Tải bản đầy đủ (.ppt) (38 trang)

sự phân hóa trong nội bộ triều nguyễn trước sự xâm lược của thực dân pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 38 trang )

Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa: Sử
Môn: Lịch Sử Việt Nam Cận Đại
GVHD: Ngô Sỹ Tráng
Nhóm thuyết trình: 1
Chủ đề: Sự Phân Hóa Trong Nội Bộ Triều Huế Trước Sự
xâm Lược Của Pháp và Ảnh Hưởng Của Nó Đến Quá Trình
Chống Pháp Xâm Lược
I.Phần Mở Đầu
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà
Nguyễn là triều đại ở vị trí rất đặc biệt, đó là
điểm giao thời từ Việt Nam độc lập sang
nước Việt Nam nô lệ. Nhà Nguyễn tồn tại 143
năm (1802 – 1945) trong thời kì đất nước có
nhiều biến động, là nhà nước phong kiến cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Hiếm có triều đại
nào thu hút nhiều sự chú ý của các nhà
nghiên cứu lịch sử như triều Nguyễn. Một
nguyên nhân quan trọng vì đây là thời kì gần
với lịch sử hiện đại Việt Nam, còn lưu giữ
được nhiều những tư liệu thành văn nhưng
phần khác là ở triều Nguyễn luôn tồn tại hai
mảng sáng tối đan xen với nhau, dễ gây nên
sự tranh luận của các nhà khoa học, trong đó
nội dung được đề cập nhiều là cuộc đấu tranh
chống Pháp xâm lược (1858 – 1885) và
nguyên nhân để mất nước ta vào tay thực
dân Pháp.
Nghiên cứu những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong
nội bộ nhà Nguyễn thời kì đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 -


1885) không những rất cần thiết để hiểu về quá khứ mà còn có ý nghĩa
quan trọng trong thời kỳ hiện nay, nhất là ở thời điểm chúng ta đang
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến vào hội nhập cùng
khu vực và thế giới. Cuộc đấu tranh nội bộ đó đã để lại bài học sâu sắc
về vấn đề xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong chính quyền nhà nước, là
nhân tố quan trọng của thành công cũng như thất bại. Bài học về đoàn
kết trong lực lượng lãnh đạo, đại đoàn kết toàn thể nhân dân là bài học
lớn trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và nó
chính là thứ di sản quý giá của dân tộc cần được chú trọng và tiếp tục
vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Cho tới nay, cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong
cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược ở nửa cuối thế kỉ XIX đã thu hút
được nhiều sự chú ý, quan tâm của các nhà khoa học. Sự phân hoá,
chia rẽ trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà
chính là hệ quả của cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Pháp và nó cũng
chứng tỏ sự bất ổn, sự yếu kém của triều Nguyễn trong cuộc đấu tranh
chống Pháp.
Bài thảo luận của nhóm chúng tôi sẽ làm rỏ những vấn đề sau:
Thứ nhất: Bối cảnh lịch sử dẫn đến sự hình thành của hai phe chủ
chiến và chủ hòa.
Thứ hai: Xác định lực lượng của hai phe chủ chiến, chủ hòa; quan
điểm đường lối và cuộc đấu tranh của hai phe này trong thời kì chống
Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền.
Thứ ba: Đánh giá những tác động của sự phân hóa này đối với cuộc
đấu tranh chống Pháp xâm lược hồi nửa cuối thế kỉ XIX và rút ra bài
học cần thiết đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
1 Hoàn cảnh lịch sử của sự phân hóa trong nội bộ
triều đình nhà Nguyễn.
a. Thế giới.

Thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc. Vấn đề tìm kiếm thị trường và thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc đang trở thành vấn đề bức thiết
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền sản xuất đại
công nghiệp. Là một nước tư bản phát triển, Pháp
nhanh chóng vươn lên thành một cường quốc trong hệ
thống chủ nghĩa đế quốc.
Bấy giờ trên thế giới, châu Á vẫn đang chìm đắm trong
chế độ phong kiến nghèo nàn, lạc hậu nên đã trở
thành “mảnh đất hứa” của chủ nghĩa đế quốc. Pháp
nhanh chóng nhận thấy châu Á và Đông Nam Á là thị
trường cần được mở rộng. Việt Nam nhanh chóng trở
thành mục tiêu thôn tính của thực dân Pháp.
Đầu thế kỉ XX, liên quân 8 nước đế quốc nhảy vào xâu xé
Trung Quốc. Pháp là nước đi đầu và cũng gặt hái
được khá nhiều lợi nhuận. Sau khi hoàn thành xong
việc phân chia Trung Quốc, Pháp bắt đầu tiến hành
xâm lược Việt Nam.
Các nước đế quốc xâu xé Trung
Các nước đế quốc xâu xé Trung
Quốc
Quốc
Thực chất từ lâu Pháp đã có quan hệ với Việt Nam. Đó là
thời điểm Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, gặp được
Bá Đa Lộc và cho con trai theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu
cứu viện. Sau khi lập nên nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh nhiều
lúc muốn cắt đứt quan hệ với người Pháp vì ông đã phần
nào nhận thấy dã tâm của người Pháp đối với đất nước này
nhưng thực dân Pháp vẫn không ngừng nhòm ngó Việt
Nam. Pháp đã để lại cố đạo Bá Đa Lộc nhằm làm nội ứng

cho cuộc xâm lược sau này.
Giai đoạn đầu, Pháp tổ chức các đội truyền giáo và thương
nhân xâm nhập vào Việt Nam. Lực lượng này dưới danh
nghĩa truyền đạo và buôn bán nhưng thực chất là do thám
chuẩn bị cho Pháp vào Việt Nam. Phản ứng đầu tiên của
nhà Nguyễn là ngăn cấm những giáo sĩ truyền đạo và cấm
thông thương buôn bán với thương nhân Pháp. Về sau
quyết liệt hơn nhà Nguyễn đã thi hành chính sách cấm đạo,
giết đạo. Để hạn chế sự hoạt động của các giáo sĩ nhà
Nguyễn đã ra 24 đạo dụ nhằm cấm truyền đạo vào Việt
Nam. Sự cấm đoán đó của triều Nguyễn đã không những
không mang lại kết quả mà còn làm cho quá trình truyền
đạo diễn ra rộng hơn và sâu hơn. Những cuộc tàn sát dã
man của nhà Nguyễn đã đẩy một bộ phận nhân dân ta tiến
dần về phía kẻ thù và mâu thuẫn trong nước ngày càng trở
nên sâu sắc. Lực lượng giáo sĩ truyền đạo đang hoạt động
ngày càng tích cực nhằm phục vụ âm mưu xâm lược sắp
được tiến hành.
b. Việt Nam.
Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chế độ phong
kiến đang trên con đường khủng hoảng trầm trọng. Thời
Tự Đức cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm chế độ
phong kiến lung lay tới nền móng. Theo thống kê chưa
đầy đủ, chỉ từ năm 1848 (khi Tự Đức lên ngôi) đến năm
1862 (là năm thực dân Pháp cướp trắng ba tỉnh miền
đông Nam Kỳ) đã có 40 cuộc khởi nghĩa.
Để duy trì nền thống trị của mình, phong kiến nhà
Nguyễn đã ra sức củng cố xã hội bằng mọi cách. Về đối
nội thì đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa nông dân.
Các cuộc hành quân liên miên đã khiến lực lượng quân

đội triều đình suy yếu dần, khả năng chiến đấu giảm sút.
Lòng dân oán thán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc rạn
nứt. Tình hình trên đã gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi
cho Pháp thôn tính nước ta.
Phong trào nông dân khởi nghĩa đã khẳng định rằng, vào
lúc thực dân Pháp chuẩn bị nổ súng xâm lược nước ta là
lúc mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến trở nên hết
sức sâu sắc. Lợi dụng sự khốn cùng của quần chúng
nhân dân lao động, các giáo sĩ phương Tây ra sức thu
phục tín đồ. Lực lượng này tìm mọi cách khoét sâu mâu
thuẫn giáo – lương. Các giáo sĩ Pháp lúc này hoặc trực
tiếp tổ chức hoặc đứng sau những vụ khởi loạn chống
triều đình, chuẩn bị cơ sở chính trị cho cuộc xâm lăng
sắp tới.
Song song với những chính sách đối nội thiển cận, phong kiến Nguyễn đã cho thi
hành một đường lối đối ngoại sai lầm: đẩy mạnh các cuộc xâm lược Campuchia và
Lào. Từ năm 1827 đến 1847, trong vòng 20 năm, nhà Nguyễn đã gây chiến tranh
với người Miên, người Xiêm và người Lào, khiến cho nhân dân vô cùng khốn khổ.
Đi đánh giặc Lạp, giặc Lào, giặc Xiêm là ác mộng của nhân dân miền Trung và
miền Nam trong thời gian đó. Kết quả của 20 năm theo đuổi chính sách xâm lược
tai hại đã khiến cho tài lực và nhân lực bị hao mòn, hiềm thù ngày càng khoét sâu
giữa các nước láng giềng với nhau, trong lúc bọn thực dân đang nhòm ngó ngoài
cửa ngõ.
Rõ ràng với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về
mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương tây. Lịch sử
lúc ấy đã đi đến một bước ngoặt, buộc triều đình nhà Nguyễn phải lựa chọn. Một là
triều đình Nguyễn bị đánh đổ và thay thế vào là một triều địa khác tiến theo hướng
mới của tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Hai là nước Việt Nam mất vào tay tư bản Pháp để trở thành một xứ thuộc địa.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, khả năng thứ nhất không xảy ra, còn khả năng thứ

hai thì liền kề. Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc chế độ
phong kiến Việt Nam đi vào phân hoá và chia rẽ sâu sắc với hai phe chủ chiến và
chủ hoà. Nhà Nguyễn đã không tìm ra sách lược hữu hiệu với kẻ thù, luôn bị động
và bất đồng về đường lối, do đó nhà Nguyễn luôn tỏ ra lúng túng khi đối đầu với
thực dân Pháp và cuối cùng là đầu hàng từng bước rồi để mất cả nước ta vào tay
Pháp, biến quá trình mất nước không tất yếu trở thành tất yếu.
Pháp tấn công
Đà Nẵng
2 Sự phân hóa trong nội bộ triều đình Huế
trước sự xâm lược của thực dân Pháp và ảnh
hưởng của nó đến quá trình xâm lược.
2.1 Ở mặt trận Đà Nẵng và Gia Định.
Thực dân Pháp nổ súng bắt đầu cuộc xâm lược
nước ta ngày 1 tháng 9 năm 1858, liên quân Pháp
và Tây Ban Nha bắt đầu nổ súng tấn công bán đảo
Sơn Trà (Đà Nẵng) mở màn cuộc xâm lược Việt
Nam. Vua Tự Đức đã cử quân tướng tích cực
phòng thủ và đánh trả quân xâm lược ở mặt trận Đà
Nẵng. Ngày 2 tháng 9 năm 1858 Pháp chiếm được
Điện Hải rồi chiếm Sơn Trà tiến vào cửa sông Đà
Nẵng. Vua Tự Đức đã sai quân Đô đốc Lê Đình Lý,
Phạm Khắc Thận đem quân tiếp viện ở mặt trận và
tiến hành cắt chức Trần Hoàng, Nguyễn Tài. Chiến
sự ở mặt trận Đà Nẵng ngày càng căng thẳng,
trước tình hình đó vua Tự Đức đã cử Nguyễn Tri
Phương đến Đà Nẵng để chỉ huy cuộc kháng chiến.
Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, ông cho
xây dựng thành hào, không cho địch tấn công sâu
vào nội địa, với sự áp dụng của chiến thuật lối đánh
du kích làm tiêu hao sinh lực địch.

Pháp tấn công Gia
Định
Qua đó cho thấy trong thời kì đầu chống thực
dân Pháp, nội bộ triều đình nhà Nguyễn đã tỏ rõ
quyết tâm phối hợp cùng nhân dân đánh giặc.
Trước sự tấn công, bao vây, cô lập của quân
dân ta, thực dân Pháp đã bị tổn thất nặng nề.
Nên sau năm tháng tấn công Đà Nẵng, thực dân
Pháp cũng không thực hiện được mục đích buộc
triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, kết thúc chiến
tranh nhanh chóng, phá sản kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh. Trước tình hình đó, thực
dân Pháp phải rút đại bộ phận quân khỏi Đà
Nẵng, tháng 2 năm 1859 thực dân Pháp chuyển
hướng đánh sang Gia Định. Tại mặt trận Gia
Định, nhận tin Gia Định bị chiếm ngày 17 tháng
2 năm 1859, triều đình Huế đã cử Thượng thư
bộ hộ Tôn Thất Cáp và Bố chính nam ngai Phan
Tĩnh điều quân các tỉnh Bình Định, Khánh Hòa…
cùng với đạo quân ứng nghĩa được thành lập để
chống Pháp và kêu gọi nhân dân thực hiện
“vườn không nhà trống”, không hợp tác với địch.
Triều đình thực hiện chính sách “thủ” để “công”
từ tháng 9 năm 1858 đến tháng 2 năm 1859.
Phan Thanh Giản
Sau khi không đạt được mục tiêu đề ra ở mặt trận Đà Nẵng,
thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn, vướng vào cuộc chiến
tranh Áo trên đất nước Ý, nên phải dồn lực lượng vào chiến
trường Châu Âu, không thể tiếp viện cho quân đội ở Việt Nam.
Trong lúc này mâu thuẩn Anh- Pháp gay gắt, chiến trong có thể

bùng nổ. Trước tình khó khăn như vậy, chính phủ Pháp phải ra
lệnh cho Giơnuilly nghị hòa với triều đình nhà Nguyễn.
Ngày 20 tháng 6 năm 1859 Giơnuilly chính thức đề nghị đình
chiến với triều đình nhà Nguyễn. Ngay lập tức, triều đình nhà
Nguyễn đã có sự phân hóa không thống nhất về đường lối
chính sách, chủ trương. Người bàn chiến, kẻ bàn hòa lại có kẻ
không hòa không chiến . Sự phân hóa chủ yếu ở 4 luồng tư
tưởng sau:
- Tiêu biểu cho phe chủ hoà có Trương Đăng Quế, Phan
Thanh Giản, Lưu Lượng, Võ Xuân Hãn… chủ trương cho
rằng:
“Chiến không bằng hoà, nhưng phải cố thủ rồi sau mới bàn.
Kẻ địch vốn cậy quyền bền súng mạnh làm sở trường, họ ở
ngoài sóng gió mặt bể, thế ta khó thắng với họ. Thượng kế bây
giờ nên lấy giữ (thủ) làm chính, giữ vững rồi sau mới có thể nói
đánh, cũng có thể nói đến hoà. Bằng không trước lo việc giữ
thì đánh cũng không được mà hoà cũng không xong” .
“Dương sự thủy mạt”
Đây là tư tưởng được Tự Đức cho là hợp lẽ phải.
Sở dĩ phe chủ hoà chủ trương như vậy là bởi họ lý
giải là nên nuôi sức chọn thời châm chước đối phó.
Mặt khác Tự Đức và những người trong phe chủ
hoà cho rằng mục đích tấn công vào thực dân Pháp
chỉ là truyền đạo và buôn bán, chứ không làm gì tổn
hại đến ta. Cái nhìn đó của vua quan nhà Nguyễn là
thiển cận, bó hẹp trong phạm vi một quốc gia đang
cố duy trì nền tảng của chế độ phong kiến, không
mở rộng ra thế giới nên thiếu hiểu biết về bản chất
của đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói
riêng.Cái chủ trương thủ để hòa hay là “ trì cửu để

đợi cho họ mỏi” của triều đình thật là tai hại; địch
không bị tấn công mạnh, không mất sinh lực nhiều,
không ê răng gẫy vuốt gay từ lúc đầu, thái độ của
triều đình có thể làm cho quân dân nản chí vì mất
lòng tin. Hơn nữa, không ít người trong số vua quan
nhà Nguyễn vốn sớm mang tư tưởng hoang mang lo
sợ giặc khi chúng ngấp nghé ngoài cửa ngõ nên dao
động sinh ra chủ hoà nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỉ
của giai cấp mình. Lập trường của phe này tỏ ra
phản động và không hợp lòng dân.
-Còn có kẻ lại chủ trương chủ hòa trắng trợn, hèn nhát, sợ giặc, gồm có Lê Chí
Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Giao, Nguyễn Hào. Đại lược họ
nói:
“ Đạo dùng binh lấy thư nhàn đợi kẻ nhọc… Công thủ là việc khó; hòa
tuy là hạ sách, nhưng ngày nay chính là lúc nên để cho dân nghĩ ngơi, bằng
ngược lại thì sợ rằng có cái lo ngoài ý nghĩ. Nay kẻ kia cầu hòa, quyền nghi
cũng có thể cứu lại”.
“ Dương sự thủy mạt”
- Các quan Tô Trân, Phan Hữu Nghị, Trần Văn Vi, Lê Hiểu Hữu, Nguyễn Đăng
Điều, Hồ Sỹ Thuần cho rằng:
“Quảng Nam, Gia Định địa thế, địch tính đại đồng mà tiểu dị, địch ở
ngoài xa khơi thì khó đánh, địch vào nội địa càng dễ đánh, dễ bị tiêu diệt. Phải
giữ và đánh, thủ để công, công để thủ, quét sạch địch, bằng nay hoà với họ thì
sẽ bắt ta bỏ tấn và thông thương, xây nhà thờ, mở phố xá, rồi trăm sự xảo
quyệt đều do một chữ hoà mà ra cả”.
“Dương sự thủy mạt”
-Các quan Trần Văn Trung, Lâm duy Hiệp cho rằng:
“ Pháp ở xa đến chỉ cần mấy khoảng như họ đưa, chứ không có ý thôn
tính nước ta”. Họ chủ trương “chỉ có phòng giữ là đắc sách, nay muốn quyết
chiến với họ chưa thấy cái cứ”

“Dương sự thủy mạt”
Ý kiến được nhiều người tán thành là hòa hảo thương thuyết. Chủ hòa
khẳng định ngay từ đầu đại bộ phận thuộc hàng ngũ triều đình đã mang
nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, tư tưởng sợ giặc, tư tưởng đớn hèn,
làm cho quan quân triều đình nhà Nguyễn bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh
thắng quân thù.
Ở mặt trận Gia Định, trong trận Kỳ Hòa ta chủ trương chiến, nhưng đã
thất bại làm cho triều đình hoang mang lo sợ, trong khi đó nội bộ triều
đình ngày càng phân hóa mạnh mẽ. Phe chủ hòa đã lấn áp phe chủ
chiến. Quan điểm của triều đình Huế ở mặt trận Gia Định và Kỳ Hòa là
quan điểm “thủ” để giữ lại thành.
Khi Pháp chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Định Tường
(12/4/1861), Biên Hòa (18/12/1861), Vĩnh Long (23/3/1862), Gia Định
(17/2/1859), xu hướng hòa nghị thắng thế và đi đến hiệp ước Nhâm
Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 đánh dấu sự thất bại của hai phe chủ
chiến và chủ hòa, qua đó hai phe chủ chiến và chủ hòa điều có mặt tích
cực và tiêu cực.
Phe chủ chiến:
Tiêu cực:
Không hiểu đúng đắn lực lượng của thực dân Pháp. Khi Pháp gặp nhiều
khó khăn về quân số và tàu chiến thiếu hụt, vướng vào cuộc chiến tranh ở Ý
mà triều đình vẫn án binh bất động, chỉ chủ trương bao vây địch ở mé ngoài
không hề chủ động tấn công. Pháp đánh Đà Nẵng mà triều đình chỉ cho 3000
quân chính quy thể hiện sự không quyết tâm đánh giặc, tiêu diệt địch
Khi không thành công ở Đà Nẵng, Pháp táo bạo tấn công Gia Định thì quan
lại triều đình không có hành động cứng rắn kịp thời để bóp chết ngay từ đầu ý
chí xâm lăng của địch. Mặc dù thành Gia Định lúc đó có 1000 quân, đủ khí giới
và lương thực cho 1 vạn quân đóng giữ trong một năm, nhưng quân triều đình
chỉ chống đỡ vài trận rồi bỏ thành chạy dài, sau đó sợ triều đình trừng phạt, Vũ
Duy Ninh thắt cổ chết để trốn tránh trách nhiệm, mở đầu cho một chuỗi tự sát

của bầy tôi bất lực, của một triều đình suy tàn.
Tích Cực: Phái chủ chiến phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Với ý nghĩ
của quần chúng rất đơn giản, đúng đắn, giặc đến cướp nước thì phải đánh
giặc giữ nước, chúng chưa tới thì đánh, chúng chưa đến thì phải chủ động tìm
chúng mà đánh, bên cạnh quân đội chính quy còn có đông đảo quần chúng
nhân dân. Chủ trương của phái chủ chiến phù hợp với truyền thống dân tộc và
yêu cầu của lịch sử.
Phe chủ hòa:
- Tiêu Cực:

Có một bộ phận hèn nhác, chỉ thấy sức mạnh của Pháp nên khi
Pháp tấn công thì bỏ chạy.
Phái chủ hòa với tư tưởng đã có sẵn không tin vào sức mạnh của
nhân dân, mà luôn đối phó với các phong trào đấu tranh của nhân dân,
làm cho thực dân Pháp có điều kiện để tấn công.
Chủ hòa theo hướng hòa nghị là quốc sách, lau dài, dựa vào
Pháp để cầu sống sót, xin chuộc lại đất và dần dần đổi mới.
-Tích Cực:

Theo hướng hòa nghị là “quyền nghi”, là tạm thời. Muốn hòa hoản để
củng cố, phát triển đất nước, để duy tân, cải cách. Từ đó Pháp muốn
xâm lược cũng khó khăn, sau đó lợi dụng thời cơ để lấy lại đất nước.
Một số người theo xu hướng chủ hòa theo hướng cách tân, sách lược
cũng không đạt được kết quả vì triều đình không chấp nhận cải cách,
duy tân.
2.2 Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông.
Địch chiếm Định Tường: Ngày 12 tháng 4 năm 1861 hai cánh quân của
địch hội trước Mĩ Tho, địch vừa đại bác bắn phá vừa dùng bộ binh xông
vào thành. Quan quân nhà Nguyễn trong thành núi thế, Hữu Thành cho
đốt kho thành, dinh thự rồi cùng Định Đức rút về Cái Bè. Định Tường bị

địch chiếm 12/4/1861.
Địch chiếm Biên Hòa: Tháng 11 năm 1861, Bonar sang thay cho
Chanar, y quyết định đem quân đánh vào Biên Hòa. Ngày 14 tháng 12
năm 1861 quân địch bắt đầu tấn công cả hai đường thủy bộ. Quân triều
đình rút ra Bình Thuận. Ngày 18/12/1861, địch chiếm Biên Hòa, sau đó
lại xuôi sông Đồng Nai tiến chiếm Bà Rịa 7/11/1862.
Địch chiếm Vĩnh Long: Mục địch là dập tắc mầm kháng chiến của nhân
dân, vừa làm mồi hàng nhử triều đình nhượng 3 tỉnh Đông. Ngày
20/3/1862 địch tấn công Vĩnh Tùng, Thạch Mĩ. Ngày 22/3/1862, các
điểm có đại bác của ta điều bị phá hủy. Ngày 23/3/1862, địch chiếm
thành Vĩnh Long, chiến lợi phẩm rất nhiều trong đó có 63 đại bác.
Trước sự tấn công của Pháp, triều đình với chủ trương thủ để giữ, quân
triều đình do Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Bá Nghi cầm đầu có hơn
2000 quân đóng tại Bình Thuận không đánh phá gì giặc cả, dần dần
trong triều đình xu hướng hòa nghị thắng thế.
Trong khi đó nhân dân và nghĩa sĩ nổi lên đánh giặc quyết liệt. Từ khi
Vĩnh Long thất thủ nhân dân và nghĩa dũng hoạt động mạnh và vẫn giữ
được các địa điểm quan trọng: Mĩ Quý, Cai Lậy, đánh vào Chợ Lớn,
đầu độc quân Pháp ở Sài Gòn, chiếm lại Phước Lộc, Vĩnh Phước, Bến
Lức ở Gia Định.
Dựa trên thắng lợi quân sự, Pháp buộc triều đình ký hiệp ước đầu
hàng. Để cứu vãn quyền lợi giai cấp triều đình Huế vội vã ký hàng ước
ngày 5 tháng 6 năm 1862 nhượng đứt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và
đảo Côn Lôn cho giặc Pháp.
Về phía địch mặc dù đánh thắng và chiếm đất nhưng chúng nhận thấy
sớm nghị hoà ngày nào hay ngày ấy. Thực tế trên chiến trường Nam
Kỳ, Pháp không đủ binh lực để chiếm rộng ra và bình định các nơi đã
chiếm được. Dư luận nước Pháp lúc đó đối với việc xâm lược Việt Nam
vẫn chưa nhất trí.
Cuộc nghị hoà đã được tiến hành rất nhanh chóng. Hoà ước được ký kết

tại Sài Gòn giữa Bôna – đại diện cho chính phủ Pháp với hai phái viên triều
đình là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp. Hai người này là lực lượng
mang tư tưởng chủ hoà nên đã nhanh chóng đáp ứng những yêu cầu của
Pháp. Với điều ước Nhâm Tuất (5/6/1862), triều đình Huế không những đã
mở lối thoát khỏi tình trạng bế tắc cho phép mà còn tạo điều kiện thuận lợi
cho Pháp giữ vững những vùng đất đã chiếm ở miền Đông Nam Kỳ, mở
rộng xâm lược miền Tây Nam Kỳ. Mặt khác, với điều ước Nhâm Tuất triều
đình Huế đã thoả hiệp và bắt tay với thực dân Pháp đàn áp phong trào đấu
tranh của nhân dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tạo thêm khó khăn nặng nề cho
phong trào kháng chiến của nhân dân.
Trong lúc triều đình Huế hoang mang dao động, ký hàng ước thì phong
trào đấu tranh của quần chúng vẫn diễn ra sôi nổi. Trong năm 1862, phong
trào chống Pháp dâng cao ở hầu hết các nơi, nhất là ở các tỉnh Định
Tường và Gia Định. Điển hình có các cuộc nổi dậy của Trương Định, Đỗ
Trinh Thoại, Nguyễn Thông, Phạm Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy
Dương…, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Trương Định dưới ngọn cờ Bình
Tây đại nguyên soái. Nghĩa quân đã phối hợp với Nguyễn Tri Phương tại
mặt trận Gia Định gây cho địch nhiều khó khăn và tổn thất.
Về phía phe chủ chiến vẫn một mặt tích cực đấu tranh trong triều đình. Mặt khác ra sức
ủng hộ và hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh của nhân dân. Còn Tự Đức vốn mang
nặng tư tưởng chủ hoà nên đã làm ngơ trước mọi cơ hội kháng chiến của nhân dân ta.
Sau khi hoà ước được kí kết, triều đình Huế lại mắc thêm sai lầm nữa. Họ không chủ
động tấn công nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Pháp mà lại mải mê thoả hiệp để
chuộc đất. Tháng 8/1862, triều đình Huế cử phái bộ Phan Thanh Giản cầm đầu sang
Pháp với nhiệm vụ xin sửa lại hoà ước 1862 và chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
Xu hướng chung của đình thần là nhượng bộ nên chỉ thị cho phái bộ rất mơ hồ: “…
phần lớn nên theo sở nguyện của họ. Ý muốn của Phan Thanh Giản trong chuyến này
là “hoà nghị đã thành, có thể ung dung mà đưa nước nhà đến cõi phú cường”.
Theo đó, mục tiêu của Phan Thanh Giản là nhượng bộ để nước không mất rồi tranh thủ
thời cơ mà chấn chỉnh nước nhà, tăng cường tiềm lực quốc gia để đấu tranh với Pháp.

Phải thừa nhận rằng đây là một ý kiến không phải không có lý nhưng âm mưu của giặc
Pháp là lớn và sâu, chúng đâu để cho triều đình thực hiện được ý nguyện canh tân đất
nước, làm cho dân giàu nước mạnh để rồi chống lại chúng.
Kết quả chuyến đi của Phan Thanh Giản là nhà Nguyễn không những không chuộc
được đất mà còn bị Pháp gây sức ép với những điều khoản nặng nề hơn năm 1862.
Nhân dân cho rằng Phan Thanh Giản là người “phản quốc”. Trong nhân dân lan truyền
khẩu hiệu: “ Phan Lâm mãi quốc, triều đình khi dân”, “ Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Thiệp, hai toàn quyền khâm sai để kí hiệp ước năm 1862, bán nước, triều đình bỏ dân”.
2.3 Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây.
Chiếm xong 3 tỉnh miền Đông, Pháp mở
rộng đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam
Kỳ. Sáng ngày 20/6/1867, Pháp cho
quân dàn trận trước thành Vĩnh Long
đưa tối hậu thư đòi Phan Thanh Giản
nộp thành. Kết quả là Phan Thanh Giản
nộp thành Vĩnh Long cho Pháp và còn ra
lệnh cho các quan cầm đồn 2 tỉnh còn lại
ở miền Tây cũng phải nộp thành theo
lệnh của Pháp ngày 24/6/1867 mà không
có sự chống cự nào.
Lấy xong 3 tỉnh miền Tây, thực dân Pháp
cho người ra Huế báo sự việc đã rồi.
Triều đình không hề phản ứng, mà chỉ
xin đổi 3 tỉnh miền Tây mới mất để lấy lại
tỉnh Biên Hoà nhưng không được Pháp
chấp nhận. Còn Phan Thanh Giản thì
uống thuốc độc tự vẫn vì lo sợ trách
nhiệm với triều đình.
Nhưng tại sao Phan Thanh Giản lại nộp thành nhanh như vậy? Sự thật
thì khi giao nộp thành cho Pháp ông không chỉ hành động theo ý mình

mà đã làm đúng ý Viện Cơ mật của triều đình. Như vậy, nguyên nhân
để mất thành của Phan Thanh Giản là một phần bị chi phối bởi tư tưởng
chủ hoà của triều đình, không có một đường lối minh bạch cho tình thế
nước ta lúc đó.
Trong thời kỳ này, phe chủ hoà với sự hậu thuẫn của Tự Đức vẫn đang
chiếm ưu thế. Về phía phe chủ chiến dưới sự lãnh đạo của Tôn Thất
Thuyết đang bí mật bố trí trận địa kinh thành Huế để chuẩn bị ngày đối
phó với giặc Pháp.
Sau khi để mất ba tỉnh miền Tây, phong trào kháng chiến trong nhân
dân nổ ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh do Trương Quyền,
Phan Tam, Phan Ngũ, Nguyễn Trung Trực…lãnh đạo. Các phong trào
này kết thành cao trào chống Pháp, nhưng tất cả các cuộc kháng chiến
đều bị thất bại do chính sách đàn áp đẫm máu của triều đình Huế. Điều
này chứng tỏ lúc này triều đình hoàn toàn đối lập với nhân dân không
đoàn kết thống nhất cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm.
Quân Pháp chiếm
Hà Nội
2.4 Pháp Tấn công Bắc kì Lần 1
và lần 2. Pháp tấn công Thuận
An.
Chiếm xong Nam Kỳ, thực dân Pháp
thực hiện âm mưu chiếm cả Bắc Kỳ và
Trung Kỳ. Ngày 5/11/1873, đội tàu
chiến của Gácniê ra tới Hà Nội. Trần
Đình Túc được cử ra Bắc bố cáo cấm
nhân dân buôn bán giao thiệp với
người Pháp, vạch rõ trách nhiệm của
Gácniê ra Bắc chỉ là xử lý và đuổi tên
Đuypuy, việc xong là phải rút lui.
Ngày 20/11/1873, Pháp nổ súng đánh

thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương trực
tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu và hy sinh
anh dũng. Hà Nội bị Pháp chiếm. Do
tình hình cấp bách, triều đình cử quân
ra Bắc nhưng xu hướng chủ yếu vẫn
là điều đình thương thuyết.
Mặc dù thành Hà Nội bị giặc chiếm, quan quân triều đình tan rã
nhanh chóng, nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục duy trì cuộc chiến
đấu. Tiêu biểu là cuộc phối hợp chiến đấu của quân triều đình do
Hoàng Tá Viêm lãnh đạo với quân Cờ đen thiện chiến của Lưu
Phúc Vĩnh đã làm nên chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất. Ngày
21/12/1873 quân của Lưu Vĩnh Phúc cho bao vây thành Hà Nội
và khiêu khích quân địch, quân địch chủ quan đuổi theo đến Cầu
Giấy thì bị phục binh đổ ra giết. Kết quả là Gácniê tử trận, thành
Hà Nội được trả lại triều đình Huế.
Trong khi chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất đang làm nức lòng
nhân dân ta thì triều đình Huế lại bỏ lỡ cơ hội đánh Pháp, không
dám hiệu triệu quan quân thừa thắng xông lên. Thì Triều đình,
đứng đầu là Tự Đức ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui binh về Sơn
Tây vì sợ quân Pháp trả thù. Kết quả là một điều ước được ký
ngày 15/3/1874 tại Sài Gòn với những điều khoản rất có hại cho
ta. Triều đình Huế chính thức thừa nhận chính quyền của Pháp ở
cả 6 tỉnh Nam Kỳ, nền ngoại giao Việt Nam lệ thuộc Pháp. Phần
đất còn lại bị Pháp chi phối cả nội trị và ngoại giao.

×