Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

địa lí địa phương quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.6 KB, 16 trang )

Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
Từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng đất Quảng Trị nằm trong
bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời Hán thuộc (từ năm
179 Trước Công nguyên đến năm 192) Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam.
Cuối thế kỷ thứ 2, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, nhân dân quận Nhật
Nam đã cùng nhân dân trong vùng Tượng Lâm nổi dậy khởi nghĩa giành quyền
tự chủ. Khởi nghĩa đã giành thắng lợi lấy tên nước là Lâm ấp (từ đèo Hải Vân
đến đèo Ngang).
Sau khi giành được độc lập tự chủ, quốc gia phong kiến Đại Việt không
ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Để loại trừ mọi uy hiếp ở phía Nam và phá tan âm
mưu của nhà Tống câu kết với Chămpa đánh phá Đại Việt, năm 1069, vua Lý
Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên
phong đánh thẳng vào Kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chămpa là Chế Củ đưa về
Thăng Long. Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố Chính, Đại Lý và Ma
Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về
nước.
Nhà Lý đổi châu Đại Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu
Minh Linh. Châu Minh Linh thuở ấy là vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía Bắc,
trong đó có các huyện: Gio Linh, Cam Lộ, Đa Krông, một phần đất của thành
phố Đông Hà, Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay.
Năm 1306, vua Chăm là Chế Mân dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh
Tông xin cưới công chúa Huyền Trân và dâng 2 châu: Châu Ô và châu (Rí) Lý
làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và
nhận hai châu: Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu
Rí thành Hóa Châu. Thuận Châu chính là dải đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào
phía Nam, trong đó có các huyện: Hải Lăng, Triệu Phong, thị xã Quảng Trị và
một phần đất thành phố Đông Hà ngày nay. Năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua
Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử. Từ đây vùng
đất Thuận Hóa thuộc khu vực "Đàng trong" của các chúa Nguyễn.
Trong quá trình phân tranh Trịnh - Nguyễn, với yêu cầu nhanh chóng củng


cố và mở rộng thế lực, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách kinh tế, xã
hội tích cực hơn so với tập đoàn phong kiến Trịnh (Đàng ngoài). Họ cho phép
người nước ngoài nhập cư vào Đàng trong, đặc biệt là người Hoa Hàng loạt tụ
cư của người Hoa với lối sống và phương thức làm ăn của họ đã làm phong phú
hoạt động kinh tế, xã hội Đàng trong. Nhờ có tướng tài, binh mạnh, lũy vững nên
quân Nguyễn đã chặn được quân Trịnh ở các chiến lũy trên đất Quảng Bình, lấy
sông Gianh làm giới tuyến chia cắt Đàng trong, Đàng ngoài.
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
1
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ (1771 - 1786) Nguyễn Huệ ra dựng
nghiệp ở Phú Xuân - Thuận Hóa và là người có công xóa bỏ ranh giới sông
Gianh, xóa bỏ sự chia cắt Đàng trong, Đàng ngoài.
Ngày 1-6-1802, Nguyễn Ánh lên ngôi đặt niên hiệu Gia Long, đã lập dinh
Quảng Trị bao gồm đất đai các huyện: Hải Lăng, Đặng Xương (tên cũ là Vũ
Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ. Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ
kinh sư Huế. Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa lệ thuộc đạo Cam Lộ. Năm 1827,
dinh Quảng Trị đổi là trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi là tỉnh
Quảng Trị. Năm 1853, hợp nhất tỉnh Quảng Trị với phủ Thừa Thiên thành đạo
Quảng Trị. Năm 1876, lập lại tỉnh Quảng Trị. Ngày 3-5-1890, toàn quyền Đông
Dương ra Nghị định hợp Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị.
Ngày 23-1-1896, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định rút Quảng Trị ra khỏi
địa hạt thuộc quyền công sứ Đồng Hới, cùng Thừa Thiên dưới quyền công sứ
Trung Kỳ, đặt một phó Công sứ đại diện cho Khâm sứ ở Quảng Trị. Năm 1900,
toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên lập
thành một tỉnh riêng biệt gồm 4 phủ: Triệu Phong (Thuận Xương cũ), Hải Lăng,
Vĩnh Linh (Chiêu Linh cũ) Cam Lộ và huyện Gio Linh. Ngày 17-2-1906, toàn
quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ). Năm 1908,
phủ Cam Lộ tách 3 tổng người Kinh lập thành huyện Cam Lộ và 9 tổng người

dân tộc thiểu số lập thành huyện Hướng Hóa
Sau Hiệp định Giơnevơ (ký kết ngày 20-7-1954), sông Bến Hải được chọn
làm giới tuyến quân sự tạm thời, tỉnh Quảng Trị tạm thời chia làm hai vùng:
Vùng bờ Nam sông Bến Hải là tỉnh Quảng Trị, gồm các huyện: Hải Lăng, Triệu
Phong, Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa, xã Vĩnh Liêm và một phần của xã Vĩnh
Sơn (Vĩnh Linh), thị xã Quảng Trị, do chính quyền miền Nam quản lý (thuộc chế
độ thực dân kiểu mới của Mỹ); hơn 3/4 địa bàn và dân cư của huyện Vĩnh Linh ở
phía Bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
quản lý, được thành lập đặc khu. Đặc khu Vĩnh Linh tương đương đơn vị hành
chính cấp tỉnh, trực thuộc Trung ương.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), Tổ quốc thống
nhất, tỉnh Quảng Trị và đặc khu Vĩnh Linh cùng cả nước bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ tháng 3-1976, thực hiện Quyết định của Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quảng Trị cùng hai tỉnh Quảng
Bình, Thừa Thiên và đặc khu Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh mới là Bình-Trị-
Thiên. Tháng 7-1989, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
(khóa VIII, kỳ họp thứ 5) quyết định chia tỉnh Bình-Trị-Thiên thành 3 tỉnh:
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Ngày 1-7-1989, Quảng Trị trở thành
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
2
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc Trung ương. Từ năm 1990, có sự thay đổi về
địa giới và tên gọi một số huyện, thị xã như sau: Huyện Bến Hải được tách ra
thành lập hai huyện: Vĩnh Linh, Gio Linh; thị xã Đông Hà tách ra thành lập
huyện Cam Lộ và thị xã Đông Hà (tỉnh lỵ Quảng Trị); huyện Triệu Hải tách ra
thành lập hai huyện: Hải Lăng, Triệu Phong và thị xã Quảng Trị. Năm 1996,
huyện Hướng Hóa tách ra thành lập huyện mới Đakrông và Hướng Hóa. Từ năm
2000, toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã (trong đó có 7 huyện, 2
thị xã), có 136 xã, phường và thị trấn.

Theo kết quả điều tra ngày 01/04/2009 dân số tỉnh Quảng Trị là 597.985
người. Quảng Trị hiện bao gồm 1 Thành phố, 1 Thị xã và 8 huyện:
• Thành phố Đông Hà
• Thị xã Quảng Trị
• Huyện Cam Lộ
• Huyện Đảo Cồn Cỏ
• Huyện Đa Krông
• Huyện Gio Linh
• Huyện Hải Lăng
• Huyện Hướng Hóa
• Huyện Triệu Phong
• Huyện Vĩnh Linh
Khi tái lập tỉnh Quảng Trị theo Nghị quyết ngày 30 tháng 6 năm 1989 của
Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5, tỉnh có 1 thị xã: Đông Hà và 3 huyện: Bến
Hải, Hướng Hóa và Triệu Hải.
Theo Quyết định số 134-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) Việt Nam ngày 16 tháng 9 năm 1989, thị xã Quảng Trị được thành lập trên
cơ sở thị trấn Quảng Trị (thuộc huyện Triệu Hải).
Theo Quyết định số 91-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
Việt Nam ngày 23 tháng 3 năm 1990, huyện Bến Hải chia thành 2 huyện Gio
Linh và Vĩnh Linh, huyện Triệu Hải chia thành 2 huyện Triệu Phong và Hải
Lăng.
Thị xã Đông Hà được nâng lên thành thành phố theo nghị quyết 33/NQ-
CP ngày 11 tháng 8 năm 2009 cùa Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Thành phố
Đông Hà được lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị
hành chính trực thuộc của thị xã Đông Hà.
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
3
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”

Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Phía bắc
giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía tây giáp nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành
chính của tỉnh là thành phố Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam thủ đô Hà
Nội và 1.112 km về phía bắc thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây có sông Bến Hải -
cầu Hiền Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam -Địa hình đa dạng bao gồm
núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam.
Quảng Trị có nhiều sông ngòi với 5 hệ thống sông chính là sông Thạch Hãn,
sông Bến Hải, sông Ô Lâu, sông Xê Pôn và sông Sê Păng Hiêng. Sông ở các
huyện miền núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ.Dân số - Dân tộc:
Theo kết quả điều tra ngày 1/4/1999, tỉnh Quảng Trị có 575.000 người. Trong
đó, số người trong độ tuổi lao động xã hội toàn tỉnh là 293.000 người, chiếm
51% dân số. Trên địa bàn tỉnh có 3 dân tộc chính: Ðông nhất là dân tộc Kinh
chiếm khoảng 91%, dân tộc Vân Kiều chiếm khoảng 7,3% còn lại là dân tộc Pa
Kô và một số ít dân tộc khác chiếm 1,7%.
Trình độ dân trí: Tính đến năm 2002, đã phổ cập giáo dục tiểu học cho 9
huyện, thị xã với số xã và thị trấn là 136; số học sinh phổ thông năm học 2001 -
2002 là 139.136 em; số giáo viên phổ thông là 4.965 người. Số thầy thuốc toàn
tỉnh có 1.335 người, trong đó bác sĩ có 359 người, bình quân có 5,9 bác sỹ/1 vạn
dân.
Nhìn đại thể, địa hình núi, đồi và đồng bằng Quảng Trị chạy dài theo
hướng tây bắc - đông nam và trùng với phương của đường bờ biển. Sự trùng hợp
này được thấy rõ trên dường phân thủy giữa Trường Sơn Đông và Trường Sơn
Tây. Ở Quảng Bình, các đỉnh cao nhất đều nằm ở giữa đường biên giới Việt Lào
nhưng ở Quảng Trị, các đỉnh cao lại nằm sâu trong lãnh thổ nớc ta. Các sông lớn
như Sêbănghiên, Sêpôn đều bắt nguồn từ Việt Nam chảy qua Lào.
Tuy nhiên nếu xem xét địa hình ở quy mô nhỏ hơn, từng dãy núi, từng dải
đồi thì địa hình lại có hướng song song với các thung lùng sông lớn như Cam Lộ,
Thạch hãn, Bến Hải
Tính phân bậc của địa hình từ tây sang đông thể hiện khá rõ ràng. mếu ở phía

tây của đường phân thủy địa hình nghiêng khá thoải, bị phân cắt yếu thì ở phía
đông đường phân thủy chuyển nhanh từ núi trung bình xuống đồng bằng. Các
bạc địa hình bị phân cắt khá mạnh bởi mạng lưới sông suối dỳ đặc với trắc diện
dọc và ngang đều dốc. Đồng bằng hẹp, phía tây thì lộ đá gốc, phía đông thì địa
hình cát. Dải địa hình đồng bằng cấu tạo bới phù sa ở giữa lại thấp và dễ dàng bị
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
4
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, nơi chuyển tiếp giữa
hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý trên đất liền Quảng Trị ở vào vị trí:
• Cực bắc là 17010' vĩ độ bắc, thuộc địa phận thôn Mạch Nước, xã Vĩnh
Thái, huyện Vĩnh Linh.
• Cực nam là 16018' vĩ độ bắc thuộc bản A Ngo, xã A Ngo, huyện
Đakrông.ngập úng vào mùa mưa lũ.
• Cực đông là 1070 23'58 kinh độ đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải Khê,
Hải Lăng.
• Cực tây là 106028'55 kinh độ đông, thuộc địa phận đồn biên phòng Cù
Bai, xã Hướng Lập, Hướng Hóa.
Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian lãnh thổ
mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến Bắc
bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển đông. Cách thủ đô Hà Nội 582 km về
phía Bắc, thành phố Hồ Chí Minh 1.121 km về phía Nam.
Phía bắc Quảng Trị giáp huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), phía nam giáp hai
huyện A Lươí, Phong điền (Thừa Thiên - Huế), phía tây giáp tỉnh Savanakhet
(Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), với chiều dài biên giới chung với Lào là 206
km, được phân chia bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía đông giáp biển đông với
chiều dài bờ biển 75 km và được án ngữ bởi đảo Cồn Cỏ, có tọa độ địa lý
1709'36 vĩ bắc và 107020' kinh đông, đảo Cồn Cỏ cách bờ biển (Mũi Lay) 25
km, diện tích khoảng 4 km2. Chiều ngang trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều

ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất 52,5 km) Tuy với một diện tích
không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên
Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ và khai thác biển
Đông, giao lưu giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước cũng như lưu thông thuận
lợi với các nước phía tây bán đảo Đông dương, các nước khác trong khu vực
Đông Nam Á và thế giới qua Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9 ra cảng Cửa Việt.
Quảng Trị nằm ở phía nam của Bắc Trung Bộ, trọn vẹn trong khu vực
nhiệt đới ẩm gió mùa, là vùng chuyển tiếp giữa hai 2 miền khí hậu. Miền khí hậu
phía bắc có mùa đông lạnh và phía nam nóng ẩm quanh năm. ở vùng này khí hậu
khắc nghiệt, chịu hậu quả nặng nề của gió tây nam khô nóng, bão, mưa lớn, khí
hậu biến động mạnh, thời tiết diễn biến thất thường, vì vậy trong sản xuất và đời
sống nhân dân gặp không ít khó khăn.
Do nằm trọn vẹn trong nội chí tuyến bắc bán cầu, hàng năm có hai lần mặt
trời đi qua đỉnh (tháng 5 và tháng 8), nền bức xạ cao (Cực đại vào tháng 5, cực
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
5
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
tiểu vào tháng 12). Tổng lượng cán cân bức xạ cả năm ở Quảng Trị dao động
trong khoảng 70-80 Kcalo/cm2 năm), những tháng mùa hè gấp 2-3 lần những
tháng mùa đông.
Tổng số giờ nắng trung bình năm ở Quảng Trị dao động từ 1700-1800 giờ.
Số giờ nắng nhất vào tháng 7 (240-250 giờ).
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 20-250C, tháng 7 cao nhất còn tháng
1 thấp nhất. Nhiệt độ tối cao trong năm vào các tháng nóng, ở vùng đồng bằng
trên 400C và ở vùng núi thấp 34-350C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm có thể
xuống tới 8-100C ở vùng đồng bằng và 3-50C ở vùng núi cao. Lượng mưa: Mùa
mưa diễn ra từ tháng 9 đến tháng 1, lượng mưa khoảng 75-85% tổng lượng mưa
cả năm. Các tháng mưa kéo dài, lớn là tháng 9-11 (khoảng 600 mm). Tháng ít
mưa nhất là tháng 2- tháng 7 (thấp nhất là 40mm/tháng). Tổng lượng mưa cả

năm dao động khoảng 2000-2700 mm, số ngày mưa 130-180 ngày. Độ ẩm: độ
ẩm tương đối trung bình, tháng ẩm 85-90%, còn tháng khô thường dưới 50%, có
khi xuống tới 30%. Thành phố Đông Hà vào mùa hè bị khô cạn hơn cả, vùng
Khe Sanh (Hướng Hóa) có khí hậu quanh năm ẩm.
Gió tây nam khô nóng, thường gọi là "gió Lào", thường xuất hiện vào
tháng 3-9 và gay gắt nhất tháng 4-5 đến tháng 8. Hàng năm có 40-60 ngày khô
nóng. Mùa bão ở Quảng Trị diễn ra từ tháng 7 đến tháng 11, trong đó tháng 9-10
nhiều bão nhất. Theo số liệu thống kê trong 98 năm có 75 cơn bão đổ bộ vào khu
vực Bình Trị Thiên, bình quân 0,8 cơn bão/năm ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng
Trị, có năm không có bão, nhưng lại có năm liên tiếp 2-3 cơn bão đổ bộ trực tiếp.
ảnh hưởng tai hại nhất là bão gây ra gió xoáy giật kèm theo mưa to dài ngày (2-5
ngày) gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Tỷ lệ mưa do bão và áp thấp nhiệt đới ngây ra
chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7-10,. Lượng mưa do một cơn
bão gây ra khoảng 300-400 mm, có khi 1000mm.
Tỉnh có đường sắt Bắc Nam, đường quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh
chạy qua. Đặc biệt có đường 9 nối với đường liên Á qua cửa khẩu quốc tế Lao
Bảo sang Lào. Dự án sân bay Quảng Trị ở Gio Linh, cách Đông Hà 7 km về phía
bắc đang được chuẩn bị thủ tục triển khai đầu tư. Cảng biển Mỹ Thủy, Đại lộ
Đông Tây bảy làn xe nối từ cảng Mỹ Thủy qua cửa khẩu Lao Bảo, có tổng vốn
đầu tư khoảng 150 triệu USD
Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi
bị thả bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch
sử:
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
6
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
• Cầu treo Đakrông
• Đường mòn Hồ Chí Minh.
• Thành cổ Quảng Trị (là một nơi gắn liền với chiến dịch mùa hè 1972).

• Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
• Địa đạo Vịnh Mốc
• Căn cứ Khe Sanh
• Căn cứ Cồn Tiên - Dốc Miếu
• Hàng rào điện tử McNamara
• Bãi tắm Cửa Tùng (được các sĩ quan Hải quân Pháp mệnh danh là "Nữ
hoàng của các bãi tắm" ở Đông Dương.)
• Biển Mỹ Thủy
1. Tài nguyên đất
Tỉnh Quảng Trị có tổng diện tích đất tự nhiên là 474.575 ha. Trong đó, diện
tích đất nông nghiệp là 68.929 ha, chiếm 14,52%; diện tích đất lâm nghiệp có
rừng là 149.813 ha, chiếm 31,56%; diện tích đất chuyên dùng là 18.256 ha,
chiếm 3,84%; diện tích đất ở là 3.590 ha, chiếm 0,75%; diện tích đất chưa sử
dụng và sông suối đá là 233.985 ha, chiếm 49,30%.
Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây hàng năm là 40.899 ha,
chiếm 59,33%; diện tích đất trồng cây lâu năm là 18.038 ha, chiếm 26,16%; diện
tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 1.937 ha, chiếm 2,81%.
Diện tích đất trống, đồi núi trọc cần phủ xanh là 194.148 ha; đất có mặt
nước chưa sử dụng là 2.458 ha; đất bằng chưa sử dụng là 22.807 ha.
1.2. Tài nguyên rừng
Ðến năm 2002, toàn tỉnh có 152.661 ha rừng tự nhiên và rừng trồng, trong
đó rừng tự nhiên 101.518 ha, rừng trồng 51.143 ha.
Các khu bảo tồn thiên nhiên: Có rừng bảo tồn Rú Lịnh ở xã Vĩnh Hiền
huyện Vĩnh Linh và rừng bảo tồn Tà Long ở xã Tà Long huyện ÐakRông.
1.3. Tài nguyên biển
Tỉnh Quảng Trị có bờ biển dài gần 75km chạy theo hướng Ðông Bắc - Tây
Nam. Dọc bờ biển có hai cửa sông lớn là Cửa Tùng và Cửa Việt.
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
7
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng

Trị”
Theo những khảo sát gần đây thì thực vật phù du vùng biển ven bờ Quảng
Trị thuộc vào loại giàu dinh dưỡng. Trung bình trong 1m3 nước biển có khoảng
5.104 tế bào sinh vật phù du, là nguồn thức ăn phong phú cho sự phát triển tôm
cá tự nhiên và nuôi trồng ven bờ. Do giàu thức ăn nên khả năng khai thác, đánh
bắt và nuôi trồng hải sản ở ven bờ biển Quảng Trị tương đối lớn. Năng suất đánh
bắt tôm, cá tự nhiên đạt khoảng 152 - 255 kg/ha và sản lượng đánh bắt hàng năm
đạt tới hàng chục ngàn tấn. Ở đây có nhiều loài cá nổi như: trích, nục, ngừ, bạc
má ; các loại cá chìm như: trát, mòi, phèn các loại hải sản như: Tôm hùm, tôm
biển, mực ống, mực nang nhiều. Hàng nghìn ha mặt nước ở những nơi có rạn đá
ngầm có thẻ nuôi tôm hùm xuất khẩu.
1.4. Tài nguyên du lịch
Quảng Trị có nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn, phân bố rộng
khắp trên các địa bàn trong tỉnh. Quảng Trị có bờ biển dài với những cảnh quan
và bãi cát đẹp như Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thủy; các điểm du lịch đến các di
tích lịch sử cách mạng như quần thể di tích đường Trường Sơn, tuyến du lịch
vùng giới tuyến DMZ, nhà tù Lao Bảo, sân bay Tà Cơn, đồi Không Tên, cửa
khẩu quốc tế Lao Bảo, nhà thờ La Vang, cụm di tích thành cổ Quảng Trị, khu di
tích đôi bờ Hiền Lương, địa đạo Vĩnh Mốc, nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Lê
Duẩn Hiện tại phía Tây tỉnh Quảng Trị đang xây dựng "Ðường Hồ Chí Minh
huyền thoại" trên chiều dài 46km đi qua các xã Húc, Ba Nang, Tà Long của hai
huyện Hướng Hóa và Ðak Rông.
Các tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn trên cho phép Quảng Trị đẩy
mạnh phát triển ngành du lịch trở thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh
trong giai đoạn tới.
1.5. Tài nguyên khoáng sản
Khoáng sản Quảng Trị tương đối phong phú nhưng có trữ lượng không lớn
tập trung chủ yếu vào 5 nhóm chính sau:
- Nhóm nguyên liệu: Than bùn có ở Gio Linh, Mỹ Chánh trữ lượmg ước
khoảng 46.000 tấn, có khả năng khai thác để sản xuất phân vi sinh, phân tổng

hợp.
- Nhóm kim loại: Quặng sắt ở khe mỏ 2 thuộc xã Cam Mỹ huyện Cam
Lộ, trữ lượng ước khoảng 1,17 triệu tấn. Titan: Phân bố dọc bờ biển xã Vĩnh
Thái, Vĩnh Kim trên chiều dài 16,5 km, có trữ lượng ước khoảng 400.000 tấn.
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
8
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
- Kim loại màu, quý hiếm: Có vàng gốc và vàng sa khoáng, phân bố rải
rác ở Sa Lung, động Vàng Vàng, A Pay, Vĩnh Ô (Vĩnh Linh) nhưng trữ lượng
không lớn. Angtimoan: Có ở Tân Lâm nằm trong dăm kết với đá vôi, thạch anh.
- Nhóm không kim loại: Nhóm này ở Quảng Trị phân bố rộng rãi, có trữ
lượng tương đối lớn, bao gồm các nhóm phụ sau: Phụ nhóm nguyên liệu hóa
chất và phân bón. Pyrit có ở Tà Lao, A Pay ; phụ nhóm nguyên liệu xây dựng:
+ Ðá vôi tập trung ở Cam Tuyền, Tân Lâm (Cam Lộ), Tà Rùng (Hướng
Hóa) có trữ lượng lớn được khai thác phục vụ cho sản xuất xi măng và đá xây
dựng.
+ Sét gạch ngói rất phong phú phân bổ chủ yếu ở ruộng, tập trung ở Cam
Hiếu (Cam Lộ), Triệu Thượng (Triệu Phong) đang được sử dụng sản xuất gạch
ngói đạt mức cao.
+ Ðá xây dựng: Ðá bazan, đá ong có rất nhiều, phục vụ đủ nhu cầu xây
dựng. Ðá bazan ở Vĩnh Linh có thể sử dụng để xây dựng các công trình vĩnh
cửu.
+ Ðá trang trí và lát mặt phân bố ở nam cầu Ðakrông với diện tích
khoảng 20km2.
+ Phụ nhóm nguyên liệu sứ, gốm, thủy tinh: Cát thủy tinh có rất nhiều ở
Bắc và Nam Cửa Việt. Nếu được tuyển đãi thì cát Cửa Việt có chất lượng cao đủ
tiêu chuẩn để sản xuất trong nước và xuất khẩu
Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Trị đã có một loạt động tác hướng về
phía biển trong các chương trình dự án phát triển kinh tế- xã hội địa phương.

Đầu tiên là dự án cầu Cửa Việt (năm 2008), rồi cầu Cửa Tùng (sẽ hoàn thành
năm 2010), tiếp đó quy hoạch đảo Cồn Cỏ thành đảo du lịch và hiện nay tập
trung vào xây dựng khu cảng nước sâu Mỹ Thủy (Hải Lăng), tuyến đường ven
biển và quan trọng nhất đang hướng đến xây dựng một Trung tâm nhiệt điện sử
dụng khí để đưa khí đốt từ ngoài biển vào chế biến ở đây…
Phải nói rằng Quảng Trị rất có lợi thế để phát triển kinh tế biển khi nơi đây có bờ
biển dài 75 km, ngư trường rộng gần 9.000 km2, trữ lượng hải sản khoảng
60.000 tấn/năm. Chuỗi đô thị ven biển kéo dài từ Mỹ Thủy ra đến Cửa Tùng có
nhiều bãi biển đẹp, tiềm năng khoáng sản lớn, có giá trị như khí đốt, ti-tan, cát
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
9
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
thủy tinh Nhiều khu vực có thể xây dựng cảng biển nước sâu, cơ sở công
nghiệp về biển… Tuy nhiên như nhiều tỉnh miền Trung khác, lâu nay Quảng Trị
chỉ chú trọng đến khai thác, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản về
công nghiệp thì tập trung khai thác quặng thô, giá trị thấp. Thống kê cho biết sản
lượng khai thác chế biến, nuôi trồng thủy hải sản các loại của Quảng Trị trong 10
năm tuy tăng gấp đôi từ 11.454 tấn (năm 2000) đến nay trên 24.000 tấn nhưng tỷ
trọng đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu không đáng kể.
Chính vì vậy, dù được đầu tư rất nhiều nhưng kinh tế biển lâu nay chưa
bao giờ được đánh giá là thế mạnh của tỉnh Quảng Trị.
Để đưa kinh tế biển trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh, mới đây Tỉnh ủy
Quảng Trị đã ra Nghị quyết về "Phát triển kinh tế - xã hội miền biển và vùng cát
đến năm 2010" và xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa X) về "Chiến lược biển Việt Nam" đến năm 2020. Cụ thể hơn, cuối
năm 2009 vừa qua thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ông Nguyễn Đức
Cường - Chủ tịch UBND tỉnh đã phân công nhiệm vụ rất chi tiết đến từng Sở
ngành của địa phương. Trong đó, tập trung hướng đến một đề án lớn về phát
triển kinh tế biển ở Đông Nam Quảng Trị.

Đầu tiên là dự án đầu tư xây dựng Nhà máy đóng tàu Cửa Việt trên địa
bàn xã Triệu An (Triệu Phong) của Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam
(Vinashin), dự án có nguồn vốn gần 1.500 tỷ đồng đang được xây dựng.
Sau khi dự án đi vào hoạt động sẽ thu hút hơn 4.000 lao động ở địa phương. Đặc
biệt, theo các chuyên gia của Viện Dầu khí Việt Nam, tại lô thăm dò 113, cách
bờ biển Quảng Trị 100 - 129 km có một mỏ khí đốt trữ lượng khoảng 60-100 tỷ
m3 khí chất lượng cao. Với trữ lượng này đủ nguồn nhiên liệu cho sản xuất điện,
cung cấp nhiên liệu cho hai nhà máy điện khí, công suất một nhà máy 750 MW;
cung cấp nhiên liệu đốt trong các lò nung, lò hơi cho các nhà máy sản xuất vật
liệu xây dựng (gạch ốp lát, thép, xi-măng), gốm sứ - thủy tinh công nghiệp, vật
liệu mới; cung cấp khí dầu hóa lỏng, khí thiên nhiên nén, khí thiên nhiên hóa
lỏng, nhiên liệu mới thay thế xăng dầu trong ngành giao thông vận tải, nhu cầu
dân sinh(bếp ga, điều hòa nhiệt nhiệt độ, …). Vì vậy tỉnh đang có kế hoạch
phối hợp với các Bộ ngành liên quan đầu tư xây dựng một Trung tâm nhiệt điện
sử dụng khí, đưa khí đốt vào bờ ở Quảng Trị.
Một dự án khác cũng đang được Công ty Sibelco (Bỉ) quan tâm đó là xây dựng
nhà máy tuyển và nghiền cát silic và sản xuất đá ốp lát nhân tạo xuất khẩu
Nhằm cụ thể hóa chương trình phát triển kinh tế biển, mới đây, UBND tỉnh
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
10
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
Quảng Trị đã có quyết định phê duyệt quy hoạch xây dựng công trình Cảng biển
Mỹ Thủy ở huyện Hải Lăng, có vốn đầu tư trong giai đoạn 1 là 7.973,075 tỷ
đồng. Bên cạnh việc phát triển các ngành công nghiệp biển, Quảng Trị cũng chú
ý đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ công tác đánh bắt, nuôi trồng, chế biến
thủy hải sản như xây dựng khu neo đậu trú bão và hậu cần nghề cá Cửa Tùng
(Vĩnh Linh); cảng và khu dịch vụ hậu cần nghề cá ở đảo Cồn Cỏ. Phát triển tiểu,
thủ công nghiệp và làng nghề nông thôn từ nguồn vốn khuyến công để đầu tư
xây dựng các cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu, thuyền; lò sấy hải sản tại huyện

Gio Linh; dệt lưới, sản xuất chế biến nước mắm, ruốc bột ở huyện Hải Lăng
Ngoài ra trên cơ sở việc hình thành tuyến giao thông ven biển, trong đó cầu vượt
cửa biển Cửa Việt và Cửa Tùng được đưa vào sử dụng, Quảng Trị đang dần hình
thành các trung tâm kinh tế dịch vụ tổng hợp và công nghiệp tại Cửa Tùng.
Sự chuyển dịch về kinh tế của Quảng Trị, nhiều chuyên gia cho rằng hướng phát
triển kinh tế biển của Quảng Trị là điều tất yếu nhằm đa dạng hóa các ngành,
lĩnh vực kinh tế mà tỉnh có thế mạnh. Điều đó có ý nghĩa hơn khi Quảng Trị là
tỉnh đầu cầu phía Việt Nam trên Hành lang kinh tế Đông Tây, trong đó điểm
khởi đầu là khu kinh tế Thương mại đặc biệt Lao Bảo và điểm kết thúc là Trung
tâm kinh tế biển - Cảng nước sâu Mỹ Thủy.
Tiềm năng, cơ hội đầu tư các Khu công nghiệp ở tỉnh Quảng Trị
Phát triển các Khu công nghiệp là một phương thức quản lý công nghiệp tập
trung, rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế tiên tiến, hiện đại.
Mục tiêu hình thành Khu công nghiệp là làm tăng trưởng nhanh và vững chắc
tổng sản phẩm quốc nội, tạo việc làm và thu nhập, thúc đẩy đô thị hoá các vùng
nông thôn, nâng cao dân trí, thu hút nguồn nhân lực
Quảng Trị có nhiều tiềm năng về đất đai, rừng, biển, nguyên liệu cho chế biến
nông, lâm thủy sản, phát triển du lịch trong thời kỳ hội nhập mở cửa.
Quảng Trị là cửa ngỏ của Hành lang kinh tế Đông - Tây, khai thông giao thương
vớicánướcLào,TháiLan,Mi-an-ma
Để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm thoát khỏi nhóm tỉnh
nghèo của cả nước, một trong những giải pháp cơ bản được tỉnh Quảng Trị xác
định là phát triển các Khu công nghiệp. Chủ trương xây dựng của Ủy ban nhân
dân tỉnh. Theo đó, tỉnh đã đăng ký với Trung ương xây dựng 4 khu công nghiệp
là Nam Đông Hà, Quán Ngang, Bắc Cửa Việt và Đường 9; tổng diện tích các
Khu công nghiệp này khoảng 500ha. Từ nay đến năm 2010, tỉnh tiếp tục đầu tư
xây dựng 2 Khu công nghiệp là Nam Đông Hà (99,03ha) và Quán Ngang
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
11
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng

Trị”
(205,5ha).
Khu công nghiệp Nam Đông Hà được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập
tháng 4/2004; ở phường Đông Lương, thị xã Đông Hà; cách trung tâm thị xã tỉnh
lỵ Đông Hà 2km về phía Nam; cách cảng Cửa Việt 12 km; nằm cạnh ga Đông
Hà và Quốc lộ 1A; cách sân bay Phú Bài Huế 81km; cách sân bay quốc tế Đà
Nẵng 170km. Đặc biệt, Khu công nghiệp Nam Đông Hà gần đường xuyên Á và
cách Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo 51 km. Diện tích khu công
nghiệp giai đoạn 1 là 99ha, giai đoạn 2 đã quy hoạch mở rộng 37ha. Khu công
nghiệp Nam Đông Hà thu hút mọi ngành nghề, lĩnh vực, trong đó quan tâm đến
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, dệt, giày da, may mặc,
cơ khí điện tử, thủ công nghiệp mỹ nghệ Giá cho thuê đất đã phát triển hạ tầng:
0,25USD/m
2
/năm; thời gian thuê: từ 50 năm. Phí sử dụng hạ tầng miễn từ 2005-
2010. Khu công nghiệp đã cơ bản hoàn thành đường bê tông thảm nhựa, điện,
nướcgiaiđoạn1.
Khu công nghiệp Quán Ngang được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt thông qua
quy hoạch chi tiết từ tháng 4/2004 và đã được Thủ tướng Chính phủ đưa vào
danh mục 115 khu công nghiệp dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015.
Khu công nghiệp Quán Ngang ở xã Gio Quang, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị;
cách trung tâm thị xã tỉnh lỵ Đông Hà 7km về phía Bắc, cách cảng Cửa Việt
5km, nằm cạnh ga Hà Thanh và Quốc lộ 1A; cách sân bây Phú Bài Huế 87km;
cách sân bay quốc tế Đà Nẵng 177km. Đặc biệt, Khu công nghiệp Quán Ngang
nằm trên đường xuyên Á và cách Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo 55
km. Khu công nghiệp Quán Ngang có lợi thế rất cơ bản nữa là có quỹ đất rộng,
bằng phẳng (giai đoạn 1 diện tích 139ha, giai đoạn 2: 66ha), lại gần với các
nguồn nguyên liệu dồi dào, chất lượng cao của tỉnh như cao su, cà phê, hồ tiêu,
thủy hải sản Khu công nghiệp Quán Ngang đã có quy hoạch chi tiết và đã được
đầu tư một số cơ sở hạ tầng thiết yếu như đường bê tông nhựa vào khu công

nghiệp, điện, nước. Khu công nghiệp Quán Ngang thu hút mọi ngành nghề, lĩnh
vực, trong đó quan tâm đến chế biến nông, lâm, thủy sản, rượu, nước giải khát,
thức ăn công nghiệp, các ngành dịch vụ, dệt, may mặc, cơ khí điện tử và kho
hàng quá cảnh Giá cho thuê đất đã phát triển hạ tầng: 0,1USD/m2/năm. Thời
gian thuê: từ 50 năm. Phí sử dụng hạ tầng miễn từ 2005-2010.
Khu công nghiệp Quán Ngang và Khu công nghiệp Nam Đông Hà đều là 2 Khu
công nghiệp tập trung, có vị trí thuận lợi về giao thông, với định hướng thu hút
đầu tư khai thác tiềm năng thế mạnh về chế biến nguyên liệu lâm, thủy hải sản;
các mặt hàng điện tử, gia dụng, vật liệu xây dựng có công nghệ tiên tiến.
Nhằm phát huy lợi thế của 2 Khu công nghiệp này, trên cơ sở chính sách khuyến
khích ưu đãi đầu tư đã ban hành; trong 3 năm (2005-2007), tỉnh đã đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp 27 tỷ đồng, trong đó, đầu tư cho khu
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
12
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
công nghiệp Nam Đông Hà là 21,7 tỷ đồng; Khu công nghiệp Quán Ngang là 5,3
tỷ đồng; nâng mức đầu tư cho các Khu công nghiệp từ năm 2002 đến nay là 54,4
tỷ đồng.
Với chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư khá hấp dẫn cũng như những tiềm
năng, lợi thế của Quảng Trị; đã có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến
Quảng Trị tìm hiểu, triển khai xây dựng các dự án tại 2 khu công nghiệp. Đến
nay đã có 18 dự án đầu tư vào các Khu công nghiệp với tổng mức vốn là 1.189
tỷ đồng. Tỷ lệ lấp đầy Khu công nghiệp Nam Đông Hà đến cuối năm 2007 là
61,1%. Tỷ lệ lấp đầy của Khu công nghiệp Quán Ngang là 15%.
Một số dự án đầu tư vào các Khu công nghiệp đã và đang hoạt động:
- Nhà máy gỗ ván ép MDF, công nghệ hiện đại của châu Âu, vốn đầu tư 450 tỷ
đồng, đã đi vào sản xuất, sản phẩm được thị trường ưa chuộng, tiêu thụ nhanh.
Từ tháng 1/2007, nhà máy đã hoạt động hết công suất 60.000m3/năm. Hiện nay,
nhà máy có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao giá trị sản phẩm,

đầu tư xây dựng mở rộng các dây chuyền như: phủ mặt gỗ, sản xuất đồ gỗ gia
dụng, nhà máy sản xuất keo xây dựng trạm xử lý nước thải công nghiệp.
- Nhà máy nghiền Klinke, cho ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn Việt Nam, công suất
250.000tấn/năm, vốn đầu tư giai đoạn 1 là 150 tỷ đồng, đang triển khai các gói
thầu chính, phấn đấu cho ra sản phẩm vào quý IV/2007 (tại Khu công nghiệp
NamĐôngHà).
- Nhà máy thép chất lượng cao, công suất 250.000tấn/năm, vốn đầu tư 280 tỷ
đồng(tạiKhucôngnghiệpNamĐôngHà).
- Dệt may Hoà Thọ, hiện đang phối hợp với trường dạy nghề tổng hợp Quảng Trị
để tuyển công nhân, khởi công vào quý II/2007 với quy mô giai đoạn 1 là 10 dây
chuyền sản xuất thu hút 600 lao động (tại Khu công nghiệp Nam Đông Hà).
- Dự án xây dựng nhà máy chế biến lâm sản xuất khẩu Đông Hà, tổng mức đầu
tư là 35 tỷ đồng, thu hút khoảng 700 lao động, dự kiến khởi công tại Khu công
nghiệpNam Đông Hà vào quý II/2007.
- Dự án xây dựng nhà máy sản xuất hoàn nguyên Ilmenite tại Khu công nghiệp
Quán Ngang do công ty cổ phần khoáng sản Quảng Trị làm chủ đầu tư, mức vốn
16 tỷ đồng, đang lập dự án trình UBND tỉnh phê duyệt.
Ngoài ra còn có một số nhà đầu tư trong các lĩnh vực bia - rượu, chế biến gỗ,
thạch cao đang nghiên cứu khảo sát, gặp gỡ, thảo luận để xây dựng dự án
Cùng với việc ban hành một số chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào trên địa bàn
tỉnh và các Khu công nghiệp; tỉnh đã và đang có chiến lược phát triển, tạo nguồn
nguyên liệu ổn định, lâu dài, đảm bảo cho các ngành công nghiệp phát triển.
Với tiềm năng dồi dào, vị trí giao thông thuận lợi trong nước và khu vực, đường
xuyên Á và Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), chính sách ưu đãi đầu tư
thông thoáng, nhiệt tình và đầy thiện chí; cơ sở hạ tầng đang được ưu tiên đầu tư
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
13
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
để nhanh chóng hoàn thiện và ngày càng có nhiều thuận lợi khác; với những hoạt

động có hiệu quả của Ban quản lý; các Khu công nghiệp của tỉnh Quảng Trị đã
và đang là địa chỉ đầu tư đáng tin cậy vì mục tiêu phát triển bền vững, hiệu quả
của các nhà đầu tư trong và ngoài nước./.
Tình hình nông nghiệp
Trong khi đó lao động dư thừa đang trở thành gánh nặng mà kinh tế nông
thôn không thể thu hút hết. Do đó, phát triển các ngành nghề phi nông
nghiệp, trong đó công nghiệp nông thôn là cách đi thích hợp nhất để tạo
việc làm cho người lao động mà vẫn giữ được họ ở lại nông thôn.
Thời gian qua, với nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dành cho công
nghiệp liên tục tăng, năm 2000 với 66 tỷ đồng, đến năm 2008 tăng 820 tỷ
đồng. Giá trị sản xuất của ngành cũng tăng tương ứng, năm 2000 đạt 253
tỷ đồng, đến năm 2008 tăng 2.263 tỷ đồng, đưa tỷ trọng của ngành chiếm
34,5%trongGDP.
Nhờ vậy, công nghiệp nông thôn đã góp phần cùng với công nghiệp tỉnh
đóng vai trò quan trọng trên các mặt tạo công ăn việc làm cho lao động và
góp phần giảm đói nghèo cho dân cư nông thôn; đa dạng hoá thu nhập của
nông thôn và làm tăng khả năng dự phòng rui ro, giảm sức ép di cư.
Với vai trò đó, đến nay tỉnh Quảng Trị chủ trương xây dựng kết cấu hạ
tầng và đưa vào hoạt động 5 cụm, điểm công nghiệp gồm: Đông Lễ (Đông
Hà), CCN-làng nghề Diên Sanh (Hải Lăng), Cầu Lòn, Ba Bến (thị xã
Quang Trị) và CCN Hướng Tân (Hướng Hóa). Đang tiến hành xây dựng 2
CCN gồm Ái Tử (Triệu Phong), Tân Định (Cam Lộ), hoàn thành lập quy
hoạch chi tiết 5 CCN gồm Bắc Hồ Xá A, Bắc Hồ Xá B (Vĩnh Linh), Bàu
De (thị xã Quảng Trị), Tân Trang (Cam Lộ), đang triển khai lập quy hoạch
một số CCN như thị tứ Nam Cửa Việt (Triệu Phong), Cửa Tùng (Vĩnh
Linh),Phường4,Đường9D(ĐôngHà).
Tuy nhiên, việc phát triển ồ ạt các khu, cụm công nghiệp nông thôn nếu
không quy hoạch chi tiết sẽ gây tổn thất rất lớn đến tài nguyên sản xuất
nông nghiệp. Thực tế cho thấy do mang tính tự phát, công nghệ thủ công
lạc hậu, thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ, ý thức bảo vệ môi trường rất thấp

nên công nghiệp chính là “thủ phạm” gây ra ô nhiễm môi trường tại địa
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
14
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
phương.
Trong công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, tỷ lệ thành phẩm là 25 -
30%, còn lại 70 - 75% trọng lượng tồn tại dưới dạng chất thải rắn và lỏng,
bên cạnh đó còn có chất thải khác do quá trình sử dụng các nhiên liệu, vật
liệu khác. Về nước thải, do nhu cầu nước cho sản xuất tại các cơ sở chế
biến nông sản thực phẩm thường rất lớn, hầu hết các khâu trong sản xuất
sử dụng nước, nước thải trong quá trình sản xuất không được xử lý, chảy
tự nhiên, gây ô nhiễm nặng nề, đây cũng là nguồn gây ô nhiễm môi trường
nướcchosảnxuấtnôngnghiệp.
Tại các làng nghề cơ khí, các kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng bụi
trong không khí, đặc biệt là bụi có chứa kim loại mà chủ yếu là sắt (Fe)
với hàm lượng lớn của các làng nghề đều vượt quá tiêu chuẩn từ 1 - 6 lần.
Nước thải cơ khí có sử dụng các thiết bị mạ, gia công và tái chế, do việc
tuỳ tiện và thiếu hiểu biết của người dân trong việc súc rửa và thải nước
đang trở thành mối đe doạ không những cho hệ sinh thái trong thủy vực
mà còn là mối hiểm hoạ cho cuộc sống của con người. Các cơ sở vật liệu
xây dựng, do sản xuất vẫn theo công nghệ truyền thống, đơn giản nên môi
trường bị tác động chủ yếu do tiếng ồn gây ra từ máy ép bùn, quá trình đốt
than gây ra lượng bụi và khí độc hại, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh, số
hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày càng tăng với số lượng lớn. Cùng với
việc phát triển chăn nuôi hộ gia đình thì ô nhiễm môi trường cũng ngày
càngtăng.
Theo tính toán của ngành môi trường thì để tạo ra 1.000 tấn thịt lợn, hàng
năm phải giải quyết 10.000 - 20.000 tấn phân, 20.000 - 30.000 m3 nước

tiểu, 50.000 - 200.000 m3 nước rửa chuồng trại. Như vậy, việc chăn nuôi
tập trung đa đặt ra nhiệm vụ xử lý một lượng phế thải bao gồm cả phế thải
rắn, phế thải lỏng và ô nhiễm mùi rất nặng trong không khí.
Những nguyên nhân và hậu quả của vấn đề vệ sinh môi trường trong
hộ nông dân và nông thôn hiện nay là hầu hết chuồng trại chăn nuôi gia
súc lại kiêm kho chứa phân nên đàn gia súc chậm lớn và có dịch bệnh làm
thiệt hại cho các hộ chăn nuôi. Nước thải chăn nuôi đổ ra cống rãnh ven
đường, ao hồ công cộng gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề dễ phát sinh ổ
dịchbệnh.
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
15
Trường THPT Tân Lâm “Tìm hiểu Địa lí địa phương tỉnh Quảng
Trị”
Ô nhiễm môi trường sinh thái đang là mối đe doạ đối với sức khoẻ
con người tại các cơ sở công nghiệp nông thôn, và việc giải quyết ô nhiễm
môi trường tại các cơ sở hiện đang là vấn đề nan giải, ở chỗ: làm thế nào
để có thể cân bằng được giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Bên
cạnh đó là các vấn đề xã hội nảy sinh bức xúc, do tình trạng lao động dư
thừa, học sinh bỏ học sớm, các tệ nạn xã hội, sức khoẻ cộng đồng.
Để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển công
nghiệp nông thôn, nhà nước và chính quyền địa phương tạo điều kiện sản
xuất kinh doanh, quy hoạch sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng, cung cấp
dịch vụ hỗ trợ (về giao thông vận tải, điện, nước, thông tin, tiếp thị )
Việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường phát sinh từ các cụm, điểm
công nghiệp nông thôn không chỉ là vấn đề trước mắt mà là vấn đề lâu dài
và cần có sự đoàn kết của cộng đồng. ý thức của mỗi cá nhân cũng như sự
quan của Nhà nước. Trước hết cần tiến hành quy hoạch môi trường, lồng
ghép quy hoạch môi trường vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm
ngăn ngừa ngay từ đầu sự suy thoái tài nguyên, phòng tránh ô nhiễm môi
trường.

Thực hiện các biện pháp quản lý và giáo dục môi trường để nâng cao
ý thức trách nhiệm và hành động của người dân trong công tác bảo vệ môi
trường (đặc biệt là đối với làng nghề), giúp cho họ hiểu được rằng môi
trường xung quanh cần được bảo vệ, trước hết là vì lợi ích của chính họ.
Người thực hiện: Phạm Ngọc Luy Năm học: 2009 – 2010
16

×