Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Đục thể thuỷ tinh Làm sao “trong” lại? potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.53 KB, 4 trang )

Đục thể thuỷ tinh Làm sao “trong” lại?


Ở tuổi 45 chúng ta tạm hài lòng với đôi kính đọc sách. Đến tuổi 60 rất nhiều người cần
thêm một đôi kính nhìn xa nữa. Có vẻ phiền phức hơn nhiều. Nhưng không lâu sau đó
việc đeo kính không còn tác dụng nữa. Sức nhìn ngày càng giảm sút. Đục thể thuỷ tinh
bắt đầu quấy rầy chúng ta rồi đấy.
Thế nào là đục thể thuỷ tinh?
Thể thuỷ tinh là một thấu kính trong suốt ở bên
trong con mắt. Nó góp 1/3 vào năng lực hội tụ
của nhãn cầu. Công suất hội tụ của thể thuỷ tinh
được đảm bảo khi nó còn trong suốt, các mặt
cong và độ dầy còn nằm trong giới hạn sinh lý.
Ngoài ra thể thuỷ tinh còn có chức năng lọc tia
tử ngoại – tia có hại có trong phổ bức xạ của
mặt trời. Khi các phân tử protein không hoà tan
bị tích tụ trong thể thuỷ tinh cùng với tuổi tác thì
tính trong suốt của nó không còn nữa. Các tia sáng khi đi qua vùng bị đục sẽ bị tán xạ
mạnh gây giảm thị lực. Đục thể thuỷ tinh được coi là đáng kể khi nó làm giảm thị lực
xuống còn < 3/10.
Chúng ta cảm thấy gì ?
Giảm thị lực là triệu chứng quan trọng nhất. Thường là nhìn mờ cả hai bên khá cân xứng.
Đục thể thuỷ tinh gây ảnh hưởng đến việc nhìn xa trước tiên, sau đó là đến nhìn gần, trừ
một thể đục đặc biệt là đục dưới bao sau thể thuỷ tinh. Khi đó thị lực nhìn gần bị ảnh
hưởng trước tiên. Mức độ giảm thị lực cũng rất khác biệt, từ mức còn một vài phần mười
đến mức chỉ còn nhận biết được ánh sáng. Đục thể thuỷ tinh làm tăng độ tụ của nó. Điều
này giải thích tại sao một số người già tự nhiên lại đọc được sách mà không cần kính khi
họ bị đục thể thuỷ tinh. Một số bệnh nhân khác than phiền vì cảm giác nhìn đôi, nhìn thấy
Một số loại thuốc có ghi tác dụng
chữa đục thể thủy tinh nhưng rất có
thể nó sẽ chẳng có tác dụng trên với


một số người nào đó vì chúng được
sản xuất theo một giả thuyết bệnh sinh
trong khi đục thể thủy tinh không chỉ
có một cơ chế bệnh sinh mà là rất
nhiều.
nhiều vật cùng một lúc, nhìn như qua sương mù… tất cả những khó chịu đó được giải
thích là do thể thuỷ tinh bị đục đã làm tán xạ các tia sáng đi qua nó.
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ?
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đục thể thuỷ tinh thế nhưng đục thể thuỷ tinh do tuổi già
chiếm tới 99%. Đục thể thuỷ tinh liên quan đến tuổi già khi nó xuất hiện sau tuổi 65. Có
rất nhiều yếu tố nguy cơ trong đó yếu tố tuổi tác được quan tâm nhiều nhất. Ngay sau nó
là hàng loạt nguyên nhân khả dĩ: các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh và mắc phải, rối loạn
dinh dưỡng, tiêu chảy mất nước, đái tháo đường. Hút thuốc, uống rượu, cũng như việc
lạm dụng một vài loại thuốc là nguyên nhân được nhiều người biết đến. Nhiễm độc các
gốc tự do, thiếu hụt các yếu tố chống oxi hóa, phơi nhiễm quá đáng với tia tử ngoại (tia
UV) là những luận thuyết mới nhất để chúng ta thêm quan tâm và cố gắng đề phòng đục
thể thủy tinh. Các yếu tố đan xen khác như di truyền, môi trường sống, chế độ dinh
dưỡng, nghề nghiệp… được coi là đã gây nên sự khác biệt về độ mẫn cảm với đục thể
thuỷ tinh giữa cá thể này với cá thể kia.

Phẫu thuật điều trị đục thể thủy tinh.
Các bác sĩ sẽ thấy gì?
Giảm thị lực đặc biệt là thị lực nhìn xa là điều chắc chắn gặp. Thăm khám kỹ càng hơn
các bác sĩ sẽ thấy nhiều bệnh nhân có rối loạn về sắc giác, nhất là việc nhìn nhận màu
xanh. Bên cạnh đó, thị trường, khả năng nhận định độ tương phản, khả năng nhìn ban
đêm… cũng có những tổn hại nhất định.
Khám bệnh khi đồng tử giãn tối đa giúp các bác sĩ dễ dàng khẳng định chẩn đoán, đánh
giá mức độ và tình trạng đục thể thuỷ tinh. Đục do tuổi già thường là đục vỏ, nhân và
dưới bao, trong đó dạng đục vỏ là phổ biến nhất. Bên cạnh việc quan sát thể thuỷ tinh,
thày thuốc nhãn khoa còn chú ý phát hiện thêm các bệnh phối hợp: glôcôm, thoái hoá

hoàng điểm do tuổi già, bệnh võng mạc đái tháo đường, các dạng thoái hoá giác mạc.
Tốc độ đục thể thuỷ tinh rất thay đổi, đục hoàn toàn hay đục chín là cấp độ cao nhất. Đục
quá chín có thể gây phản ứng viêm màng bồ đào hay tăng nhãn áp.
Và điều trị
Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả duy nhất vẫn là phẫu thuật. Phẫu thuật thể
thuỷ tinh đã có chừng hai thế kỷ nay, nhưng phương pháp đặt kính nội nhãn (thể thuỷ
tinh nhân tạo) mới chỉ có từ năm 1949. Sau này, về phương diện vật liệu học, thể thuỷ
tinh nhân tạo đã dần dần được cải biên sao cho dung nạp tốt, bền vững, lọc được tia tử
ngoại, ưa nước. Ngày nay, loại chế từ silicone, gấp được và chịu nước, được đa số các
phẫu thuật viên ưa dùng.
Lĩnh vực phẫu thuật này được ứng dụng sôi nổi nhất những thành tựu mới của ngành
nhãn khoa thế giới. Hàng loạt các kỹ thuật mổ mới đi kèm với nó là các máy móc,
phương tiện, vật tư tiêu hao ra đời trong vòng 20 năm trở lại đây. Đến giờ phút này, tại
các trung tâm nhãn khoa lớn của nước ta, kỹ thuật mổ PHACO đã trở thành phổ biến. Ưu
điểm của nó đã quá rõ ràng: vết mổ nhỏ. Đặc biệt trong kỹ thuật PHACO lạnh chỉ còn là
2mm, thị lực phục hồi nhanh chóng, xuất viện trong ngày, tỷ lệ biến chứng ít. Chính vì
vậy số lượng bệnh nhân được mổ đục thể thuỷ tinh theo phương pháp này ngày càng
tăng. Tất nhiên cũng cần nhắc tới một vài yếu tố khác như tuổi thọ tăng và chỉ định mổ đã
rộng rãi hơn nhiều so với trước. Hàng năm tại Pháp có tới 380.000 người được mổ thể
thuỷ tinh.
Những ai sẽ được mổ và cần chuẩn bị những gì?
Chỉ định mổ chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Nhưng cần xác định rõ ràng đục thể
thuỷ tinh là nguyên nhân chính gây giảm thị lực chứ không phải là những yếu tố bệnh lý
khác. Khi khám bệnh các bác sĩ sẽ phải luôn cân nhắc có sự tương hợp hay không giữa
tính chất và mức độ đục thể thuỷ tinh với mức độ giảm thị lực. Tựu chung, thị lực kém
hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật. Cũng cần quan tâm đến những yếu tố
khác như tuổi của người bệnh, tính chất công việc, điều kiện sống, nhu cầu dùng mắt
hàng ngày… để thúc đẩy hay trì hoãn can thiệp phẫu thuật.
Một bệnh nhân trước khi phẫu thuật, ngoài việc được thăm khám về chuyên khoa mắt kỹ
càng, còn được truy tìm bệnh toàn thân. Điều này rất cần thiết cho quyết định mổ, tiên

lượng thị lực sau mổ, ngăn ngừa các biến chứng cũng như điều trị dự phòng. Tại mắt
chúng ta sẽ đi tìm những bệnh có liên quan đến tuổi tác như thoái hoá hoàng điểm người
già, bệnh võng mạc đái tháo đường, cận thị… Trên toàn thân chúng ta cần phát hiện các
bệnh nội khoa như: tăng huyết áp, đái tháo đường, các ổ viêm nhiễm. Điều này giải thích
tại sao trước khi mổ chúng ta lại cầm trong tay tới 7-8 tờ xét nghiệm.
Kết quả của phẫu thuật và biến chứng có thể gặp
Nếu không có các bệnh tại mắt khác thì có khoảng 95% bệnh nhân thu được thị lực
>5/10. Ngoài việc thị lực được cải thiện, còn có những lợi ích đáng kể khác cho bệnh
nhân: cải thiện khả năng nhận biết màu sắc, tăng khả năng đọc và nhìn gần, tăng khả
năng lao động, di chuyển và lái xe. Các biến chứng viêm nhiễm thường nhẹ và kiểm soát
được. Đáng ngại nhất là biến chứng xuất huyết nội nhãn và viêm nội nhãn, tuy không gặp
nhiều. Biến chứng muộn đục bao sau phải giải quyết bằng laser YAG dần dần đã trở
thành phổ biến cùng với số lượng đông đảo bệnh nhân được mổ đặt thể thuỷ tinh nhân
tạo.
Phòng chống đục thể thủy tinh như thế nào?
Một nếp sống hợp vệ sinh, dinh dưỡng đủ chất, tránh những điều kiện bất lợi cho mắt:
không hút thuốc, không nghiện rượu, tránh phơi nắng nhiều, tránh chấn thương mắt
luôn hữu ích cho đôi mắt của người cao tuổi. Chúng ta có thể dùng thêm hàng ngày một
loại thuốc bổ tổng hợp có chứa các vitamin và khoáng chất vừa tốt cho tim mạch, vừa tốt
cho mắt: vitamin A-C-E-B2, kẽm, selene. Một số loại thuốc có ghi tác dụng chữa đục thể
thủy tinh nhưng rất có thể nó sẽ chẳng có tác dụng trên với một số người nào đó vì chúng
được sản xuất theo một giả thuyết bệnh sinh trong khi đục thể thủy tinh không chỉ có một
cơ chế bệnh sinh mà là rất nhiều.

ThS. BS. Hoàng Cương

×