LỊCH SỬ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TRONG LICH SỬ TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC
Nếu sự phát triển của thế giới được thể hiện bằng cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, hình thái xã
hội; bằng sự phủ định lẫn nhau của các chế độ xã hội thì lịch sử phát triển của triết học lại được đánh dấu
bằng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm.Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái
triết học này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của triết học. Nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng. Thường thường chủ nghĩa duy vật thể hiện thế giới
quan của những lực lượng tiến tiến, tiến bộ của xã hội , còn chủ nghĩa duy tâm (tuy không phải bao giờ
cũng vậy) là thế giới quan của những lực lượng suy tàn, phản động và bảo thủ trong xã hội. Chủ nghĩa duy
vật khẳng định tính thứ nhất có trước của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức, con người có khả năng
nhận thức được thế giới. Ngược lại chủ nghĩa duy tâm khẳng định tính thứ nhất có trước của ý thức, phủ
nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới. Dù sao bất kỳ hệ thống triết học nào cũng đều
phải xuất phát từ các vấn đề cơ bản của triết học, từ đó xây dựng toàn bộ hệ thống trên cơ sở giải quyết các
vấn đề đó. Cũng như sự phong phú của thế giới cuộc đấu tranh trong triết học diễn ra với nhiều hình thức,
mức độ khác nhau, cuộc đấu tranh này vừa là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng, thế giới quan đồng thời cũng là
cuộc đấu tranh của một bộ môn khoa học. Ngay từ những bước đi đầu tiên của mình, triết học đã chứng
minh sự phát triển của nó bằng những cuộc đấu tranh giữa những luồng tư tưởng khác nhau về các vấn đề
của thế giới . Dọc theo chiều dài của lịch sử triết học dù phương Đông hay phương Tây ta đều nhận thấy sự
đối lập nhau trong cách nhìn nhận, xem xét, đánh giá thế giới trong mỗi hệ tư tưởng hay trong mỗi nhà triết
học mà qua đây ta cũng thấy được sự đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp thế lực mà họ đang đại diện.Xem
xét triết học phương Đông ngay từ những ngày đầu của lịch sử phát triển loài người với hai đại diện lớn
nhất của nó : Ấn Độ và Trung Hoa. Trước tiên đề cập đến lịch sử phát triển của Ấn độ cổ đại với nền văn
minh sông Ấn ra đời từ những năm đầu của thiên niên kỷ thứ III đầu thiên niên kỷ thứ II trước C.N. và sau
nó là thời kỳ VEDA với sự hình thành của xã hội chiếm hữu nô lệ và các đẳng cấp ra đời bước đầu quy
định cơ cấu xã hội, những tính chất khắt khe nghiệt ngã của nó đã mang tới sự đấu tranh quyết liệt giữa các
tầng lớp trong xã hội, bên cạnh đó sự phát triển của khoa học và văn hoá Ấn độ trong thời kỳ này cũng là
cơ sở cho cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng giữa chủ nghĩa duy vật vô thần chủ nghĩa hoài nghi
chống lại uy thế của các tín điều tôn giáo, thế giới quan thần thánh đại diện cho tầng lớp, đẳng cấp bóc lột
trong xã hội . Trong giai đoạn phát triển đương thời của xã hội Ấn Độ thế giới quan của kinh Véda và kinh
Upanisad được suy tôn là hệ tư tưởng chính thống ngự trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trường phái
triết học ủng hộ quan điểm, thừa nhận uy thế tối cao của nó cũng tồn tại và phát triển với vị trí "trường phái
triết học chính thống" - Samkhya, Nyaya, Vaisesika, Yoga, Mimansa, Védanta cũng đều đưa ra những quan
điểm luận thuyết của mình về thế giới với sự có mặt của các bậc siêu nhiên như Purusa trong Samkhya hậu
kỳ hay thần Isvara người chỉ đạo sự phối hợp của các mối liên hệ, tác động tạo nên thế giới trong giáo lý
của Nyaya hoặc quan điểm thượng đế tạo ra thế giới bằng thứ chất liệu vĩnh cửu ở phái Vaisesika hậu kỳ,
Bràhman trong triết học Vedànta. Tất cả đều đưa ra những quan điểm nhằm bênh vực cho giáo lý duy tâm
hoang đường của đạo Bàlamôn tư tưởng đại diện cho tầng lớp , đẳng cấp trên gồm các tăng lữ, lễ sư hay
vương công vua chúa. Phủ nhận khả năng nhận thức của con người trước tự nhiên và thế giới khách quan
cũng không nằm ngoài mục đích đó.Đối lập với những trường phái trên là một bộ phận các tư tưởng mang
tính "tà giáo" không chính thống mà đại diện là các trường phái triết học mang tính duy vật cao như
Lokayata, phật giáo hay đạo Jaina. Bằng những quan điểm của mình về thế giới như mọi sự vật, hiện tượng
trong vũ trụ đều được tạo nên bởi bốn yếu tố : Đất, nước, lửa, không khí; ý thức là thuộc tính cố hữu của
vật chất (Lokayata) cũng như mọi vật biến đổi không ngừng không do vị thần nào sáng tạo ra (Phật giáo).
Hoặc quan điểm không thừa nhận thượng đế, coi vật chất tạo bởi các nguyên tử vô cùng nhỏ bé, cách hấp
dẫn, kết hợp với nhau theo nhiều dạng khác nhau tạo nên sự đa dạng của vật chất ( Jaina). Tất cả đều nhằm
phủ nhận những quyền năng giả tạo của kinh Véda và Upanisad "Các kinh Véda và Upanisad chỉ là tác
phẩm của bọn điên khùng, bọn hề, bọn xỏ lá và lũ quỷ ác" qua đó cũng nói lên tiếng nói phản kháng của
những tầng lớp thấp hơn đối với sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế lấy tôn giáo làm chiếc gậy
điều khiển xã hội.Tương tự như vậy, Trung Hoa cổ đại với sự phát triển khá sớm dù còn sơ đẳng của tri
thức khoa học cả về tự nhiên và xã hội cũng như sự hình thành và mất đi của các triều đại phong kiến Ân,
Chu dẫn đến sự hình thành của các cát cứ phong kiến trong thời Xuân Thu, đã là mảnh đất cho những hệ tư
tưởng khác nhau cùng sinh sôi và phát triển. Những triết gia thời kỳ " Bách gia chư tử" này của Trung hoa
cổ đại đều đứng trên lập trường của giai cấp, tầng lớp mình để bênh vực cho nó cũng như phê phán, lật đổ
những quan niệm, ý tưởng, trật tự xã hội đối lập khác bằng việc tranh luận, phê phán đả kích lẫn nhau.
Nhưng nổi lên trên tất cả ta vẫn thấy ở đây sự đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Nếu
thế giới quan duy tâm, tôn giáo dưới triều đại Ân - Thương, Tây chu được chính trị hoá, nâng lên thành
hình thái ý thức xã hội biện hộ cho vai trò thống trị của nhà nước chuyên chính thị tộc. Những tư tưởng "
nhận dân"," hưởng dân", "trị dân " được giải thích là " Vâng mệnh trời" " thuận theo ý trời", nếu trái với
"mệnh trời " là có tội đã được các giai cấp quý tộc thời này lợi dụng triệt để đề đề cao quyền uy của mình
cũng như nhấn chìm mọi sự phản kháng của nhân dân. Tuy nhiên, với trình độ nhận thức và đời sống xã hội
còn thấp kém thời kỳ này ta vẫn thấy nổi lên những tiếng nói phản kháng, với sự xuất hiện của những tư
tưởng triết học duy vật mang tính chất phác cho rằng con người có thể tự quyết định vận mệnh cuả mình, "
chỉ cần con người ra sức sản xuất nông nghiệp và tiết kiệm tiền của thì có thể đề phòng được mọi thiên tai,
bất trắc và bệnh tật" triết học Trung Hoa lại bước sang một giai đoạn mới với những đặc điểm mới. Những
quan điểm duy tâm của các nhà triết học xuất thân từ những lớp quý tộc, quân tử vẫn nhằm một mục đích
duy nhất là củng cố địa vị của giai cấp quý tộc và bảo vệ nhà nước của nó. Khổng Tử, Mạnh Tử và sau này
là Trang Tử với tầng lớp xuất thân là quý tộc hay dòng dõi hoàng tộc triết học của họ vẫn thể hiện một nội
dung chính " Mệnh trời". " Sống chết có mệnh, giầu sang do trời " - Khổng tử, hay các quan niệm chẳng có
gì mà không do mệnh trời , cái tâm do trời phú, chính quyền do trời ban ra, vũ trụ vạn vật đều tồn tại trong
ý thức của trời - Mạnh tử, đạo trời là tự nhiên vốn có, cái 'không ' là nguồn gốc của thế giới - Trang tử.
Thêm vào đó là sự phủ định khả năng của con người trong nhận thức cũng như cải biến thiên nhiên, " Đối
với dân việc gì cần làm thì cứ sai khiến người ta làm không nên giảng giải vì có giảng giải dân cũng không
thể hiểu"- Khổng tử. Hay những quan điểm của Trang tử : Con người không làm gì được trước mọi biến
hoá của sự vật khách quan , chỉ có thể phục tùng tuyệt đối tính chất biến hoá của thế giới vạn vật, cách
phân chia hạng người của Mạnh tử : Người lao tâm và Người lao lực. Tất cả đều nhằm múc đích biện hộ
cho trật tự đẳng cấp xã hội phong kiến, coi sự đối lập giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột là trật tự
hợp lý, vĩnh viễn.Nếu do đặc điểm về mặt văn hoá cũng như đặc trưng của phương thức sản xuất châu Á
dẫn đến triết học phương Đông còn chưa phân định thật rõ giữa triết học và tôn giáo cho nên những trường
phái triết học còn chưa mang tính triệt để sâu sắc thì ở phương Tây những phân định này đã rõ ràng hơn,
tính logic trong suy luận cũng phát triển ở mức cao hơn do đó cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm triết học
duy vật và duy tâm cũng được thể hiện quyết liệt hơn.Ta có thể thấy cuộc đấu tranh này ngay từ những thời
điểm khai sinh của triết học Hy lạp cổ đại. Những vấn đề về bản thể luận đã được các nhà triết học thời này
đề cập đến với những quan niệm khác nhau.Talet cho rằng Nước là yếu tố đầu tiên sinh ra vật chất và là
bản nguyên của mọi vật trong thế giới, Heraclít cho rằng Lửa sinh ra tất cả Pitago và trường phái của ông
lại đưa ra quan niệm thế giới, vật chất được sinh ra từ những con số…Nhưng cuộc đấu tranh gay gắt giữa
phe chủ nô quý tộc chuyên chế và phe chủ nô dân chủ chỉ được thể hiện rõ qua cuộc đấu tranh trực diện
giữa hai trường phái triết học đại diện cho 2 phe mà nhân vật tiêu biểu là Đemôcrít và Platôn. Trong khi
Đemôcrít khẳng định thế giới vạn vật được tạo lên bởi các nguyên tử, sự kết hợp khác nhau của các nguyên
tử tạo nên sự khác nhau của sự vật. Đồng thời ông phủ định sự tồn tại của các lực lượng siêu nhiên trong vũ
trụ cũng như khẳng định con người có thể nhận biết được bất kỳ điều gì trên thế giới nếu họ muốn biết thì
ngược lại Platôn , học trò của Xôcrat - lại cho rằng ý niệm là cái có trước là cái nguyên mẫu và là bản chất
của sự vật, mọi vật chỉ là hiện thân của ý niệm, thể xác chỉ là chỗ trú ngụ của linh hồn con người, từ đó ông
phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, coi rằng chân lý chỉ được nhận thức bằng sự hồi tưởng của linh
hồn bất tử. Và ông đã bác bỏ những quan niệm vô thần của Đemôcrít coi nó là nguyên nhân làm cho " bọn
thanh niên sa vào những tư tưởng vô đạo cho rằng không có những vị thần mà luật pháp bắt họ phải thừa
nhận" Sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh giành chân lý này còn được thể hiện qua Arixtốt bằng những quan
điểm của mình đã phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm của Platôn - người thầy của mình - về việc coi
các ý niệm như một dạng tồn tại độc lập và tách rời thế giới ý niệm với thế giới hiện thực. Ông cũng thẳng
thắn cho rằng ý niệm của Platon không thể là công cụ nhận thức thế giới. Tất cả đều minh chứng cho một
điều " chân lý là cái cao nhất mà con người cần vươn tới.
Châu Âu bước vào "đêm trường trung cổ" với sự thống trị của tôn giáo, nguyên lý tôn giáo trở
thành nguyên lý về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ. Sự thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế
độ phong kiến thời kỳ đầu kéo lùi sự phát triển của lục địa này. Tuy nhiên chính nỗi đau này đã ấp ủ một
nền văn minh mới. Triết học thời kỳ này có thể coi là tiếng nói của tôn giáo.Châu Âu bước vào thời kỳ
phục hưng với sự nẩy sinh của chủ nghĩa tư bản trong lòng xã hội phong kiến . Điều kiện lịch sử đã mang
lại cho triết học một khuôn mặt mới tuy nhiên cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
trong triết học vẫn mang một hình thức đặc thù : đấu tranh bênh vực khoa học phi tôn giáo, chống các học
thuyết tôn giáo, đối lập giữa trí thức thực nghiệm với chủ nghĩa kinh viện và đấu tranh cho giải phóng con
người. Bước vào thế kỷ XVII với việc hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trên nhiều nước
Châu Âu và đi kèm với nó là sự phát triển vượt bậc của khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này
cho dù còn thiếu triệt để nhưng cũng đã nói lên được quan điểm của mình về thế giới về nhận thức của con
người. Những quan niệm thế giới vật chất không do thần sáng tạo ra và không phụ thuộc vào ý thức của
con người (Tô mát Hốp xơ), nhận thức bắt đầu từ kinh nghiệm, kinh nghiệm bắt đầu từ cảm giác ( Lốc cơ)
hay vũ trụ, con người chỉ có một thực thể đó là vật chất, trí tuệ và đạo đức không do thượng đế tạo lên
(Đêmôđiđơrô), đã trực tiếp chống lại những quan niệm duy tâm coi thượng đế là có thực, nhờ có thượng đế
mọi vật mới tồn tại và phát triển ( Đêcáctơ), phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới, coi lòng tin vào
chúa là tuyệt đối nhằm " phục hồi trên toàn thế giới cái tình thần đức hạnh đã bị xuyên tạc" ( Béccli).Triết
học cổ điển Đức trong thời kỳ này cũng thể hiện khá rõ cuộc đấu tranh giữa hai trường phái chính trong
triết học. Nếu Hêghen với " ý niệm tuyệt đối " được coi là bản nguyên của mọi vật, tự do được thể hiện
trong sự hiểu biết và làm theo ý chúa, hay Cantơ cho rằng thế giới là sản vật của ý thức, tri thức con người
chỉ giới hạn trong hiện tượng thì Phơbách là người đã từng theo phái Hêghen trẻ lại thẳng thắn phê phán
triết học của Hêghen " là triết học coi thường người sống " hay phủ nhận bất khả tri luận của Cantơ để
khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới cũng như cải biến được nó.
Cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học đã làm lên sự phát triển của triết học qua từng thời
kỳ lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên nếu chỉ đề cập đến cuộc đấu tranh giữa những luồng tư tưởng, những
trường phái trong triết học e rằng chưa đủ. Để thấy rõ hơn sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ta còn phải đi sâu vào xem xét cuộc đấu tranh tư tưởng không kém
phần quyết liệt ngay cính trong bản thân các nhà triết học hay các trường phái triết học.