương pháp mà cả về khái
niệm, nội dung các phương pháp. Những quan điểm khác nhau
đó đã tạo nên sự thiếu thống nhất trong giảng dạy cũng như
không đảm bảo tính khoa học của môn học. trong khi chúng ta
chưa có một giáo trình Nguyên lý kế toán chung trong cả nước thì
việc nghiên cứu, trao đổi các phương pháp kế toán là việc làm
cần thiết để có thể làm rõ hơn cơ sở khoa học, bản chất, nội
dung các phương pháp. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ
đề cập đến số lượng và khái niệm các phương pháp kế toán như
sau:
Thứ nhất: Về số lượng các phương pháp kiểm toán.
Theo điều 4 của Luật Kế toán Việt Nam: “Kế toán là việc thu thập,
xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính
dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.” Đồng thời
chúng ta cũng biết rằng kế toán là một môn khoa học độc lập
trong hệ thống các môn khoa học kinh tế, do đó kế toán cần có
một hệ thống các nguyên tắc vận dụng những nguyên lý, lý luận
phản ánh hiện thực khách quan nhăm chỉ huy hoạt động nhận
thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người”. Đối tượng
của kế toán là tài sản và các hoạt động kinh tế, tài chính (sự vận
động của tài sản). Kế toán cần phản ánh được các đối tượng đó
bằng hệ thống các nguyên tắc nhất định. Đó chính là các cách
thức được sử dụng để thu hập thông tin (chứng từ kế toán), xử
lý,


phương pháp kế toán.

kiểm tra, phân tích thông tin (tài khoản kế toán, tính giá) và cung
cấp thông tin (tổng hợp- cân đối kế toán).
Với hai phương pháp còn lại như quan điểm của các trường phía
Nam, theo chúng tôi:
Kiểm kê chỉ là việc kiểm tra thực tế tài sản thông qua việc cân,
đong, đếm, kiểm nhận, đối chiếu nhằm xác định số lượng và giá
trị có thật của tài sản tại đơn vị. kiểm kê do kế toán, người quản
lý tài sản và một số đối tượng khác có liên quan tham gia. Công
việc kiểm kê chỉ nhằm xác minh tài sản và giúp kế toán phản ánh
đúng tài sản của đơn vị mà không phải là sự vận dụng lý luận để
phản ánh tài sản, hay nói cách khác không phải là cách thức vận
dụng lý luận để nghiên cứu đối tượng kế toán. Vậy kiểm kê không
phải là phương pháp mà thực chất chỉ là một công cụ hỗ trợ thêm
cho kế toán, giúp kế toán cung cấp được thông tin trung thực.
Ghi sổ kép: Theo quan kiểm của kế toán Mỹ,Anh thì phương
pháp kế toán chỉ là ghi sổ kép còn chứng từ kế toán, tài khoản kế
toán và báo cáo kế toán là công cụ của kế toán.Nhưng như quan
điểm đã trình bày ở trên thì Tài khoản kế toán là một phương
pháp kế toán, để ghi chép được nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào
tài khaonr cần tổ chức các tài khgoanr và sử dụng một trong số
các cách thức là sổ ghi kép. Vậy đây chỉ là một bộ phận của
phương pháp Tài khoản mà không phải là một phương pháp độc
lạp của kế toán.
Vì vậy, số lượng các phương pháp cần xác định như trong giáo
trình các trường đại học khu vực miền Bắc. Điều đó có nghĩa là
kế toán chỉ có 4 mà không phải 6 phương pháp.
Thứ hai: Về khái niệm các phương pháp kế toán.

Hiện nay, hầu hết mỗi giáo trình Nguyên lý kế toán lại có một khái
niệm khác nhau về từng phương pháp kế toán. Sự khác nhau đó
sẽ dẫn đến việc hiểu không đúng về khoa học này. Chúng tôi xét
lần lượt từng phương pháp:
Phương pháp chứng từ kế toán: Phương pháp này được sử
dụng nhằm mục đích thu thập thông tin về các nghiệp vụ kinh tế,
tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành. Nhờ đó phương
pháp chứng từ kế toán có thể phản ánh các đối tượng kế toán ở
trạng thái động (theo các xu hướng tăng hoặc giảm). Phương
pháp chứng từ kế toán vừa thể hiện tính chất pháp lý của các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh vừa chứa đựng và thông tin về các
nghiệp vụ kinh tế cụ thể. Vì vậy theo chúng tôi giáo trình Lý thuyết
hạch toán kế toán của trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng:
“Chứng từ là phương pháp thông tin và kiểm tra về trạng thái và
sự biến động của đối tượng hạch toán kế toán cụ thể nhằm phục
vụ kịp thời cho lãnh đạo nghiệp vụ và làm căn cứ phận loại, ghi
sổ và tổng hợp kế toán” là không hoàn toàn thích hợp. Phương
pháp chứng từ kế toán không thể phản ánh “trạng thái” của đối
tượng kế toán vẫn được hiểu ở dạng “tĩnh”. Còn nếu theo giáo
trình Nguyên lý kế toán của Đại học Ngân hàng TP HCM thì:
“Chứng từ kế toán là phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình
thành của các nghiệp vụ kinh tế, tài chính cụ thể” sẽ không chính
xác và đầy đủ. Trên thực tế người lập chứng từ kế toán thường là
người thực hiện hay giám sát việc thực hiện nghiệp vụ nên có thể
kiểm tra sự hình thành của các nghiệp vụ kinh tế. Nhưng chứng
từ kế toán chỉ được lập khi nghiệp vụ đã xảy ra và đã hoàn thành
nên không thể thông tin về “sưh hình thành” nghiệp vụ. Mặt khác,
sau khi phản ánh nghiệp vụ kinh tế vào chứng từ đơn vị còn phải
tổ chức luân phiên chứng từ đến các bộ phận có liên quan để sử
lý thông tin nên các khái niệm trên chưa thể hiện được nội dung

này.
Vậy phương pháp chứng từ kế toán cần được hiểu là phương
pháp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thực sự hoàn
thành theo thời gian và địa điểm phát sinh vào chứng từ kế toán
và tổ chức quản lý, luân chuyển chứng từ phục vụ công tác quản
lý và ghi sổ kế toán.
Phương pháp tài khoản kế toán. Phương pháp này được sử
dụng nhằm phản ánh tình hình và sự biến động của từng đối
tượng kế toán. Hay nói cách khác tài khoản kế toán phản ánh đối
tượng kế toán ở cả trạng thái tĩnh và trạng thái động. Nếu hiểu
phương pháp này theo khái niệm của Trường Đại học Quốc gia
TP HCM thì: “Là phương pháp so sánh thông tin và kiểm tra quá
trình vận động của từng đối tượng kế toán khi nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong mối tương quan tác động qua lại giữa các đối
tượng này”. Theo chúng tôi, phương pháp tài khoản không chỉ
cung cấp thông tin về quá trình vận động của đối tượng kế toán
theo các mặt đối lập mà còn có cả thông tin về tình hình đối
tượng kế toán ở đầu, cuối kỳ kế toán trong khi khái niệm này chỉ
đề cập đến sự vận động của đối tượng kế toán là không đầy đủ.
Mặt khác trong khái niệm tài khoản kết toán không thống nhất
phải đề cập đến mối quan hệ tác động qua lại trong mỗi nghiệp
vụ kinh tế phát sinh kế toán phải thể hiện được mối quan hệ đó
thông qua việc sử dụng cách thức ghi kép- một phương pháp ghi
chép trên tài khoản kế toán. Theo Viện Kế toán và Quản trị doanh
nghiệp thì: “Tài khoản là phương pháp phản ánh nghiệp vụ kinh
tế phát sinh theo yêu cầu phản ánh và giám đốc một cách thường
xuyên, liện tục và có hệ thống số hiện có và tình hình biến động
của từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn cũng như quá trình
hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp”. Khái niệm này mặc dù
đã thể hiện được đặc điểm của thông tin cung cấp là “thương

xuyên, liên tục” nhưng tính khái quát không cao, vì tài sản, nguồn
vốn và quá trình hoạt động chính là đối tượng kế toán.Mặt khác,
do nhiều đối tượng kế toán nên có thể phản ánh và cung cấp
thông tin vừa tổng hợp vừa chi tiết các đối tượng này thì phương
pháp tài khoản cần phải phân loại các đối tượng kế toán và mở
rộng cho mỗi đối tượng một tài khoản. Rõ ràng là các khái niệm
trên đã không thể hiện được đặc điểm này của phương pháp tài
khoản.
Vậy theo chúng tôi phương pháp tài khoản kế toán là phương
pháp kế toán phận loại để phản ánh và kiểm tra một cách thường
xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình và sự vận động của từng
đối tượng kế toán.
Phương pháp tính giá: là phương pháp được sử dụng nhằm xác
định và ghi nhận được giá trị của các loại tài sản khác nhau về
các chủng loại, hình thái vật chất, nguồn hình thành. Vì vậy trong
tính giá phải sử dụng thước đo giá trị. Giá trị của tài sản được
xác định trên cơ sở các khoản chi phí trực tiếp hình thành nên tài
sản đó nên kế toán cần tổng hợp các khoản chi. Mặt khác, để
đảm bảo tính thống nhất trong hạch toán thì việc tính giá các tài
sản giống nhau trong các đơn vị khác nhau, ở các thời điểm khác
nhau phải theo phương pháp, nguyên tắc giống nhau. Với quan
điểm này, theo chúng tôi nếu coi phương pháp tính gía là:
“Phương pháp thông tin và kiểm tra về sự hình thành và phát sinh
chi phí có liên quan đến từng loại vật tư, sản phẩm, hàng hóa và
dịch vụ” như giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán của trường
Đại học Kinh tế Quốc dân hay Viện kế toán và Quản trị doanh
nghiệp là “Phương pháp kế toán biểu hiện giá trị các đối tượng kế
toán bằng tiền phù hợp với các nguyên tắc cũng như các qui định
cụ thể do Nhà nước ban hành” sẽ không thể hiện được đầy đủ
đặc trưng của phương pháp.

Theo chúng tôi pháp tính giá là phương pháp sử dụng
thước đo giá trị tổng hợp và phân phối chi phí để xác định
giá trị tài sản trong các đơn vị kế toán theo những nguyên
tắc nhất định.
Phương pháp tổng hợp-cân đối kế toán: là phương pháp được
sử dụng nhằm cung cấp các thông ti khái quát, tổng hợp về các
đối tượng kế toán theo bản chất và các mối quan hệ cân đối vốn
có của kế toán. Nếu theo khái niệm trong giáo trình của Đại học
Quốc gia TP HCM: “Là phương pháp đánh giá khái quát tình hình
tài sản và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp theo từng thời kì
nhất định” chúng ta sẽ hiểu phương pháp này dùng để lập báo
cáo kế toán định kì. Xét về lý luận cũng như trong thực tiễn thì
phương pháp tổng hợp-cân đối kế hoạch không những dùng để
lập các báo cáo nội bộ phục vụ cho công tác quản trị doanh
nghiệp.
Ngoài ra, sử dụng cụm từ “đánh giá” cho phương pháp này
không hợp lý, vì với nội dung các bản tổng hợp cân đối mà đơn vị
kế toán bắt buộc hay tự nguyện lập chứa đựng rất ít thông tin có
tính chất đánh giá của người lập, công việc này thường do người
nhận và sử dụng thông tin đảm nhiệm theo sự phân công công
việc trong đơn vị. Theo sách Nguyên lý kế toán của Bộ môn
Nguyên lý kế toán của trường Đại học Kinh tế TP HCM thì khái
niệm phương pháp này rất đơn giản, chỉ là: “Là phương pháp của
kế toán được thực hiện thông qua việc lập báo cáo kế toán”. Đây
thực chất là hiểu về phương pháp này chứ không thể coi là khái
niệm. Còn nếu xét theo khái niệm của Đại học Thương mại, Học
viện Tài chính thì phương pháp tổng hợp cân đối kế toán là:
“phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán” theo chúng tôi
tuy đúng nhưng không đảm bảo sự thống nhất trong trình bày
khái niệm các phương pháp kế toán. Cả 3 phương pháp trên đều

không đề cập cụ thể đến nguồn cung cấp thông tin cụ thể, vậy
nên chăng chúng ta cũng không đề cập đến vấn đề này trong
khái niệm của phương pháp cuối cùng.
Theo chúng tôi phương pháp tổng hợp-cân đối kế toán là
phương pháp tổng hợp thông tin theo các mối quan hệ cân đối
vốn có cúa kế hoạch và cung cấp các thông tin theo các chủ tiêu
kinh tế-tài chính về tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị nhằm phục vụ công tác quản lý.
Các cách thức thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin của kế
toán vừa thể hiện tính khách quan của khoa học kế toán lại vừa
thể hiện tính chủ quan của người sử dụng. Đồng thời những
phương pháp này có mối quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau,
thể hiện sự liên hệ xâu chuỗi trong chu kỳ kế toán và phù hợp với
cơ sở biện chứng của quá trình nhận thức từ đơn giản đến phức
tạp, từ chi tiết đến tổng hợp:
Trên đây là một số ý kiến về các phương pháp kế toán nhằm
đóng góp một phần nhỏ vào sự nghiệp phát triển của ké toán. Hy
vọng trong thời gian tới Bộ giáo dục và Đào tạo có chính sách
thích hợp để có thể tập hợp được các chuyên gia hàng đầu về kế
toán ở Việt Nam biên soạn một giáo trình chuẩn của môn học
Nguyên lý kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vững
chắc của khoa học kế toán nói chung.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×