Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Thực trạng chất lượng kiểm toán và tiến độ thực hiện pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.03 KB, 15 trang )

Thực trạng chất lượng kiểm toán
và tiến độ thực hiện kiểm toán
hiện nay của KTNN
Th
ực trạng chất l
ư
ợng kiểm toán của KTNN

Điều 13 Luật KTNN quy định “KTNN là cơ quan chuyên môn về
lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, “Hoạt động kiểm toán
nhà nước phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong
quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần
thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát
hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả
sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước”. Đứng trư
ớc những
thách thức và các nhiệm vụ nặng nề như trên, đòi hỏi chất lượng
kiểm toán ngày càng phải được nâng lên. Để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của ngành kể từ khi Luật KTNN được thông qua,
lãnh đạo KTNN đã ban hành hàng loạt các văn bản chỉ đạo nhằm
không ngừng đưa hoạt động của ngành đi vào nề nếp, thông qua
đó góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán (như: Quyết định số
556/QĐ-KTNN ngày 11/7/2007 ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động của Đoàn KTNN; Quyết định số 2/2007/QĐ-KTNN
ngày 26/6/2007 ban hành Hệ thống Mẫu biểu Hồ sơ kiểm toán;
Quyết định số 3/2007/QĐ-KTNN ngày 26/7/2007 ban hành Quy
chế công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận,
kiến nghị của KTNN; Công văn số 574/KTNN-TH ngày 23/7/2007
về tăng cường kiểm soát chất lượng các cuộc kiểm toán…), nhờ
đó chất lượng kiểm toán năm 2007 ngày được nâng cao, cụ thể:



- Các đơn vị đã thường xuyên quan tâm, chỉ đạo có hiệu quả quá
trình xây dựng kế hoạch kiểm toán nên nhiều kế hoạch kiểm toán
có chất lượng tốt, bám sát được mục tiêu kiểm toán năm, thể
hiện khá rõ nét việc đổi mới cách thức tổ chức kiểm toán,
phương pháp kiểm toán, coi trọng và dành nhiều thời gian cho
kiểm toán tổng hợp, mở rộng mẫu kiểm toán, tập trung nhiều h
ơn
đến những vấn đề quản lý vĩ mô, cơ chế chính sách…
- Hội đồng cấp Vụ bước đầu phát huy tác dụng nên chất lượng
kiểm tra, soát xét báo cáo kiểm toán trước khi phát hành có sự
chuyển biến mạnh, giảm thiểu sai sót, góp phần đẩy nhanh tiến
độ phát hành (tính đến 29/2/2008, số lượng các báo cáo kiểm
toán đã phát hành bình quân là 68 ngày, giảm 9 ngày so với năm
2006)
- Đã phát hiện kiến nghị xử lý về tài chính trên 11.000 tỷ đồng
trong đó tăng thu NSNN trên 2.700 tỷ đồng; giảm chi NSNN trên
1.600 tỷ đồng…
Mặc dù chất lượng kiểm toán đã được nâng lên rõ rệt, đóng góp
tích cực vào việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý và sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, minh bạch hóa nền tài
chính quốc gia, song so với yêu cầu, nhiệm vụ được giao, nhất là
trong điều kiện thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Luật
KTNN, Luật Phòng chống tham nhũng và Luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, chất lượng kiểm toán của KTNN vẫn còn
nhiều hạn chế, được thể hiện qua một số nội dung sau:
(1) Khá nhiều kế hoạch kiểm toán tổng quát, chất lượng ch
ưa cao
và còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày
càng cao về chất lượng kiểm toán của KTNN.

(2) Báo cáo kiểm toán còn một số hạn chế so với yêu cầu và m
ục
tiêu kiểm toán đã đề ra, cụ thể:
- Về nội dung báo cáo: các báo cáo kiểm toán chưa đưa ra được
ý kiến đánh giá rõ ràng và toàn diện về tính trung th
ực, hợp lý của
các số liệu quyết toán của đơn vị được kiểm toán; Nhiều báo cáo
kiểm toán viết còn mang tính liệt kê, mô tả công việc của đơn vị
phải làm hoặc mô tả số báo cáo của đơn vị; một số báo cáo còn
đưa ra những kết luật thiếu bằng chứng thuyết phục…; Chưa
thực sự phát huy được vài trò là công cụ mạnh của Nhà nước
trong kiểm tra, giám sát các nguồn lực tài chính nhà nước và
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí…
- Về trình bày báo cáo: Nhiều báo cáo kiểm toán trình bày dài
dòng, liệt kê quá trình và kết quả thực hiện nhiệm vụ tài chính,
ngân sách của đơn vị, không có ý kiến đánh giá nhận xét của
đoàn kiểm toán…;
(3) Quy mô hoạt động kiểm toán của KTNN còn rất hạn chế so
với yêu cầu phải được kiểm toán hàng năm đối với các cơ quan
đơn vị quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước là r
ất
lớn, nhất là lĩnh vực kiểm toán ngân sách do đó phầnnào dh tới
chất lượng hoạt động của KTNN nói chung và chất lượng kiểm
toán nói riêng…;
(4) Việc triển khai kiểm tra và tổng hợp kết quả thực hiện kết luận
và kiến nghị kiểm toán còn chậm.
(5) Hoạt động kiểm toán chuyên đề mới bắt đầu tiếp cận và triển
khai ở quy mô nhỏ (nằm 2006 và 2007 mỗi năm mới triển khai
được 1 cuộc, năm 2008 theo kế hoạch thực hiện 2 cuộc), vì vậy
chưa có điều kiện đi sâu, giải đáp các vấn đề bức xúc, nhức nhối

trong dư luận xã hội về những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong
việc quản lý, sử dụng ngân sách, tiền, và tìa sản nhà nước, nhất
vấn đề thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng…
(6) Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các Đoàn kiểm
toán về thực hiện quy chế, quy trình…của KTNN, nhằm nâng cao
chất lượng kiểm toán chưa được thường xuyên, liên tục, chưa
tập trung vào các sản phẩm do KTV tạo ra (như các bằng chứng
kiểm toán, biên bản xác nhận số liệu kiểm toán, biên bản kiểm
toán…), mà chủ yếu vẫn là kiểm soát việc tuân thủ về hồ sơ mẫu
biểu kiểm toán…
Ti
ến độ thực hiện kiểm toán hiện nay của Kiểm toán nh
à
nước
Qua kết quả tổng hợp tiến độ kiểm toán năm 2007 cho thấy thời
gian phát hành bình quân 1 cuộc kiểm toán là 68 ngày, quá 23
ngày so với Luật KTNN. Nguyên nhân của những tồn tại trên
gồm:
- Nguyên nhân khách quan: m
ột số báo cáo thực hiện không đảm
bảo đúng tiến độ quy định của Luật KTNN do còn nhiều văn bản
hướng dẫn của các ngành còn chưa cụ thể, rõ ràng nên trong
quá trình kiểm toán không có sự thống nhất giữa Đoàn Ki
ểm toán
với đơn vị được kiểm toán dẫn đến cần phải trưng cầu ý kiến của
các chuyên gia thuộc các Bộ, ngành có liên quan để đưa ra kết
luận, kiến nghị cuối cùng.
- Nguyên nhân chủ quan:
(1) Sau khi kết thúc cuộc kiểm toán, công tác tổng hợp lập báo
cáo kiểm toán của các đơn vị còn chậm, bình quân toàn ngành là

21 ngày (chậm 01 ngày so với Luật);
(2) Báo cáo kiểm toán đã hoàn thành dự thảo, đã được Lãnh đạo
KTNN xét duyệt theo đúng quy định của Luật KTNN (b
ình quân là
8,7 ngày, giảm 1,3 ngày so với quy định của Luật KTNN), song
việc hòan thiện cuối cùng để trình phát hành còn bị kéo dài (thời
gian trình phát hành bình quân của 1 báo cáo sau khi đã được
xét duyệt lên tới trên 30 ngày), bình quân trình phát hành (kể từ
ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị) của toàn ngành trên 56 ngày.

(3) Việc hoàn thiện cuối cùng để trình phát hành, còn khá nhiều
đơn vị chưa quan tâm đúng mức, nên vẫn còn quá nhiều sai sót
cần phải chỉnh sửa dẫn đến việc trình Lãnh đạo KTNN xem xét,
ký phát hành còn mất nhiều thời gian.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán và tiến độ
thực hiện kiểm toán hiện nay của KTNN.
Nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu của Luật KTNN, Luật Phòng
chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
KTNN cần tập trung thực hiện những nội dung trọng tâm sau:
Về công tác kiểm toán
Nhiệm vụ trước mắt:
+ Năm 2008 cần tiếp tục chú trọng đổi mới cách thức kiểm toán,
nhất là công tác thu thập, trao đổi thông tin, tổ chức kiểm toán,
phương pháp kiểm toán, tập trung nhân lực và dành nhiều thời
gian cho công tác kiểm toán tổng hợp, phấn đấu rút ngắn thời
gian kiểm toán và đẩy nhanh tiến độ phát hành báo cáo ki
ểm toán
theo đúng thời gian quy định của Luật KTNN. Kiên quy
ết xem xét,
xử lý trách nhiệm của các Trưởng đoàn kiểm toán (kể cả các

thành viên có liên quan), đến việc kiểm toán không đúng mục
tiêu, phạm vi kiểm toán…từng bước gắn công tác này với việc
bình xét thi đua khen thưởng, công tác tổ chức cán bộ…
+ Xác định trọng tâm công tác kiểm toán là đưa ra được ý kiến
đánh giá rõ ràng và toàn diện về tính trung thực, hợp lý của các
số liệu quyết toán của đơn vị được kiểm toán đã xác định trong
kế hoạch kiểm toán được duyệt…
+ Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng
kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV. Chú trọng tự kiểm
soát của các KTNN chuyên ngành và khu vực theo chức trách,
nhiệm vụ của Kiểm toán trưởng, Trưởng, Phó đoàn ki
ểm toán, Tổ
trưởng Tổ kiểm toán…
Nhiệm vụ lâu dài:
+ Từng bước đa dạng hóa các loại hình kiểm toán theo quy định
của Luật Kiểm toán nhà nước. Hoàn thi
ện công tác kiểm toán báo
cáo tài chính, xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài
chính, cung c
ấp dữ liệu tin cậy cho Chính phủ trong công tác điều
hành, Quốc hội và HĐND các cấp trong xem xét phê chuẩn quyết
toán ngân sách và công tác giám sát;
+ Tiêu chuẩn hóa, chính quy hóa và chuyên nghiệp hóa để nâng
cao chất lượng công tác kiểm toán. Xây dựng, ban hành và áp
dụng hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán, quy chế, phương
pháp chuyên môn nghi
ệp vụ…; tạo dựng niềm tin của công chúng
và xã hội đối với hoạt động kiểm toán ;
+ Hiện đại hóa tổ chức và hoạt động kiểm toán. Đẩy mạnh công
tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ và phương

pháp kiểm toán tiên tiến vào hoạt động của KTNN…;
+ Tăng cường phân công, phân cấp cho các đơn vị tham mưu và
các KTNN chuyên ngành khu v
ực trong công tác kiểm toán. Phân
cấp quản lý phải thực hiện theo nguyên tắc gắn chế độ trách
nhiệm với quyền hạn được giao theo từng chức trách quản lý và
nhiệm vụ cụ thể, tránh chung chung, đùn đẩy khi cần xem xét và
quy kết trách nhiệm
Về tổ chức bộ máy:
Tăng cường năng lực, củng cố và phát triển theo hướng chuyên
môn hóa theo chức năng, nhiệm vụ được giao cho các đơn vị; bổ
sung thêm nhân sự để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu kiểm
toán NSĐP.
Về công tác tổ chức và cán bộ:
Cần có quy chế tôn vinh những người có công, thu hút người tài;
bố trí, sử dụng đúng những người có năng lực; khuyến khích
những người năng động, sáng tạo, có sáng kiến, có ý tưởng mới
trong công tác. Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công
khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Đổi mới, triển khai đồng
bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Xây dựng quy trình và quy chế
luân chuyển cán bộ trong từng đơn vị và trong toàn ngành…

×