Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP GIÁO VIÊN DẠY TỐT
TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 3
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động
ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ của học sinh thể hiện tốt hay
không là nhờ vào vốn kiến thức về Tiếng Việt dồi dào và khả năng chuyển tải kiến
thức - nội dung bài dạy hợp lý, sáng tạo của giáo viên.
Chính vì “nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh” nên
mục tiêu môn Tiếng Việt ở Bậc Tiểu học đã nêu những nội dung cụ thể là: Nhằm hình
thành và phát triển ở học sinh qua các kỹ năng sử dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết)
để vận dụng trong học tập và giao tiếp ở trường và môi trường xung quanh; thông qua
việc dạy và học môn Tiếng Việt để góp phần rèn luyện các em có những thao tác tư duy
về ngôn ngữ; cung cấp cho học sinh các kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết ban đầu về tự nhiên – xã hội, về con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước
ngoài; qua đó bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Vì vậy muốn thực hiện tốt, có hiệu quả các yêu cầu mà mục tiêu trên đã đề ra, đòi
hỏi người giáo viên phải có kiến thức vững vàng, sáng tạo năng động trong quá trình
dạy học, nắm chắc các hoạt động chủ yếu ở mỗi tiết dạy trong các phân môn của môn
Tiếng Việt như phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện…
Trong khi đó ở các Trường Tiểu học, cũng như những môn học khác, môn Tiếng
Việt do Chương trình giáo dục phổ thông mới đưa vào thực hiện mấy năm gần đây và
giáo viên phải tiếp cận theo hướng dạy mới, tiến trình tiết dạy và các hoạt động dạy học
cũng có sự đổi mới so với trước đây, nên không ít giáo viên chưa nắm chắc các biện
pháp dạy và học chủ yếu, còn lúng túng khi lên tiết dạy, làm ảnh hưởng rất lớn chất
lượng học tập của học sinh và mục tiêu giáo dục. Đây chính là lý do thúc đẩy chúng tôi
chọn môn Tiếng Việt để xây dựng chuyên đề. Tuy nhiên, do phạm vi tìm hiểu và thực
hiện quá rộng nên chúng tôi chọn, nghiên cứu và viết giải pháp hữu ích “ Một số giải
pháp giúp giáo viên dạy tốt tiết Luyện từ và câu ở lớp 3” này.
B/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Với mục tiêu chung của môn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân môn Luyện từ và
câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng Việt hết sức cần thiết để rèn luyện cho học sinh
kỹ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng một số dấu câu; giúp học sinh mở rộng và phát
triển vốn từ làm cho vốn ngôn ngữ của các em càng phong phú; việc giúp học sinh nắm
ý nghóa của từ, tích cực hóa vốn từ để bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ chính
1
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
xác, nói – viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong học tập và giao
tiếp.
Phân môn Luyện từ và câu ở bậc học Tiểu học nói chung và phân môn Luyện từ
và câu ở lớp 3 nói riêng thể hiện tính tổng hợp, thực hành rất rõ, vừa phù hợp với đặc
trưng của hoạt động ngôn ngữ vừa bảo đảm yêu cầu rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng
Việt cho học sinh thông qua các bài tập thực hành về từ và câu. Thông qua mục tiêu
chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của nhân tố từ ngữ trong việc sử dụng
tiếng Việt. Bên cạnh đó, phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 còn góp phần quan trọng
giúp học sinh mở rộng và phát triển vốn từ, yêu cầu học sinh nắm được một số câu
thành ngữ, tục ngữ quen thuộc, nghóa một số từ Hán Việt…
Mục tiêu phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 là: Mở rộng vốn từ theo chủ điểm,
củng cố kiến thức về các kiểu câu ( thông qua các mô hình) và thành phần câu ( thông
qua các câu hỏi) đã học ở lớp 2. Cung cấp cho học sinh có hiểu biết sơ giản về các phép
tu từ so sánh và nhân hóa ( thông qua các bài tập). Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng
dùng từ và đặt câu, sử dụng một số dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ,
nói và viết thành câu: có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong học tập, giao tiếp và
thích học Tiếng Việt.
Do đó người giáo viên dạy lớp 3 ( hay dạy bậc Tiểu học ) cần phải hội đủ các yếu
tố như: Có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này; nắm vững mục tiêu
chung cũng như mục tiêu của từng bài dạy; có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài
học, về ý đồ của sách giáo khoa và về cấu trúc của từng bài theo các thông tin thể hiện
ở sách giáo khoa; có năng lực giảng dạy nhất đònh, biết xử lý và linh hoạt sáng tạo trong
quá trình dạy – học. Đây chính là cơ sở vững chắc để giúp học sinh lónh hội kiến thức
một cách tốt nhất, các em biết vận dụng thành công trong học tập và giao tiếp.
C/ THỰC TRẠNG:
Ngay từ đầu năm học 2005 – 2006 này, tôi đã tổ chức dự giờ thăm lớp và điều tra –
trao đổi trực tiếp với giáo viên và học sinh ở lớp 3 ở tại Trường Tiểu học Quảng Trò:
Nhận thấy thực trạng hiện nay về công tác giảng dạy của giáo viên và học tập của học
sinh tại trường ngoài một số ưu điểm nhưng vẫn còn nổi lên những hạn chế cần phải
khắc phục những vấn đề sau:
1. Giáo viên:
Phần lớn giáo viên đã truyền thụ đầy đủ chính xác kiến thức và nội dung của tiết
dạy; nắm khá chắc các hoạt động dạy học cơ bản của tiết dạy, việc nghiên cứu và chuẩn
bò bài soạn khá chu đáo trước khi lên lớp. Tuy nhiên, đối với từng bài, từng tiết giáo viên
vẫn nghiên cứu chưa kỹ nên chưa hiểu hết ý đồ của sách giáo khoa, dẫn đến trong tiết
dạy giáo viên chưa biết vận dụng - phối hợp các phương pháp và hình thức dạy học cho
phù hợp theo từng nội dung kiến thức, từng dạng bài yêu cầu.
Trong quá trình lên lớp dạy một tiết Luyện từ và câu – lớp 3, giáo viên tuy đã có
2
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
nhiều cố gắng khi nghiên cứu các tài liệu tham khảo và sách giáo viên để nắm quy trình
của tiết dạy, các hoạt động dạy học cụ thể để vận dụng. Nhưng trong quá trình giảng
dạy, do đặc điểm tình hình của lớp, do khả năng giáo viên có nhiều hạn chế về kiến
thức, phương pháp…hay do những yếu tố khác nên khi vận dụng đã có những điểm tồn
tại như đưa ra các hoạt động dạy học chưa phù hợp, chưa cụ thể làm ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng tiết dạy.
Vấn đề tồn tại lớn nhất là việc đònh hướng tiến trình của một tiết dạy phân môn
Luyện từ và câu chưa cụ thể, chưa hợp lý ( thể hiện trong bài soạn ) nên giáo viên hết
sức lúng túng khi vận dụng hình thức tổ chức các hoạt động dạy học trong tiết dạy như:
Hoạt động của thầy và trò chưa theo hướng tích cực; giáo viên làm việc nhiều, chủ yếu
là làm mẫu, giảng giải; chưa có sự dẫn dắt, gợi ý để học sinh tự tìm tòi kiến thức nội
dung cần biết. Việc tổ chức các hình thức chưa hợp lý, như có bài tập cần phải sử dụng
hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên lại tổ chức làm việc chung cả lớp, có bài tập đề
bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo viên lại tổ chức trò chơi học tập
tập trung đối tượng học sinh khá giỏi. Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp,
hệ thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa phân loại
đối tượng học sinh để bồi dưỡng học sinh khá giỏi và giúp đỡ học sinh yếu kém trong
tiết học.
* Qua điều tra 3 giáo viên chủ nhiệm lớp 3 ở trường bằng phiếu trắc nghiệm với một
số câu hỏi để giáo viên đánh dấu X vào ô “có” hoặc “không”. Khi thống kê số liệu
điều tra, tôi được kết quả như sau:
STT NỘI DUNG ĐIỀU TRA
SỐ GIÁO VIÊN
GHI
CHÚ
ĐẠT CHƯA ĐẠT
1
Xác đònh đúng mục tiêu bài dạy của tiết
Luyện từ và câu
3 0
2
Tìm hiểu và nghiên cứu kỹ nội dung bài học
tiết Luyện từ và câu
3 0
3
Hiểu hết ý đồ các mạch kiến thức ở SGK ở
các tiết luyện từ và câu
2 1
4
Biết vận dụng các phương pháp và hình thức
dạy học trong tiết luyện từ và câu hợp lý
1 2
5
Có đònh hướng tiến trình của tiết luyện từ và
câu cụ thể và phù hợp
1 2
6
Đã giúp học sinh chủ động, tìm tòi kiến thức,
tích cực trong tiết Luyện từ và câu
1 2
7 Bố trí thời gian hợp lý cho từng hoạt động
dạy học – tiết dạy trong tiết Luyện từ và câu
1 2
8 Có hệ thống bài tập, câu hỏi để rèn luyện kỹ 2 1
3
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
năng các đối tượng học sinh
2. Học sinh:
Nhìn chung đa số học sinh luôn cố gắng học tập đối với phân môn này. Vốn từ
của các em được hình thành tự nhiên và từ nhận thức qua giao tiếp hàng ngày ở trường
và ngoài xã hội. Tuy nhiên, do công tác giảng dạy của một số giáo viên còn hạn chế và
các em là đối tượng học sinh lớp 3 vùng nông thôn, ít được gia đình quan tâm nên vẫn
tồn tại một số khuyết điểm sau:
Điều tra thực tế khi trò chuyện với các em, chúng tôi nhận thấy vốn từ của các em
quá nghèo nàn ( nhất là các em ở nông thôn hẻo lánh ít dân cư ), các em nói chuyện với
nhau và trả lời với chúng tôi không thành câu, nhiều khi dùng từ thiếu chính xác. Bên
cạnh đó, trong tiết dạy giáo viên ít chú trọng đến phần luyện nói đặc biệt là đối tượng
học sinh học yếu, giáo viên ít sử dụng hình thức chủ động tích cực học tập cho học sinh
nên các em đã ít có cơ hội thực hành giao tiếp Tiếng Việt ngoài xã hội, lại càng ít được
trau chuốt bồi dưỡng khả năng sử dụng Tiếng Việt trong trường học.
Hơn thế nữa, khi chúng tôi kiểm tra vở Bài tập Tiếng Việt của 40 học sinh lớp 3, thấy
rõ kỹ năng viết của các em vẫn có nhiều tồn tại như viết chưa thành câu, dùng từ còn
lặp đi lặp lại nhiều lần, chưa hay, đôi lúc chưa chính xác; kỹ năng làm bài tập chưa đúng
do xác đònh sai yêu cầu bài tập, hoặc do khả năng vận dụng kiến thức đã học vào làm
bài còn hạn chế, sử dụng dấu câu không đúng chỗ trong câu hay đoạn văn, đặt câu và
tìm câu hỏi - câu trả lời theo mẫu chưa thích hợp.
* Thông qua thăm lớp và trao đổi trực tiếp với theo các câu hỏi sau thì thống kê
được số liệu như sau:
STT NỘI DUNG ĐIỀU TRA
SỐ HỌC SINH GHI
CHÚ
ĐẠT CHƯA ĐẠT
1
Khả năng dùng từ, đặt câu khi trò chuyện với
bạn bè, cô giáo và mọi người
17 23
2
Kỹ năng viết của học sinh về: dùng từ, đặt
câu, sử dụng dấu câu, viết đoạn văn
12 28
3
Biết xác đònh yêu cầu của bài tập để làm bài
đúng theo nội dung yêu cầu
26 14
4
Có khả năng tìm câu hỏi theo mẫu để làm bài
tập luyện viết thành câu
18 22
5
Vân dụng vốn từ của bản thân để làm phong
phú thêm trong luyện nói và luyện viết
11 29
6
Biết sử dụng các dấu câu đã học khi làm bài
tập đúng ngữ pháp
13 27
7 Nắm vững nghóa của từ và biết cách vân
dụng để làm bài tập
19 21
4
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
8 Biết tìm và vận dụng các biện pháp tu từ ( so
sánh, nhân hóa) khi làm bài tập
10 30
D/ CÁC GIẢI PHÁP:
Để khắc phục tình trạng trên, chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp trợ giúp giáo
viên hướng dẫn học sinh lónh hội kiến thức trong tiết dạy, đònh hướng chung và cơ bản
nhất của “ tiến trình tiết dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3” như sau:
I/ Một số biện pháp trợ giúp giáo viên hướng dẫn học sinh lónh hội kiến thức
trong tiết dạy:
Để giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn Luyện từ và câu, giáo viên phải xem xét
hệ thống bài tập, cấu trúc tri thức Tiếng Việt cần hình thành cho học sinh. Nguyên tắc
phát triển tri thức - vốn từ Tiếng Việt và kiến thức – nguyên tắc ngữ pháp để làm cơ sở
đònh hướng chọn lọc những phương pháp – phương tiện dạy học thích hợp thực hiện một
cách có hệ thống, đạt hiệu quả bài dạy.
1/ Các bài tập về từ:
1.1 Loại bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ theo chủ điểm:
Loại bài tập này ngoài tác dụng giúp học sinh mở rộng vốn từ còn có tác dụng hình
thành và phát triển cho các em khả năng tư duy có hệ thống về mối quan hệ phương
ngữ. Về cách dạy loại bài tập tìm từ cùng chủ điểm, giáo viên cần chú ý đến từ mẫu, đó
là điểm tựa có tác dụng gợi ý đònh hướng cho học sinh trong quá trình tìm từ. Đồng thời
giáo viên hướng dẫn cho các em xác đònh đúng yêu câu của bài tập.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ chỉ gộp những người trong gia đình ( chủ điểm: Mái ấm )
M: Ông bà, chú cháu…….
Học sinh tìm: Bố mẹ, anh chò……. ( cùng chủ điểm: Mái ấm)
1.2 Loại bài tập giúp học sinh nắm nghóa của từ, mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ
nghóa:
Đối với bài tập này, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập là
hiểu nghóa của từ. Do đó, giáo viên cần dựa vào hệ thống câu hỏi để học sinh thực hiện
tìm những từ có nghóa ấy hoặc những từ đó có nghóa như thế nào. Sau đó giáo viên chữa
một phần nhỏ của bài tập làm mẫu bằng cách gọi 1 học sinh làm cho cả lớp theo dõi góp
ý. Giáo viên tiến hành tổ chức cho học sinh cả lớp làm bài tập. Cuối cùng giáo viên tổ
chức cho học sinh trong lớp trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về
kỹ năng và kiến thức: học sinh nắm nghóa của từ và biết cách vận dụng làm bài tập.
Ví dụ: Tìm các từ:
a) Chỉ trẻ em. Mẫu : thiếu niên.
b) Chỉ tính nết của trẻ em. Mẫu : ngoan ngoãn.
5
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
c) Chỉ tình cảm của người lớn đối vơi trẻ em. Mẫu : thương yêu.
Loại bài tập này, dựa trên mối quan hệ ngữ nghóa các từ. Nói cách khác là giữa các
từ có mối quan hệ với nhau về nghóa như: quan hệ đồng nghóa, gần nghóa, trái nghóa. Để
tiến hành tìm các từ ngữ có quan hệ với nhau về nghóa nhằm mở rộng và phát triển vốn
từ cho các em, làm phong phú vốn từ. Như vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh nắm
nghóa của từ cho sẵn, để đònh hướng tìm đúng từ cần tìm theo những từ mà bài tập đã
cho. Ngoài ra, giáo viên cần hướng dẫn cho các em nắm được quan hệ của từ như quan
hệ đồng nghóa là gì? ; Gần nghóa là gì?; Trái nghóa là gì? . Từ đó việc liên hệ tìm từ của
học sinh sẽ dễ dàng hơn.
Ví dụ: Tìm từ trái nghóa với từ: tốt, lười biếng, nhanh…
Tìm từ đồng nghóa với từ: chăm chỉ, siêng năng…
Tìm từ gần nghóa với từ: vui vẻ, lo lắng…
Các loại bài tập kiểu này thường có từ cho sẵn gọi là từ mẫu , từ điểm tựa làm cơ sở.
Từ đó, học sinh tự liên hệ tìm hiểu mối quan hệ của chúng. Đối với trường hợp từ cho
sẵn có nghóa trừu tượng, khó nhận biết, để trợ giúp hoạt động tìm từ cho học sinh, giáo
viên có thể giải thích nghóa của từ cho sẵn và nêu một số ngữ cảnh điển hình trong đó có
sử dụng từ cho sẵn ấy để học sinh phát hiện từ. Khi đó việc tìm từ của các em sẽ đúng
hướng, đúng yêu cầu của bài tập và đơn giản hơn nhiều.
Ví dụ: Tìm một số từ có tiếng bóng hoặc có tiếng chạy.
1.3/ Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ:
Dạng bài tập này dựa trên quan hệ liên tưởng có tác dụng rất lớn trong việc giúp học
sinh mở rộng và phát triển vốn từ. Về cách dạy các dạng bài tập này, giáo viên hướng
dẫn các em lần lượt tự chọn và ghép với các tiếng còn lại. Nếu tạo ra từ ghép quen
thuộc hoặc quen dùng thì các em tự ghép được.
Ví dụ: Hãy kể các môn thể thao bắt đầu bằng tiếng:
a) Bóng Mẫu: bóng đá, bóng bàn, bóng chuyền.
b) Chạy
c) Đua
d) Nhảy
1.4/ Loại bài tập tìm từ ngữ cùng chủ điểm:
Loại bài tập này, ngoài tác dụng giúp học sinh mở rộng vốn từ, còn có tác dụng hình
thành và phát triển cho các em khả năng tư duy có hệ thống về mối quan hệ phương
ngữ. Về cách dạy loại bài tập tìm từ cùng chủ điểm, giáo viên cần chú ý đến từ mẫu, đó
là điểm tựa có tác dụng gợi ý đònh hướng cho học sinh trong quá trình tìm từ. Đồng thời
giáo viên hướng dẫn cho các em xác đònh đúng yêu câu của bài tập.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ chỉ gộp những người trong gia đình ( chủ điểm: Mái ấm )
6
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
M: Ông bà, chú cháu…….
Tìm những từ nói về tình cảm yêu thương giữa anh chò em (chủ điểm: Anh em)
M: đùm bọc, khuyên bảo, chăm sóc……
1.5/ Loại bài tập cung cấp về từ loại:
Đối với loại bài tập này, ở lớp 3 thường tập trung phát triển vốn từ cho học sinh và
lồng ghép trong nhiều dạng bài khác nhau. Những từ loại ở đây chỉ là những kiến thức
sơ giản về danh từ, động từ, tính từ như cung cấp cho các em nắm được những từ chỉ
người, con vật, đồ vật; từ chỉ hoạt động, trạng thái; từ chỉ đặc điểm, tính chất. Việc
hướng dẫn làm các bài tập này, giáo viên cần chú ý dẫn dắt các em dựa vào kinh
nghiệm sống của bản thân là chủ yếu để vận dụng vào làm bài, giáo viên tránh giải
thích dài dòng hoặc sa vào lý thuyết. Qua việc cung cấp các từ loại, giáo viên cần giúp
các em biết dùng các từ loại đó đặt câu cho phù hợp.
Ví dụ: Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân, trên cỏ.
a) Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên?
b) Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách?
2/ Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu:
2.1/ Loại bài tập dùng từ đặt câu:
Loại bài sử dụng từ này chủ yếu luyện cho học sinh biết kết hợp các từ ngữ trong câu
có tác dụng rèn luyện tư duy hệ thống các từ cho các em. Như vậy khi các từ kết hợp với
nhau để tạo nên câu thì ở chúng hình thành mối quan hệ về ý nghóa và quan hệ về ngữ
pháp. Do đó muốn “dùng từ đặt câu” đúng thì các em phải thiết lập được mối quan hệ
về ý nghóa và quan hệ ngữ pháp giữa các từ phải hợp lý. Đối với kiểu bài tập này không
chỉ liên quan đến vấn đề ngữ pháp nên yêu cầu giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng “lựa
chọn từ, kết hợp từ” để tạo thành câu. Giáo viên lưu ý đến việc hưỡng dẫn cho các em
biết dựa vào đặc điểm của sự vật và hiện tượng để phân loại, phân nhóm từ; mỗi loại và
mỗi nhóm từ này là một hệ thống ngữ nghóa cho việc dùng từ đặt câu chính xác hơn.
Ví dụ: Dùng mỗi từ ngữ sau để đặt câu theo mẫu Ai là gì?: bác nông dân, em trai
tôi, những chú gà con, đàn cá.
2.2/ Loại bài tập “ đặt câu theo các kiểu câu Ai ( cái gì, con gì)? Là gì?( ở đâu, làm gì,
bằng gì). Ai thế nào? và những bộ phận chính của các kiểu câu ấy”:
7
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
Giúp học sinh biết nhận ra và biết đặt câu theo các kiểu câu đơn, ngay những bài tập
đầu tiên ở dạng này, giáo viên cần cho các em nắm rõ yêu cầu của đề bài và bám theo
mẫu cho sẵn, tập trung uốn nắn trong quá trình luyện nói cho học sinh để giúp các em
biết vận dụng tốt khi làm bài tập
Ví dụ: Đặt câu theo mẫu Ai thế nào? để miêu tả:
a) Một bác nông dân.
b) Một bông hoa trong vườn.
c) Một buổi sớm mùa đông.
Mẫu: Buổi sớm hôm nay lạnh cóng tay.
2.3/ Loại bài tập sử dụng dấu câu:
Loại bài tập này giúp các em bước đầu có ý thức và biết đăt dấu chấm, dấu chấm
hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy vào đúng chỗ. Trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài
tập, giáo viên cần đảm bảo quy trình sau: Cho các em đọc và xác đònh đúng yêu cầu của
bài tập, học sinh được tham gia giải một phần bài tập yêu cầu các em nắm được đặc
điểm của câu thông qua đọc nhẩm để tư duy tìm và điền dấu câu cho thích hợp ( dựa vào
vốn sống của các em, ở mức độ kiến thức lớp 2 không có phần bài học).
Ví dụ: Em hãy chọn dấu chấm hay dấu phẩy để điền vào chỗ trống ( )?
TRÁI ĐẤT VÀ MẶT TRỜI
Tuấn lên bảy tuổi ( ) em rất hay hỏi ( ) một lần ( ) em hỏi bố:
- Bố ơi, con nghe nói trái đất quay xung quanh mặt trời. Có đúng thế không bố?
- Đúng đấy ( ) con ạ! – Bố Tuấn đáp.
- Thế ban đêm không có mặt trời thì sao?
-
2.4/ Loại bài tập đặt câu theo mẫu hoặc tìm bộ phận của câu thông qua đăt câu hỏi:
Với loại bài tập trên giúp học sinh biết tư duy có hệ thống về ngữ nghóa và nắm vững
hơn về cấu tạo câu để thực hành khi nói và viết. Giáo viên cần lưu ý đến đối tượng học
sinh học yếu và giúp các em bằng cách gợi ý, dẫn dắt hướng làm bài thật dễ hiểu, có
như vậy các em mới làm được.
Ví dụ: Dựa theo nội dung các bài tập đọc đã học ở tuần 3, tuần 4, hãy đặt câu theo
mẫu Ai là gì? để nói về:
a) Bạn Tuấn trong truyện Chiếc áo len.
b) Bạn nhỏ trong bài thơ Quạt cho em ngủ.
c) Bà mẹ trong truyện Người mẹ.
d) Chú chim sẻ trong truyện Chú sẻ và bông hoa bằng lăng.
Ví dụ: Tìm các bộ phận của câu:
- Trả lời câu hỏi “ Ai ( con gì, cái gì)?”.
- Trả lời câu hỏi “ Làm gì?”.
8
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
a) Đàn sếu đang sải cách trên cao.
b) Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về.
c) Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi.
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho các bộ phận câu được in đậm:
a) Mấy bạn học trò bỡ ngỡ đứng nép bên người thân.
b) Ông ngoại dẫn tôi đi mua vở, chọn bút.
c) Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng.
3/ Các bài tập về biện pháp tu từ: so sánh và nhân hóa:
Thông qua các bài tập về biện pháp tu từ nhằm giúp các em có nhận biết về các
biện pháp tu từ như: biết phép so sánh, phép nhân hóa. Qua đó, làm cơ sở để các em
bước đầu sử dụng biện pháp tu từ vào việc dùng từ, đặt câu. Loại bài tập này, đòi hỏi
mức đôï phát triển tư duy về ngôn ngữ của các em cao hơn nhiều so với các dạng bài tập
đã nêu ở trên. Do đó. giáo viên phải có vốn kiến thức vững vàng, biết sử dụng thủ pháp
và hình thức dạy học sáng tạo để tạo cho các em hứng thú tìm tòi kiến thức nhờ chủ
động làm các bài tập. Yêu cầu đặt ra là phải cho học sinh xác đinh đúng trọng tâm yêu
cầu của bài tập, phải hướng cho học sinh làm bài tập từ bước dễ làm đến bước phức tạp
hơn. Giáo viên có thể giúp và cùng học sinh làm một phần bài tập, sau đó hướng dẫn
cho cả lớp làm bài tập, trao đổi nhận xét và giáo viên chốt lại kiến thức cần cung cấp
( kiến thức học sinh cần nắm).
Ví dụ: Tìm những sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ dưói đây:
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.
* Sự vật được so sánh: quả dừa được so sánh với đàn lợn con
tàu dừa được so sánh với chiếc lược
Ví dụ: Đọc và trả lời câu hỏi:
Đồng làng vương phút heo may
Mầm cây tỉnh giấc, vườn đầy tiếng chim.
Hạt mưa mải miết trốn tìm
Cây đào trước cửa lim dim mắt cười.
* Sự vật được nhân hóa:
Mầm cây ( tỉnh giấc ), hạt mưa ( mải miết trên cây ), cây đào ( lim dim mắt )
II/ Tiến trình tiết dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3:
TIẾN TRÌNH TIẾT DẠY PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
I)Mục tiêu :
9
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
- Kiến thức : Giúp học sinh bước đầu làm quen : mở rộng vốn từ theo chủ điểm,
củng cố kiến thức về các kiểu câu ( thông qua các mô hình) và thành phần câu ( thông
qua các câu hỏi) đã học ở lớp 2, Cung cấp cho học sinh có hiểu biết sơ giản về các phép
tu từ so sánh và nhân hóa ( thông qua các bài tập). ( dựa vào mục tiêu từng bài ở SGV )
- Kỹ năng : Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các
dấu câu. Rèn kỹ năng dùng từ, nói và viết thành câu: có ý thức sử dụng tiếng Việt văn
hóa trong học tập, giao tiếp. ( dựa vào mục tiêu từng bài ở SGV )
- Giáo dục : Giáo dục các em có thói quen dùng từ đúng, làm giàu vốn ngôn ngữ
tiếng Việt cho các em trong giao tiếp và vận dụng trong học tập, giáo dục tình cảm học
sinh thêm yêu tiếng Việt. ( dựa vào mục tiêu từng bài ở SGV )
II)Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên: tuỳ theo nội dung và kiến thức từng bài để chuẩn bò.
- Học sinh : Sách giáo khoa, vở Bài tập và một số đồ dùng học tập theo nội dung và
kiến thức từng bài để chuẩn bò.
III)Các hoạt động chủ yếu : thời gian cho tiết dạy 35 phút.
1) Kiểm tra bài cũ : thời gian 5 phút
Chọn 1 trong 2 cách sau :
- Giáo viên kiểm tra và nhận xét cụ thể một số học sinh làm lại các bài tập của tiết
trước, chú ý đến kiến thức trọng tâm, giáo viên đánh giá ghi điểm.
- Gọi 2 học sinh lên bảng làm bài tập của tiết trước, sau đó cho lớp nhận xét chú ý
đến kiến thức trọng tâm, giáo viên sửa sai( nếu có) đánh giá và ghi điểm.
2) Bài mới: thời gian 20 phút
a) Giới thiệu bài :
Chọn 1 trong 2 cách sau :( tối đa 2 phút)
- Giới thiệu trực tiếp : Giáo viên nêu nội dung kiến thức trọng tâm để đưa ra tên
bài dạy. ( 1 phút )
- Giới thiệu gián tiếp : Giáo viên nêu tình huống có vấn đề ( dựa trên việc làm bài
tập hoặc bước hình thành kiến thức) cần giải quyết và sau đó giải quyết xoay quanh vấn
đề đã nêu, cho học sinh tự rút ra nội dung kiến thức cần cung cấp.
b) Tìm hiểu, thực hành luyện tập : 18 phút
Dạng bài có 3 bài tập :
Bài 1 : ( miệng ) 5 phút – đây là dạng bài tập luyện nói .
- 1 học sinh đọc yêu cầu của bài tập, lớp đọc thầm bài tập ở SGK.
- Giáo viên nêu câu hỏi gợi ý, học sinh tự tìm ra những nội dung, yêu cầu cần thực
hiện.
- Giáo viên chốt lại các yêu cầu cần làm, chú ý những bài tập làm theo mẫu.
- Học sinh ( 5 đến 7 em ) lần lượt phát biểu ý kiến của mình.
10
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
- Cho lớp nhận xét lần lượt từng ý kiến của bạn, chú ý đến nội dung có đầy đủ
không ? rõ ràng mạch lạc chưa ? Giáo viên bổ sung, sửa sai ( nếu có ) và đánh giá, cần
ghi điểm những ý kiến hay và động viên kòp thời những học sinh có tiến bộ so với các
tiết học trước.
- Giáo viên chuyển ý để thực hiện bài 2
Bài 2 : ( miệng ) 5 phút Cách làm tương tự bài 1. chú ý trong chương trình có một số
bài tập ở dạng luyện viết thì thực hiện như cách làm bài 3
- 1 học sinh đọc yêu cầu của bài tập, lớp đọc thầm bài tập ở SGK.
- Giáo viên nêu câu hỏi gợi ý, học sinh tự tìm ra những nội dung, yêu cầu cần thực
hiện.
- Giáo viên chốt lại các yêu cầu cần làm, chú ý những bài tập làm theo mẫu.
- Học sinh ( 5 đến 7 em ) lần lượt phát biểu ý kiến của mình.
- Cho lớp nhận xét lần lượt từng ý kiến của bạn, chú ý đến nội dung có đầy đủ
không ? rõ ràng mạch lạc chưa ? Giáo viên bổ sung, sửa sai ( nếu có ) và đánh giá, cần
ghi điểm những ý kiến hay và động viên kòp thời những học sinh có tiến bộ so với các
tiết học trước.
- Giáo viên chuyển ý để thực hiện bài 3
Bài 3 : ( viết ) 8 phút - đây là dạng bài tập luyện viết.
- 1 học sinh đọc yêu cầu của bài tập, lớp đọc thầm bài tập ở SGK.
- Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để học sinh tự rút ra những nội dung yêu cầu
trọng tâm cần luyện viết.
- Giáo viên dùng thước gạch dưới những yêu cầu trọng tâm, chốt lại các yêu cầu để
học sinh luyện viết cần chú ý.
- Học sinh làm bài vào vở bài tập ( hoặc vở ), giáo viên theo dõi uốn nắn.
- Giáo viên thu và chấm một số bài sau đó nhận xét cụ thể và sửa sai cho học sinh
trước lớp. Đồng thời dưới lớp học sinh đổi vở kiểm tra lẫn nhau.
Dạng bài có 4 bài tập : Quy trình thực hiện các dạng bài tương tự như trên.
Bài 1 : ( miệng ) 4 phút
Bài 2 : ( miệng ) 4 phút
Bài 3 : ( miệng ) 4 phút
Bài 4 : ( viết ) 6 phút
3) Củng cố – dặn dò : ( 5 phút )
- Giáo viên dùng hình thức dạy học phù hợp để giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến
thức trọng tâm mới học, học sinh phải nắm được kiên thức ngay tại lớp. Ví dụ dùng
các hình thức sau : Thi tiếp sức, trò chơi học tập ………
- Cho học sinh liên hệ, áp dụng thực tế ( nếu được ).
- Giáo dục học sinh theo mục tiêu bài học ( nếu thấy cần thiết ).
- Dặn những học sinh chưa làm bài kòp cho tiếp tục làm ở nhà.
11
Giải pháp hữu ích
: GIẢI PHÁP GIÚP GV DẠY TỐT TIẾT LUYỆN TỪ VÀ CÂU
LỚP 3
E/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
I/ Kết quả đạt được:
- Trong quá trình nghiên cứu sách giáo viên, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo,
3 giáo viên dạy lớp 3 ở trường tuểu học Quảng Trò chúng tôi đã nắm được tính hệ thống,
mối quan hệ, các nội dung – kiến thức trong từng bài theo chủ đề chủ điểm hàng tuần,
giúp cho việc soạn bài có chiều sâu hơn.
- Công tác soạn bài và giảng dạy: 100% giáo viên có chuyển biến rõ rệt trong soạn
bài, đã đầu tư tốt hơn ở nội dung bài soạn. Kết quả về chất lượng giáo án đến nay có các
bài soạn về phân môn Luyện từ và câu đạt loại khá. 100% giáo viên đã bám đúng tiến
trình của tiết dạy phân môn Luyện từ và câu, xử lý tình huống hợp lý, sử dụng ĐDDH đã
được nâng lên, 100% chất lượng tiết dạy đạt loại Đạt yêu cầu trở lên. Hơn 95% học sinh
biết và thực hành bài tập theo đúng yêu cầu, có tiến bộ khi áp dụng vào thực tế để giao
tiếp.
II/ Bài học kinh nghiệm:
- Như vậy qua việc thực hiện đề tài này, giáo viên chúng ta cần phải nắm chắc
mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu, mục tiêu cụ thể của từng bài dạy ở phân môn
này. Để thực hiện các mục tiêu rèn luyện tư duy về ngôn ngữ cho học sinh và cung cấp
những kiến thức, hiểu biết sơ giản về tiếng Việt – về tự nhiên, xã hội, con người – về
văn hoá; bồi dưỡng cho các em tình yêu thiên nhiên đất nước thông qua môn học, người
giáo viên luôn luôn tự học tập bồi dưỡng về kiến thức và nghiệp vụ cho bản thân, đặc
biệt là phải tự rèn luyện nhiều hơn nữa cho các em việc vận dụng các kỹ năng giao tiếp
tiếng Việt, nhất là đối tượng học sinh những lớp đầu cấp còn nghèo về vốn từ và hạn
chế khả năng diễn đạt thành câu.
Quảng Trò, ngày 8 tháng 12 năm 2005
NGƯỜI VIẾT
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐ NHÀ TRƯỜNG
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Xếp loại : ………………. Phạm Thò Thùy Trang
CHỦ TỊCH HĐ
LÊ KIM NHỎ
12