Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Những điều cần quan tâm về APEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.33 KB, 98 trang )

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ APEC
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ CÁC THÀNH TỰU CỦA DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ
CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG (APEC)
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Những
nỗ lực cải cách kinh tế, mở rộng thương mại, tạo đà cho kinh tế đi lên đã gặp phải trở ngại lớn, đó là
chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và tình trạng phân biệt đối xử trong buôn bán thương mại quốc tế. Để giải
quyết vấn đề này, các nước dự định thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một
tổ chức chuyên môn thuộc Liên hợp quốc nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế song cuối cùng chỉ đi
đến việc ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) vào ngày 23/10/1947 với
những chế định giới hạn ở việc điều tiết vấn đề ràng buộc và cắt giảm thuế quan. Sau khi GATT
chính thức có hiệu lực từ 01/01/1948, nhiều vòng đàm phán đa phương được tổ chức với nỗ lực mở
rộng thêm nội dung của GATT để hướng tới việc thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
nhưng vẫn gặp phải rất nhiều bế tắc vì không dung hoà được các mâu thuẫn về quyền lợi của các
nước.
Đến đầu thập kỷ 80, hệ thống thương mại toàn cầu lại đứng trước những đe doạ nghiêm trọng của
tình trạng suy thoái kinh tế. Ứng phó với tình hình đó, nhiều nước đã áp dụng các công cụ bảo hộ
thương mại, những rào cản thương mại mới để bảo vệ ngành sản xuất và thị trường nội địa, đặc biệt
là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hệ quả của tình trạng trên là tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, tự do hoá
thương mại bị đe dọa. Trào lưu khu vực hoá phát triển mạnh mẽ, đi đầu là Khối cộng đồng kinh tế
Châu Âu (EC) với thoả thuận thành lập một thị trường chung vào năm 1992 và ráo riết thành lập một
liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung. Lo sợ EC trở thành một “pháo đài thương mại”, Hoa Kỳ
cũng bắt đầu chuyển hướng từ việc ủng hộ hệ thống thương mại đa phương sang thành lập những
thoả thuận thương mại song phương và khu vực, thể hiện bằng việc thành lập khu vực thương mại
tự do với Canađa năm 1983 - nhân tố cơ bản để thành lập Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) sau này. Năm 1988, Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Canađa được ký
kết và năm 1992 kết nạp thêm Mêxicô vào NAFTA. Châu Á mặc dù đạt được thành tựu rất to lớn về
khía cạnh kinh tế trong những thập niên 70s và 80s với sự phát triển nhanh chóng của những nền
kinh tế như Nhật Bản và các “con rồng Châu Á”, nhưng thực chưa có được một hình thức liên kết
kinh tế chính thức, liên chính phủ và toàn khu vực để đảm bảo quyền và lợi ích của các quốc gia
Châu Á trước sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ và khu vực hoá như Châu Âu và Bắc Mỹ. Trong khi


đó, từ những năm 70s, 80s trao đổi thương mại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tăng trưởng
nhanh chóng. Năm 1989, XK hàng hoá của các nước Châu Á – Thái Bình Dương (trừ Nhật Bản)
sang Hoa Kỳ đạt 25,8% tổng kim ngạch thương mại và XK từ Hoa Kỳ sang các nước này đạt 30,5%
tổng kim ngạch thương mại. Riêng đối với Nhật Bản, XK sang Hoa Kỳ đạt 34,2% tổng kim ngạch XK
và Hoa Kỳ xuất sang Nhật đạt 12,3% tổng kim ngạch XK
1
. Lo ngại rằng các đối tác thương mại chủ
yếu của mình chỉ tập trung vào các thị trường trong nước và gia tăng các hình thức bảo hộ thương
mại, những nước có đặc điểm kinh tế phụ thuộc nhiều vào thị trường bên ngoài là Ôxtrâylia, Nhật
Bản và Hàn Quốc đã nêu sáng kiến thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
1
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (Bộ Ngoại Giao), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2004
1
(APEC) với mục đích thực hiện đối thoại chính sách nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của chủ
nghĩa cô lập khu vực và thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại, làm động lực/đầu tầu thúc đẩy
đàm phán trong GATT/WTO.
Tháng 11/1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại của 12 nền kinh tế thuộc khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương là Ôxtrâylia, Hoa Kỳ, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunây, Inđônêxia,
Xingapo, Malaixia, Philippin, Thái Lan, và Niu Dilân đã nhóm họp ở thủ đô Canberra (Ôxtrâylia),
thành lập ra APEC. Tháng 11/1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, tháng
11/1994 kết nạp thêm Chilê, Mêxicô và Papua Niu Ghinê.
Tháng 6/1996, Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC và Hội nghị Thượng đỉnh
thường niên APEC tại Vancuvơ - Canađa tháng 11/1997 đã quyết định kết nạp Việt Nam, Nga và
Pêru là thành viên chính thức của APEC vào tháng 11/1998, nâng tổng số thành viên lên 21 nền kinh
tế. Tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức tại Kuala Lămpơ, Malaixia, ngày 14/11/1998, Việt
Nam đã chính thức trở thành thành viên APEC.
Với tổng số 21 thành viên, APEC hiện có tổng dân số 2,6 tỷ người (chiếm khoảng 43 % dân số
thế giới) với tổng GDP là 19,2 ngàn tỷ USD (khoảng 60 % tổng GDP toàn cầu). Tổng giá trị giao dịch
thương mại của APEC là trên 5,5 ngàn tỷ USD, chiếm khoảng 47 % tổng thương mại toàn cầu. Hiện
nay APEC đã quyết định ngừng việc kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh tổ chức.

2. Thành tựu của APEC và lợi ích đối với các nền kinh tế thành viên
* Tăng trưởng kinh tế và các thành tựu nổi bật của APEC
Sau khi được thành lập vào năm 1989, APEC đã trở thành khu vực kinh tế năng động nhất của
thế giới. Trong thập kỷ đầu tiên, các nền kinh tế APEC đã tạo ra gần 70% tăng trưởng thương mại
toàn cầu và có mức tăng trưởng ổn định, thậm chí cả trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ Châu Á.
Các nền kinh tế APEC đã hợp tác chặt chẽ với nhau để duy trì sự tăng trưởng kinh tế trong khu
vực thông qua các cam kết về mở cửa thương mại, đầu tư và cải cách kinh tế. Bằng các cam kết mở
trong nội bộ các nền kinh tế thành viên phù hợp với chuẩn mực của WTO trong việc dần giảm thuế
và các rào cản đối với thương mại, các nền kinh tế APEC đã và đang vận hành hiệu quả hơn và XK
được mở rộng đáng kể. APEC đã dần trở thành diễn đàn hợp tác quan trọng và uy tín không chỉ
trong lĩnh vực kinh tế, mà còn trên các lĩnh vực khác như khoa học công nghệ và văn hoá xã hội, góp
phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thương mại đa phương và sự trưởng thành của
các thể chế kinh tế, tài chính toàn cầu khác. Có thể kể đến một số thành tựu nổi bật của APEC
2
như
sau:
- Rào cản thuế quan trong khu vực APEC đã giảm từ 16,6% năm 1988 xuống còn 6,4% năm
2004; các rào cản phi quan thuế đã được chuyển sang dạng thuế suất, các rào cản đầu tư đã được
cắt giảm
- XK hàng hoá và dịch vụ đã tạo ra 18,5% GDP của các nền kinh tế APEC năm 2003 so với
mức 13,8% năm 1989
2
Số liệu của của Ban Thư ký APEC và tổng hợp của Bộ Thương mại
2
- Lưu chuyển vốn toàn cầu giữa APEC với khu vực bên ngoài tăng gần 8 lần, đạt 1,4 nghìn tỷ
USD trong vòng 20 năm qua
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế của cả khu vực APEC tăng khoảng 1/3 và tăng
khoảng 74% đối với những nền kinh tế APEC có thu nhập thấp trong 10 năm đầu thành lập
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của APEC tăng 26% từ năm 1989 đến

năm 2003
* Lợi ích đối với các nền kinh tế thành viên APEC
Sau khi APEC được thành lập, người dân ở các nền kinh tế APEC đã được hưởng lợi ích trực
tiếp hoặc gián tiếp từ các Kế hoạch hành động quốc gia (IAP) và Kế hoạch hành động tập thể (CAP)
trong APEC. Một số lợi ích trực tiếp bao gồm: cơ hội việc làm gia tăng, các chương trình đào tạo
nhiều hơn, mạng lưới an sinh xã hội phát triển hơn, tình trạng đói nghèo giảm thiểu Hơn thế nữa,
tính trung bình, người dân khu vực APEC có được chi phí cuộc sống thấp hơn do kết quả của việc
cắt giảm các hàng rào thương mại và sự cạnh tranh về giá cả cũng như chất lượng của các loại hàng
hoá dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, từ lương thực, quần áo cho tới điện
thoại di động…
Quan trọng hơn, sự tăng trưởng kinh tế đã tạo điều kiện để thúc đẩy tiến bộ xã hội tại các nền
kinh tế trong APEC. Trong thập kỷ đầu kể từ khi thành lập APEC, chúng ta ghi nhận các kết quả sau:
- Theo chương trình phát triển Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người tại các nền kinh tế
APEC có thu nhập thấp đã tăng gần 18%
- Tình trạng đói nghèo ở các nước Đông Á thuộc APEC giảm khoảng 1/3, đặc biệt là Trung
Quốc đã đưa khoảng gần 200 triệu người ra khỏi mức nghèo khổ theo tiêu chuẩn của Liên Hợp
Quốc
3
, chủ yếu là do tăng trưởng kinh tế.
- Tuổi thọ của người dân ở các nền kinh tế APEC có thu nhập tăng thêm do sự cải thiện đáng
kể về điều kiện vệ sinh, nước sinh hoạt và hệ thống y tế công.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tăng lên nhanh chóng thông qua việc tăng cường hoạt động
giáo dục, tăng tỷ lệ ngân sách chi tiêu cho giáo dục và đẩy mạnh hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các
nền kinh tế APEC, đặc biệt là sự hỗ trợ của các nền kinh tế phát triển dành cho các nền kinh tế kém
phát triển hơn trong khu vực.
II. MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC, CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA APEC
1. Mục tiêu hoạt động của APEC
APEC được thành lập nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong khu vực
đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương. Các biện pháp
được thực hiện là cắt giảm thuế và các rào cản thương mại, đẩy mạnh XK và xây dựng các nền kinh

tế hiệu quả. Mục tiêu dài hạn của APEC được nêu rõ trong Tuyên bố Bogor 1994 của các nhà lãnh
đạo: “thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào năm
2010 đối với thành viên APEC phát triển và năm 2020 đối với các thành viên APEC đang phát triển”
Để thực hiện mục tiêu đó, các hoạt động của APEC dựa trên cơ sở 3 trụ cột:
3
Báo cáo Phát triển và các vấn đề xã hội của Liên Hợp Quốc www.un.org
3
- Tự do hoá thương mại và đầu tư
- Thuận lợi hoá kinh doanh
- Hợp tác kinh tế và kỹ thuật
* Tự do hoá thương mại và đầu tư
Tự do hoá thương mại và đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động hợp tác kinh tế trong
APEC và các nền kinh tế thành viên thông qua việc giảm và xóa bỏ dần các hàng rào thuế quan và
phi quan thuế cản trở hoạt động thương mại và đầu tư.
Để thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình và mục tiêu vạch ra trong Tuyên
bố Bogor, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện các IAP theo đó, các quốc gia sẽ
đưa ra các cam kết một cách tự nguyện về tự do hoá về thuế quan, phi quan thuế, dịch vụ và đầu tư.
Trong IAP, các nền kinh tế cần làm rõ chính sách thuế quan, phi thuế quan và đưa ra cam kết về lộ
trình liên tục cắt giảm thuế quan hoặc loại bỏ các biện pháp và hàng rào phi quan thuế phù hợp với
xu thế và nguyên tắc của WTO. Các nền kinh tế đồng thời đưa ra các cam kết mở cửa thị trường dịch
vụ, nới lỏng các quy định và hạn chế tiếp cận thị trường dịch vụ, đồng thời xem xét tiến hành tự do
hoá đầu tư.
* Thuận lợi hoá kinh doanh
Thuận lợi hoá kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao dịch trong kinh doanh, tăng
cường trao đổi thông tin và tự do thương mại. Điều cốt yếu là, thuận lợi hoá thương mại giúp các nhà
XK ở Châu Á - Thái Bình Dương gặp gỡ và tiến hành kinh doanh hiệu quả hơn, do vậy làm giảm chi
phí sản xuất và dẫn tới tăng cường trao đổi thương mại, hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn, tốt hơn và cơ
hội việc làm nhiều hơn.
Để giúp tạo thuận lợi hóa kinh doanh, các nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực
hiện các CAP trên cơ sở 9 nguyên tắc hoạt động của APEC (được đề cập ở phần sau). CAP được

thực hiện trên 15 lĩnh vực được lựa chọn là: Thuế quan, Phi Thuế quan, Dịch vụ, Đầu tư, Tiêu chuẩn
và Hợp chuẩn, Thủ tục Hải quan, Quyền Sở hữu Trí tuệ, Chính sách Cạnh tranh, Mua sắm Chính
phủ, Nới lỏng cơ chế chính sách, Quy tắc xuất xứ, Cơ chế Giải quyết Tranh chấp, Đi lại của Doanh
nhân, Thực hiện kết quả Vòng Uruguay, Cơ chế tập hợp và đánh giá thông tin.
* Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
APEC đưa ra Chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH) nhằm hỗ trợ phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các thành viên APEC hướng tới sự phát triển kinh tế bình
đẳng, cân bằng và bền vững trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi nhất để triển khai các chương
trình hành động thực hiện mục tiêu Bogor.
Chương trình ECOTECH được thực hiện chủ yếu dưới dạng các dự án, chương trình hợp
tác trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ,
trợ giúp kỹ thuật đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam trên khía cạnh xây dựng và
thực hiện chính sách.
2. Nguyên tắc hoạt động của APEC
Hoạt động của APEC được điều tiết bởi những nguyên tắc cơ bản sau:
4
(1) Toàn diện (Comprehensiveness): Thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá toàn diện ở các
lĩnh vực nhằm tháo gỡ những cản trở trong quá trình thực hiện mục tiêu lâu dài về tự do hoá và
thuận lợi hoá thương mại và đầu tư;
(2) Phù hợp với GATT/ WTO (GATT/WTO consistency): Các biện pháp và chương trình hành
động áp dụng thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư phải phù hợp với
quy tắc, luật lệ và thoả thuận trong khung khổ của GATT/WTO;
(3) Đảm bảo mối tương đồng (Comparability) giữa các thành viên trong việc thực hiện tự do
hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư. Tuy có sự khác biệt về trình độ phát triển nhưng các nền
kinh tế thành viên đều phải tiến hành một cách thích đáng các biện pháp tự do hoá và thuận lợi hóa
đối với thương mại và đầu tư;
(4) Không phân biệt đối xử (Non-discrimination): Các thành viên APEC sẽ áp dụng hoặc cố
gắng áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành viên. Kết quả thực hiện tự do hoá
thương mại và đầu tư không phải chỉ áp dụng cho các thành viên mà cả với các nước không phải là
thành viên;

(5) Đảm bảo công khai (transparency) minh bạch hóa mọi luật lệ chính sách hiện hành tại
các thành viên APEC;
(6) Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc (standstill) chỉ có giảm chứ không được tăng thêm
các biện pháp bảo hộ;
(7) Cùng bắt đầu, quá trình liên tục và thời gian biểu khác nhau (Simultaneous start,
continuous process and differentiated timetables): trình độ và điều kiện phát triển kinh tế khác
nhau, khi thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, các nền kinh tế thành
viên có các thời gian biểu khác nhau với ưu tiên về thời gian đối với nền kinh tế đang phát triển là 10
năm so với nền kinh tế phát triển;
(8) Có sự linh hoạt (flexibility) trong việc thực hiện các vấn đề về tự do hoá thương mại và
đầu tư vì trình độ phát triển kinh tế của các thành viên APEC khác nhau;
(9) Hợp tác Kỹ thuật (Technical Cooperation): APEC chủ trương hợp tác kinh tế, kỹ thuật để
thúc đẩy thực hiện tự do hoá, thuận lợi hóa, thương mại và đầu tư.
Các mục tiêu và nguyên tắc hợp tác của APEC thể hiện các nét đặc trưng sau:
 APEC là một diễn đàn đối thoại, không phải là một tổ chức. Do vậy, xét về tổng thể, những
cam kết trong khuôn khổ APEC không có tính ràng buộc cao như trong ASEAN và WTO.
 APEC gắn chặt những cam kết của mình với việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ
WTO theo hướng thực hiện sâu hơn và sớm hơn trong khuôn khổ APEC (hay còn gọi là “WTO plus”
(WTO+), do đó trên bình diện toàn cầu, các thành viên APEC sẽ cố gắng thực hiện các mục tiêu về
tự do hóa thương mại và đầu tư mà WTO đề ra, đồng thời những mục tiêu ấy lại được cụ thể hóa,
giám sát thực hiện chặt chẽ hơn trên bình diện khu vực trong khuôn khổ hợp tác APEC. Điều này đã
củng cố việc thực hiện các mục tiêu của APEC.
 Theo đuổi chủ nghĩa khu vực mở (kết quả thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư sẽ
được mở rộng dành cho cả những nước không phải là thành viên tham gia) đồng thời thúc đẩy, tăng
5
cường trao đổi thương mại và đầu tư nội bộ khối và xây dựng APEC thành một khu vực mậu dịch tự
do lớn nhất thế giới, tạo đối trọng với các khu vực khác.
 Luôn gắn liền hoạt động của APEC với các sự kiện chính trị lớn diễn ra trên thế giới. Điển
hình là sau sự kiện ngày 11/9/2001, tại Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế tại Trung Quốc tháng
11/2001, các nhà đứng đầu các nền kinh tế thành viên đã ra Tuyên bố chung về chống khủng bố, thể

hiện mối quan tâm của APEC đối với an ninh chính trị trên toàn thế giới.
3. Cơ chế hoạt động của APEC
APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác kinh tế và thương mại đa phương. Đây là diễn đàn
duy nhất cam kết cắt giảm các rào cản thương mại và tăng cường đầu tư mà không đòi hỏi sự ràng
buộc pháp lý về mặt thực thi đối với các thành viên. Thành công của diễn đàn đạt được thông qua
việc tăng cường đối thoại chính sách và tôn trọng ý kiến của các thành viên. Các quyết định trong
APEC đều dựa trên cơ sở cùng có lợi, đồng thuận, tự nguyện, và phù hợp với các quy định của
GATT/WTO với mục tiêu tăng cường hệ thống thương mại đa biên, ủng hộ tự do hoá thương mại và
thuận lợi hoá thương mại và đầu tư. Các nền kinh tế thành viên thực hiện IAP và CAP nhằm mở cửa
thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
4. Cơ cấu tổ chức của APEC
Tuy hình thức là một diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực mở, nhưng APEC có một cơ chế tổ chức
và hoạt động khá chặt chẽ. APEC có trụ sở Ban thư ký, có Giám đốc điều hành Ban thư ký, cùng các
Uỷ Ban, Tiểu ban và các Nhóm công tác chuyên môn được thành lập trong từng lĩnh vực hoạt động
cụ thể. Dưới đây là một số khái quát về cơ chế tổ chức và hoạt động của APEC.
(1) Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế APEC (APEC Economic Leaders Meeting)
Đây là cơ quan có quyết định cao nhất của APEC, nơi định ra các định hướng chiến lược và
viễn cảnh dài hạn cho APEC. Hội nghị thường được tổ chức vào tháng 11 hàng năm, để phê duyệt
các kế hoạch, kiến nghị do Hội nghị Bộ trưởng đệ trình và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm
kế tiếp. Việc tổ chức Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC được đánh giá như dấu mốc biến
APEC từ một cơ chế đối thoại, tư vấn kinh tế thuần tuý thành một cơ chế như là một tổ chức quốc tế
thực sự.
(2) Hội nghị Bộ trưởng (Ministerial Meeting)
Các Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức định kỳ hàng năm, trước Hội nghị các nhà Lãnh đạo
Kinh tế APEC, bao gồm Hội nghị Bộ trưởng Thương mại, các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành như
Vận tải, Hàng không, Bưu chính viễn thông, Ngoại giao-Thương mại
Chức năng chủ yếu của các Hội nghị Bộ trưởng là xem xét, thông qua nguyên tắc, mục tiêu,
nội dung của các chương trình hành động; đánh giá tiến trình hợp tác APEC cũng như hoạt động của
các Uỷ ban, các Nhóm Công tác và các Nhóm Đặc trách; xem xét và đánh giá việc thực hiện các
sáng kiến của Hội nghị Cấp cao không chính thức; và xem xét thông qua ngân sách hoạt động hàng

năm của APEC. Trên cơ sở đó báo cáo kết quả hoạt động và đệ trình các sáng kiến, kế hoạch mới
lên Hội nghị các nhà Lãnh đạo APEC.
6
(3) Hội nghị Quan chức cấp cao (Senior Officials Meeting-SOM)
Hội nghị này thường được triệu tập thường kỳ 3 lần trong một năm, trước khi diễn ra Hội nghị
Bộ trưởng Ngoại giao-Thương mại. Nhiệm vụ chính của Hội nghị là để triển khai quyết định của Hội
nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị, chương trình hợp tác lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét. Các
quan chức cấp cao cũng đảm nhận việc xem xét, điều phối ngân sách và các chương trình hoạt động
của các Uỷ ban, Tiểu ban và các Nhóm công tác.
(4) Ban Thư ký (Secretariat)
Ban thư ký APEC làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội nghị Quan chức cấp cao và có
quan hệ thông tin liên lạc trực tiếp, thường xuyên với các nền kinh tế thành viên, các Uỷ ban, các
Nhóm Công tác và Nhóm đặc trách của APEC. Nhiệm vụ chính của Ban thư ký hoàn toàn mang tính
chất hành chính, phục vụ các Hội nghị của APEC, theo dõi việc triển khai các dự án.
(5) Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (APEC Business Advisory Council-ABAC)
ABAC có nhiệm vụ là tăng cường sự hợp tác của APEC với khu vực doanh nghiệp và thúc đẩy
sự tham gia của giới doanh nghiệp vào các hoạt động hợp tác của APEC. ABAC bắt đầu hoạt động
sau Hội nghị Bộ trưởng ở Osaka 1995 thay cho Diễn đàn Kinh doanh Thái Bình Dương (PBF) do Hội
nghị Cấp cao không chính thức thành lập. ABAC tập trung vào các lĩnh vực như phát triển cơ sở hạ
tầng, tài chính và đầu tư, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), phát triển nguồn nhân lực, quan hệ giao
dịch qua biên giới. Thành viên của ABAC là những nhân vật có uy tín trong giới doanh nghiệp của
các nền kinh tế thành viên APEC, mỗi thành viên cử 1 đến 3 đại diện, trong đó thường có một đại
diện cho SMEs.
(6) Các Uỷ ban và tiểu ban chuyên môn của APEC
Các Uỷ ban và tiểu ban chuyên môn của APEC bao gồm
- Uỷ ban Thương mại và Đầu tư (Committee on Trade and Investment-CTI)
- Uỷ ban Kinh tế (Economic Committee-EC)
- Uỷ ban Quản lý và Ngân sách (Budget and Management Committee-BMC):
- Uỷ ban điều hành SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật (SOM Steering Committee on
ECOTECH - SCE)

- Tiểu ban về thủ tục hải quan (Sub-committee on Customs procedures - SCCP)
- Tiểu ban về tiêu chuẩn và hợp chuẩn (Sub-committee on Standards and Conformance -
SCSC)
(7) Các Nhóm công tác trong APEC
Để triển khai thành công các chương trình hành động thực hiện các mục tiêu đề ra, ngoài các
Uỷ ban và Tiểu ban, APEC còn có một hệ thống gồm khoảng trên 10 Nhóm công tác chuyên ngành
và trên 4 Nhóm đặc trách trợ giúp hoạt động của APEC trên các lĩnh vực cụ thể như: Nhóm hợp tác
kỹ thuật nông nghiệp, du lịch, giao thông vận tải, nghề cá, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng,
viễn thông, công nghệ và khoa học công nghiệp, bảo tồn tài nguyên biển, xúc tiến thương mại, doanh
nghiệp vừa và nhỏ… Các Nhóm đặc trách bao gồm: Nhóm đặc trách của các chuyên gia về chống
tham nhũng và minh bạch; Nhóm đặc trách về chống khủng bố; Nhóm đặc trách về y tế; Nhóm đặc
trách về sẵn sàng trong trường hợp khẩn cấp.
7
Ngoài ra còn có một số các mạng lưới, tiến trình, tổ hợp, diễn đàn khác trong APEC bao gồm:
Mạng lưới đầu mối liên hệ về giới; Mạng lưới đầu mối liên hệ về văn hoá; Tiến trình Bộ trưởng Tài
chính; Tổ hợp các Trung tâm nghiên cứu APEC; Diễn đàn về đổi mới khoa học đời sống; Hệ thống
thực phẩm APEC…
III. CÁC NỀN KINH TẾ THÀNH VIÊN APEC
1. Điểm qua tình hình kinh tế khu vực APEC trong những năm gần đây
Kinh tế thế giới vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm 2005 mặc dù tốc độ đã chậm lại
sau mức đỉnh cao vào năm 2004. Cùng với mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu 4,1% năm 2004, mức
tăng trưởng GDP thực tế của toàn bộ khu vực APEC là 4,3%. Các nền kinh tế APEC đã giữ vững
mức tăng trưởng cân bằng tương đối so với các khu vực lân cận. Các nước lớn như Hoa Kỳ, Trung
Quốc và hầu hết các nền kinh tế mới nổi thuộc Đông Nam Á tiếp tục có những bước tiến vững chắc
về kinh tế nhờ cầu nội địa mạnh và thị trường thế giới có nhiều thuận lợi. Các nước Đông Nam Á
tăng trưởng nhanh nhất với mức 6,3%, tiếp theo là các thành viên thuộc Bắc Á với mức tăng trưởng
tổng thể là 4,5%. Mức tăng trưởng của các nền kinh tế APEC thuộc Tây Bán Cầu và Châu Đại
Dương theo thứ tự là 4,1% và 3,4%. Giá nhiên liệu cao đã thúc đẩy kinh tế Nga tăng trưởng một
cách đáng kể. Phù hợp với những dự báo về kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn bộ
khu vực APEC ở mức khiêm tốn trong năm 2005 nhưng được hy vọng là sẽ có được sức bật trong

năm 2006. Dựa trên báo cáo của các nền kinh tế APEC, có thể dự đoán rằng APEC sẽ tiếp tục duy trì
mức tăng trưởng mạnh 3,3% trong năm 2006.
Sự phát triển của các nền kinh tế APEC thúc đẩy tăng trưởng thương mại toàn khu vực.
Tổng XK và NK tăng với mức tương ứng là 20,1% và 20,6% trong năm 2004. Thương mại nội khối
APEC tiếp tục ở mức cao mặc dù các nền kinh tế APEC Tây Bán Cầu chủ yếu dựa vào thị trường
Hoa Kỳ trong khi các nền kinh tế ASEAN tăng trưởng dựa vào thị trường Trung Quốc. Nhờ kinh tế
khu vực mạnh, hầu hết các tiểu vùng đều tăng trưởng NK nhanh hơn XK. Tài khoản vãng lai của khu
vực APEC mất cân bằng rõ rệt. Tiểu khu vực APEC ở phía Tây Bán Cầu có tài khoản vãng lai thâm
hụt ở mức 4,8% tổng GDP. Ngược lại, Đông Bắc Á và Đông Nam Á có mức thặng dư tương ứng là
4,05% và 5,14%. Hầu hết thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ đều có nguồn gốc từ thương mại với các
nước ASEAN thậm chí dù cho các nền kinh tế khu vực tiếp tục rơi vào tình trạng mất thị trường từ
những năm 1990. Năm 2005, cả XK và NK được dự đoán là chậm, trong mức tương ứng là 11,8% và
14,7%.
Mặc dầu kinh tế khu vực APEC có sự phát triển về tổng thể, tuy nhiên tình hình thuê mướn
lao động vẫn chưa được cải thiện. Tại nhiều nền kinh tế phát triển nhanh ở Nam Á, tỷ lệ thất nghiệp
chỉ giảm nhẹ hoặc thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn bởi vì số công nhân mới mong muốn được gia
nhập vào thị trường lao động nhiều hơn số công việc mới được tạo ra. Ngược lại, Hoa Kỳ, Hồng
Kông, Trung Quốc và Ôxtrâylia đã giảm tỷ lệ thất nghiệp với quy mô lớn. Tỷ lệ lạm phát bị kiềm chế ở
mức thấp trong năm 2004. Sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở hầu hết các nước APEC dẫn đến giảm giá
NK đã giúp làm nhẹ tác động của việc tăng giá dầu và cầu nội địa mạnh. Tuy nhiên, vào nửa cuối
năm 2005, giá dầu cao ảnh hưởng đến giá cả nội địa. Do những điều kiện trong thị trường dầu gần
như cố định, có khả năng xảy ra rủi ro trong tăng trưởng và thuê mướn lao động vì chính phủ và khu
vực doanh nghiệp ít có khả năng đối phó trước biến động này.
8
Kinh tế APEC cho thấy những sự chỉ đạo khác nhau trong chính sách tài khoá. Sự thống
nhất về chính sách tài khoá đang được thực hiện ở nhiều nền kinh tế ở Đông Nam Á, trong khi một
số quốc gia khác tiếp tục dựa vào thuế để hỗ trợ tăng trưởng. Hầu hết các nền kinh tế APEC đang
chuyển từ chính sách tiền tệ thả lỏng sang chính sách trung lập để giữ mức lạm phát trong tỷ lệ cho
phép. Nhiều nền kinh tế APEC cũng đang tiến hành cải cách cơ cấu trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ,
tư nhân hoá, cải cách thị trường vốn

2. Các chỉ số kinh tế quan trọng của các nền kinh tế thành viên APEC.
Báo cáo về tình hình kinh tế của 21 nước thành viên APEC có trong cuốn APEC Economic
Outlook được xuất bản hàng năm và được đăng tải đầy đủ trên trang web chính thức của APEC.
Dưới đây là các chỉ số kinh tế của 21 nền kinh tế APEC được cập nhật vào tháng 6/2005.
Các nền kinh tế thành viên
và năm gia nhập
Diện tích
(nghìn
km2)
Dân số
(triệu người)
GDP (tỷ
USD)
GDP trên
đầu
người
(USD)
XK
(triệu
USD)
NK (triệu
USD)
Ôxtrâylia (1989) 7.692 20,2 692,4 33.629 86.551 103.863
Brunây Đarút Xalam (1989) 6 0,4 5,7 15.764 4.713 1.638
Canađa (1989) 9.971 32,0 1.084,1 33.648 315.858 271.869
Chilê (1994) 757 15,4 105,8 6.807 32.548 24.769
Trung Quốc (1991) 9.561 1.299,8 1.851,2 1.416 593.647 560.811
Hồng Kông, Trung Quốc
(1991)
1 6,9 174,0 25.006 265.763 273.361

Inđônêxia (1989) 1.905 223,8 280,9 1.237 71.585 46.525
Nhật Bản (1989) 378 127,3 4.694,3 36.841 566.191 455.661
Hàn Quốc (1989) 99 48,2 819,2 16.897 253.845 224.463
Malaixia (1989) 330 25,5 129,4 4.989 125.857 105.297
Mêxicô (1993) 1.958 105,0 734,9 6.920 177.095 171.714
Niu Dilân (1989) 271 4,1 108,7 26.373 20.334 21.716
Papua Niu Ghinê (1993) 463 5,9 3,5 585 4.321 1.463
Pêru (1998) 1.285 27,5 78,2 2.798 12.111 8.872
Philippin (1989) 300 86,2 95,6 1.088 39.588 40.297
Nga (1998) 17.075 144,0 719,2 5.015 171.431 86.593
Xingapo (1989) 1 4,2 116,3 27.180 179.755 163.982
Đài Loan (1991) 36 22,5 335,2 14.857 174.350 168.715
Thái Lan (1989) 513 64,6 178,1 2.736 97.098 95.197
Hoa Kỳ (1989) 9.364 293,0 12.365,9 41.815 818.775 1.469.704
Việt Nam (1998) 332 82,6 51,0 610 26.061 32.734
Nguồn:
3. Địa chỉ một số website cung cấp thông tin hữu ích về các nền kinh tế APEC
3.1. Website cung cấp thông tin chung
9
Website chính thức của APEC :
3.2. Các website cung cấp thông tin cụ thể về từng nền kinh tế thành viên
Ôxtrâylia
- Tổng cục Thống kê ()
- Bộ Thương mại – Ngoại giao ()
- Bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp ()
Brunây
- Chính phủ Brunây ()
Canađa
- APEC Canađa Website ( />Chilê
- Website Bộ ngành và Chính phủ ()

- Trung Quốc
- Bộ Ngoại giao Trung Quốc ()
- Bộ Hợp tác kinh tế và Ngoại thương ()
Hồng Kông
- Thông tin Hồng Kông ()
- Cổng Thương mại Hồng Kông ()
Inđônêxia
- Bộ Ngoại giao ()
- Bộ Tài chính ()
- Bộ Nông nghiệp ()
- Ban Hợp tác đầu tư ()
- Cục Thống kê trung ương ()
Nhật Bản
- Bộ Ngoại giao ()
- Bộ Kinh tế, Thương mại và công nghiệp ( />- Bộ Tài chính ( />- Văn phòng nội các ()
- Ngân hàng Nhật Bản ()
- Đóng góp của Nhật Bản cho APEC ()
Hàn Quốc
- Văn phòng Tổng thống ()
- Bộ Thương mại và Ngoại giao ()
- Bộ Kinh tế và Tài chính ()
- Bộ Thông tin và Liên lạc ()
- Bộ Nông nghiệp ()
- Bộ Giáo dục ()
10
- Bộ Khoa học và Công nghệ ()
- Bộ Môi trường ()
- Bộ Lao động ()
- Bộ Xây dựng và Vận tải ()
- Bộ Thuỷ sản ()

Malaixia
- Đầu tư tại Malaixia ()
- Cổng thông tin thương mại và công nghiệp của Malaixia ()
Mêxicô
- Ngân hàng trung ương ()
- Viện Thống kê, Địa lý và Tin học ()
Niu Dilân
- Chính phủ Niu Dilân ()
- Bộ Thương mại và Ngoại giao ()
- Bộ Phát triển kinh tế ()
- Ban Phát triển thương mại ()
- Uỷ ban đầu tư nước ngoài ()
- Hải quan Niu Dilân ()
- Bộ Nông – lâm nghiệp ()
- Dịch vụ nhập cư ()
- Hội đồng XK ()
- Phòng Thương mại Niu Dilân ()
- Ngân hàng quốc gia ()
Pêru
- Bộ Thương mại và Du lịch ()
- Ministry of Economy and Finance ()
- Văn phòng xúc tiến đầu tư ()
- Văn phòng xúc tiến thương mại ()
- Bộ Ngoại giao ()
- Ủy ban xúc tiến của Pêru ()
Philippin
- Bộ Tài chính ()
- Bộ Ngoại giao ()
- Bộ Thương mại và Công nghiệp ()
Nga

- Ngân hàng Nga ( />- Bộ Ngoại giao ()
Xingapo
- Ban Phát triển kinh tế ()
- Doanh nghiệp Xingapo ()
11
Đài Loan
- Ban Ngoại thương ()
- Bộ Kinh tế Đối ngoại ()
- Hội đồng Kế hoạch và Phát triển kinh tế ()
- Cổng Thông tin thương mại ()
Thái Lan
- Ngân hàng Thái Lan ()
- Bộ Tài chính ()
- Ban Phát triển kinh tế xã hội ()
- Bộ Thương mại ()
- Bộ Ngoại giao ()
Hoa Kỳ
- Bộ Thương mại ()
- Dịch vụ Thương mại Hoa Kỳ ( />Việt Nam
- Bộ Thương mại (www.mot.gov.vn)
- Bộ Ngoại giao: (www.mofa.gov.vn)
- Ngân hàng Nhà nước: (www.sbv.gov.vn)
- Bộ Tài Chính: www.mof.gov.vn
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: (www.vcci. org.vn)
12
CHƯƠNG II:
VIỆT NAM THAM GIA APEC
I. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH THAM GIA APEC CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG CÔNG VIỆC TRIỂN
KHAI.
Công cuộc “Đổi mới” năm 1986 đã giúp Việt Nam chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, tiến hành cải cách mở cửa mạnh mẽ nền kinh tế ra khu
vực và thế giới. Với việc bình thường hoá quan hệ chính trị ngoại giao với các nước và các tổ chức
quốc tế, Việt Nam đã dần từng bước nối lại quan hệ kinh tế thương mại với các tổ chức quốc tế và
các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, hợp tác và cùng có lợi. Việt Nam đã nối lại quan hệ với WB, IMF,
ADB… bình thường hoá quan hệ với các cường quốc kinh tế như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung
Quốc, và bắt đầu tham gia vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ tổ chức kinh tế quốc tế khu
vực và thế giới. Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, tham gia thành lập Diễn đàn Á – Âu (ASEM)
năm 1996, bắt đầu nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ năm 1995 đến nay.
Năm 1998, cùng với Nga và Pêru, Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC). Đây là một trong những bước quan trọng khẳng định sự nhất quán trong
chính sách hội nhập kinh tế của Việt Nam, và đồng thời thể hiện kết quả tích cực của những nỗ lực
của Việt Nam hội nhập sâu rộng và toàn diện vào cộng đồng quốc tế. Tham gia vào hoạt động APEC,
Việt Nam đã mở ra cho mình những cơ hội mới trong đối thoại chính sách với các nền kinh tế trên
các khu vực địa lý khác nhau, trong đó có cả những cường quốc kinh tế là đối tác hàng đầu trong
quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Trung
Quốc và ASEAN. Hơn thế nữa, việc tham gia vào một diễn đàn kinh tế mở, với những mục tiêu và
chiến lược cụ thể như trong APEC, các doanh nghiệp Việt Nam có “cơ hội vàng” tiếp cận “khu vực thị
trường" vô cùng lớn và đa dạng, giúp tăng trưởng về kinh tế thương mại và đầu tư, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ, nâng cao kỹ năng và trình
độ quản lý. Với một thị trường khổng lồ cả về quy mô và lĩnh vực, với lượng dân số hơn 2,5 tỷ người
13
(chiếm 1/3 dân số thế giới), tổng GDP toàn khu vực đạt trên 19.000 tỷ USD (hơn 50% GDP toàn
cầu), và giao dịch thương mại nội khối chiếm khoảng 47% giao thương toàn cầu
4
, tham gia APEC đã
và đang mở ra những cơ hội to lớn về thị trường đối với nền kinh tế Việt Nam.
Với mục tiêu cơ bản là tạo diễn đàn đối thoại chính sách nhằm đẩy mạnh tự do hoá thương
mại và đầu tư trong khu vực, tăng cường thuận lợi hoá thương mại và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động của doanh nghiệp và các nền kinh tế thành viên, APEC tiến hành xây dựng các chiến lược
thiết thực, triển khai hàng loạt chương trình hành động trên các lĩnh vực cụ thể với sự tham gia của

các nền kinh tế thành viên trên cơ sở các nguyên tắc bình đẳng, đồng thuận và cùng có lợi để hoàn
thành mục tiêu khu vực thương mại và đầu tư tự do và mở đối với tất cả các nền kinh tế thành viên
phát triển vào năm 2010 và thành viên đang phát triển vào năm 2020
5
. Định hướng hoạt động hợp
tác của APEC là: (i) củng cố hệ thống thương mại đa biên thông qua tăng cường thực hiện các cam
kết tại các Vòng đàm phán thương mại đa biên trong khuôn khổ WTO; (ii) Tăng cường tự do hoá
thương mại và đầu tư trong khu vực thông qua việc cắt giảm các rào cản đối với thương mại và đầu
tư, xúc tiến trao đổi tự do thương mại hàng hoá, dịch vụ, và tư bản giữa các nền kinh tế thành viên và
các nền kinh tế thành viên với các nước, nền kinh tế và đối tác ngoài khối; (iii) tiến hành xây dựng
các chương trình thuận lợi hoá thương mại và đầu tư thông qua việc loại bỏ những cản trở về thủ tục
hành chính và phi thuế quan nhằm tăng cường thương mại và đầu tư nội khối; (iv) tăng cường hợp
tác kinh tế kỹ thuật giữa các nền kinh tế, đặc biệt giữa nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế đang
phát triển nhằm thu hẹp khoảng cách và chênh lệch trình độ phát triển về khoa học công nghệ và
năng lực phát triển kinh tế nhằm hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề
về xã hội và môi trường.
Gia nhập APEC trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi một cách mạnh mẽ theo lộ trình
hội nhập kinh tế sâu rộng được Chính phủ vạch ra, Việt Nam cam kết thực hiện một cách nghiêm túc
những yêu cầu và đòi hỏi đối với các nền kinh tế thành viên để thực hiện các mục tiêu dài hạn của
toàn khối kinh tế này. Thực hiện chủ trương tăng cường hội nhập kinh tế để mở đường cho thương
mại phát triển, mục tiêu chính của việc tham gia APEC đối với Việt Nam được xác định là "Mở rộng
thị trường XK cho hàng hoá của Việt Nam xâm nhập thị trường các nước, đẩy mạnh XK, tạo điều
kiện cho thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy
lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam, bảo đảm nền kinh tế
tăng trưởng cao và bền vững". Khi tham gia vào các hoạt động hợp tác trong APEC, Việt Nam luôn
cố gắng gắn chặt với định hướng XK, tham gia có chọn lọc các hoạt động thiết thực để góp phần
giảm bớt các rào cản cho hàng XK của ta, giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới. Để đạt được điều này, Việt Nam
đã và đang tích cực tham gia vào các chương trình hoạt động của APEC, trong đó nổi bật là: (i) Kế
hoạch Hành động Quốc gia (IAP); (ii) Kế hoạch Hành động Tập thể (CAP); (iii) Hợp tác kinh tế kỹ

thuật (ECOTECH); (iv) và một số các hợp tác chuyên ngành khác. Kể từ 1998 đến nay, Việt Nam đã
và đang thực hiện, bổ sung các cam kết của mình trong khuôn khổ chương trình hành động IAP và
CAP, cũng như tham gia vào các chương trình hợp tác ECOTECH một cách hiệu quả và ổn định.
4
Báo cáo Triển vọng APEC 2002
5
Tuyên bố Bogor 1994 tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 2 tại Indonexia định hướng phát triển APEC
với Viễn cảnh APEC trở thành khu vực thương mại và đầu tư tự do và mở vào năm 2010 đối với các nền kinh tế
phát triển, và 2020 với các nền kinh tế đang phát triển.
14
1. Chương trình hành động Quốc gia (IAP)
IAP được coi như là công cụ chính và chủ yếu để các nền kinh tế thành viên APEC thực hiện
các mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư theo Tuyên bố Bogor. Chương trình hành động này
được thiết kế và thực hiện theo mẫu chung do Ban Thư ký APEC soạn, trong đó yêu cầu các nền
kinh tế thành viên đưa ra các cam kết cụ thể của mình trên 15 lĩnh vực là: Thuế quan, Phi thuế quan,
Dịch vụ, Đầu tư, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn và đánh giá sự phù hợp, Thủ tục Hải quan, Bảo hộ Quyền
Sở hữu trí tuệ, Chính sách cạnh tranh, Mua sắm của Chính phủ, Nới lỏng cơ chế quản lý, Quy chế
xuất xứ, Giải quyết tranh chấp, Tạo thuận lợi cho đi lại của Doanh nhân, Thực hiện kết quả Vòng đàm
phán Uruguay, và Thu thập và xử lý Thông tin. IAP có thể được hiểu như cam kết tự nguyện của từng
nền kinh tế thành viên APEC trên những lĩnh vực đã lựa chọn ở trên nhằm thực hiện mục tiêu tự do
hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư tại Tuyên bố Bogor. Cam kết trong IAP thể hiện nỗ lực và
quyết tâm của từng nền kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Là thành viên APEC, Việt Nam đã gửi bản IAP đầu tiên ngay khi kết nạp, trong đó Việt Nam
đã nêu rõ tình hình thực hiện hiện tại, các luật lệ và cơ chế điều tiết các hoạt động trong từng lĩnh
vực cụ thể trên, xây dựng các chiến lược ngắn hạn và dài hạn để thực hiện IAP một cách có hiệu
quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và hỗ trợ thực hiện các mục tiêu đã được vạch ra của toàn khối.
Các cam kết trong IAP của Việt Nam được thiết kế phù hợp với các cam kết trong khuôn khổ hợp tác
ASEAN và cam kết trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO. Hàng năm, chương trình này được rà
soát việc thực hiện theo 3 nội dung chính: (1) Cập nhật những thay đổi về tình hình và cơ chế quản lý
hiện tại trong các lĩnh vực cam kết; (2) Tổng kết lại các cam kết trong kế hoạch ngắn hạn mà Việt

Nam đã thực hiện được và những nội dung chưa thực hiện hoặc chưa hoàn thiện theo như cam kết
đặt ra ban đầu; (3) Nghiên cứu đưa ra những bổ sung cần thiết để thực hiện các cam kết trước đây
và đưa ra các kế hoạch triển khai trong thời gian tới nhằm thực hiện các mục tiêu tự do hoá và thuận
lợi hoá thương mại và đầu tư. Trong IAP, Việt Nam cam kết thực hiện toàn diện 15 lĩnh vực hợp tác,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những lĩnh vực chủ yếu, tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, đến sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế như thuế
quan, các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư, tiêu chuẩn và hợp chuẩn và thủ tục hải quan, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm của chính phủ.
Trong lĩnh vực thuế quan, Việt Nam cam kết tiếp tục cắt giảm thuế quan, minh bạch hoá
chính sách thuế quan của Việt Nam trong dài hạn, đặc biệt phù hợp với các cam kết cắt giảm thuế
quan trong ASEAN và đàm phán gia nhập WTO với mục tiêu dài hạn giảm tối đa thuế quan giúp đạt
được viễn cảnh tự do hoá thương mại và đầu tư nội khối vào thời điểm đặt ra trong Tuyên bố Bogor
là 2020. Tuy nhiên, những cam kết về cắt giảm thuế quan trong APEC không mang tính ràng buộc
chặt chẽ về thời gian thực hiện hay mức độ thực hiện như trong ASEAN hay các tổ chức kinh tế quốc
tế và khu vực.
Trong lĩnh vực phi thuế quan, Việt Nam đưa ra danh mục các hàng rào và biện pháp phi
thuế quan đang được áp dụng trong thực tiễn và đưa ra thời gian thực hiện cắt giảm, loại bỏ dần các
15
hàng rào phi quan thuế gây cản trở thương mại phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết trong khuôn
khổ WTO.
Trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam cam kết liên tục giảm những hạn chế để mở cửa thị
trường thương mại dịch vụ của Việt Nam, dành cho nhau chế độ đối xử Tối huệ quốc (MFN) và Đối
xử Quốc gia (NT) nhằm tạo thuận lợi nhất, công bằng và minh bạch cho các nhà cung cấp dịch vụ
của các nền kinh tế thành viên, đồng thời xây dựng môi trường pháp lý bình đẳng tạo cơ hội cho các
nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam hướng ra thị trường rộng lớn toàn khối. Trong IAP, Việt Nam đưa ra
các cam kết khá cụ thể trong từng lĩnh vực dịch vụ phù hợp với lộ trình và các cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ trong đàm phán gia nhập WTO.
Trong lĩnh vực đầu tư, Việt Nam cam kết dần dần thực hiện tự do hoá chế độ đầu tư, xây
dựng một hệ thống chính sách, luật lệ quản lý, thu hút và điều hành hoạt động đầu tư nhất quán, hiệu
quả và minh bạch nhằm xây dựng hình ảnh một Việt Nam đổi mới, cởi mở, năng động và không

ngừng hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam cam kết hài hoà hoá các thủ tục hải quan phù hợp với
quy định và thông lệ quốc tế, đặc biệt cam kết tuân thủ các yêu cầu và quy định tại hiệp định về thủ
tục hải quan trong WTO, từng bước tiến tới thực hiện khai hải quan điện tử, tham gia Công ước quốc
tế về hàng tạm nhập tái xuất (ATA Convention)…
Về mua sắm chính phủ, Việt Nam đưa ra những cam kết chung về minh bạch hoá mua sắm
chính phủ, về quy trình và thủ tục tham gia đấu thầu các hợp đồng xây dựng, mua sắm và chi tiêu
ngân sách, và đồng thời công khai hoá thông tin về mời thầu, xét thầu quốc tế…
Về Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn: Việt Nam cam kết tham gia vào các thoả thuận quốc tế về
tiêu chuẩn và hợp chuẩn, hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế, tham gia vào
các thoả thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn chất lượng đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp và sản phẩm điện tử… với mục đích tạo sự thuận lợi tối đa cho thương mại và đầu tư
giữa các nền kinh tế thành viên và hỗ trợ cho hệ thống thương mại đa biên toàn cầu.
Bảo bộ Quyền Sở hữu Trí tuệ. Việt Nam cam kết ủng hộ các thoả thuận và hiệp định quốc
tế trong khuôn khổ WIPO và WTO về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư. Việt Nam cam kết và đã thực hiện việc luật hoá bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ tại Luật Dân sự, Luật Sở hữu Trí tuệ và một số Nghị định và hướng dẫn cụ thể
khác.
Chính sách cạnh tranh. Để đảm bảo một khung khổ bình đẳng trong hoạt động thương mại
và đầu tư để tạo điều kiện thực hiện mục tiêu Bogor, Việt Nam cam kết và đã thực hiện xây dựng
Luật Cạnh tranh và các chế tài liên quan phù hợp với quy định của WTO và tổ chức quốc tế khác.
Việt Nam đồng thời cũng tiến hành thống nhất hoá một số đạo luật như Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp… điều chỉnh chung hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của mọi đối tượng khác nhau
16
trước đây được điều chỉnh bởi các luật khác nhau nhằm xây dựng môi trường bình đẳng thực sự tạo
điều kiện thuận lợi cho tự do thương mại và đầu tư tại Việt Nam và nội khối kinh tế APEC.
Nới lỏng cơ chế chính sách. Việt Nam cam kết thực hiện việc rà soát hệ thống chính sách
và luật pháp trong nước trên cơ sở quy chuẩn quốc tế để có thể loại bỏ, điều chỉnh sửa đổi hoặc ban
hành mới những chính sách, luật lệ cần thiết giúp lành mạnh hoá thể chế kinh tế theo hướng thị
trường, chuyển đổi phương pháp quản lý nhà nước đối với nền kinh tế và xã hội giúp tối ưu hoá việc

sử dụng nguồn tài nguyên, nhân lực có hạn phục vụ việc phát triển kinh tế và hỗ trợ thực hiện mục
tiêu Bogor.
2. Chương trình hành động tập thể (CAP)
CAP là công cụ chính nhằm thực hiện mục tiêu thuận lợi hoá thương mại và đầu tư trong nội
khối APEC, và là một trong 3 trụ cột trong Chương trình Hành động Osaka
6
để thực hiện các mục tiêu
Bogor đề cập trên đây. CAP khái quát hoá 15 lĩnh vực hợp tác được đề cập tại IAP nhằm hỗ trợ việc
thực hiện các IAP này một cách hiệu quả và bền vững. CAP chủ yếu nhằm tạo thuận lợi hoá cho
thương mại và đầu tư, nên thường tập trung vào các khía cạnh tổng thể mang tính chất khung khổ,
nền tảng hỗ trợ các nền kinh tế thực hiện các IAP.
Tham gia vào chương trình này, Việt Nam cam kết sẽ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực,
trong đó đặc biệt ưu tiên tham gia vào 2 lĩnh vực được cho là quan trọng nhất đó là Thủ tục Hải quan
và Tiêu chuẩn - Hợp chuẩn. Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chuyên ngành và đầu mối tổng hợp kinh
tế là Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Bộ Khoa học và Công nghệ tham gia vào các chương trình
này. Cụ thể như sau:
Về Thủ tục Hải quan: Việt Nam cam kết và đã tham gia nhiều công ước quốc tế liên quan
đến thủ tục hải quan như Công ước Hài hoà Danh mục biểu thuế HS 8 số (Việt Nam cam kết thực
hiện Công ước này từ 1/1/2000), tham gia Công ước Kyoto sửa đổi và giản đơn hoá và hài hoà hoá
thủ tục hải quan đối với hoạt động XK, tham gia công ước quốc tế về hàng tạm nhập ATA… Bên cạnh
đó, Việt Nam cam kết và đã thực hiện phương pháp xác định trị giá tính thuế hải quan theo hiệp định
GATT (CVA), xây dựng hệ thống quy trình thủ tục và các quy định liên quan đến XK, ban hành các
nghị định, quyết định về xử lý hành chính các vi phạm liên quan đến hải quan. Việt Nam cũng tiến
hành xây dựng và từng bước triển khai kế hoạch tự động hoá hải quan cho toàn giai đoạn 2001 –
2005. Đặc biệt, Việt Nam đã thông qua Luật Hải quan và được chính thức áp dụng từ 1/1/2002. Bộ
luật này được biên soạn với mục đích chuẩn hoá các quy định về hải quan Việt Nam theo các tiêu
chuẩn của Tổ chức Hải quan Thế giới và phù hợp với các quy định của GATT/WTO. Để biết thêm chi
tiết về Thủ tục Hải quan của từng nền kinh tế thành viên và Việt Nam, Ban Thư ký APEC đã biên
soạn một số ấn phẩm như Sổ tay Hải quan APEC (ấn phẩm hàng năm, thúc đẩy minh bạch hóa và
thông báo cho các doanh nghiệp về hoạt động của Tiểu ban Thủ tục Hải quan và cách thức doanh

6
Chương trình Hành động Osaka (Osaka Action Plans) đặt ra các khung khổ để thực hiện mục tiêu Bogor tự do
hoá thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho kinh doanh và hoạt động chuyên ngành khác trong nội bộ thành
viên APEC với đích 2010 với các thành viên phát triển và 2020 với thành viên đang phát triển. Chương trình
Hành động Osaka được thực hiện bởi 3 trụ cột: (i) Chương trình Hành động Quốc gia – IAP; (ii) Chương trình
Hành động Tập thể - CAP; (iii) Hợp tác Kinh tế Kỹ thuật – ECOTECH.
17
nghiệp có thể hưởng lợi từ các hoạt động này), Sổ tay Hải quan và Thuận lợi hóa Thương mại APEC:
Hướng dẫn cho Cộng đồng Kinh doanh APEC (cung cấp thông tin của các nền kinh tế thành viên
APEC về cơ quan hải quan, luật pháp, qui định và các thủ tục khác. Sổ tay cũng cung cấp danh mục
các điều khoản doanh nghiệp cần biết khi tiến hành kinh doanh với từng thành viên APEC cụ thể.
Thông tin trên được đăng tải trên:
/>Về Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn: Việt Nam xác định rõ việc hợp tác và hài hoà hệ thống tiêu
chuẩn quốc gia với quy định quốc tế có tác động rất lớn tới hoạt động thương mại và đầu tư. Việt
Nam dần đưa danh mục các tiêu chuẩn ưu tiên hài hoà trong APEC vào kế hoạch xây dựng tiêu
chuẩn của Việt Nam trong số đó có một số tiêu chuẩn đã được chấp nhận thành tiêu chuẩn quốc gia
của Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đã hài hoà được trên 200 tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Thoả thuận Công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn trong APEC
(APEC-MRA) đối với các sản phẩm điện, điện tử, đồ chơi, thực phẩm… Sự tham gia này đã giúp sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam dễ dàng hơn trong tiếp cận các thị trường “khó tính” của các nền kinh
tế APEC như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Niu Dilân… Từ tháng 10/2000, Việt Nam đã ký kết Thoả
thuận Thừa nhận lẫn nhau của Tổ chức Công nhận phòng Thí nghiệm Quốc tế (ILAC-MRA) và Diễn
đàn Hợp tác Công nhận Phòng Thí nghiệm khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (APLAC-MRA). Việc
tham gia này đã giúp Việt Nam nâng cao được khả năng tham gia vào các chương trình hợp tác
mang tính khu vực trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và áp dụng thực tiễn kết quả nghiên cứu,
đồng thời giúp nâng cao năng lực nghiên cứu và công nghệ cơ bản của Việt Nam trong tương quan
với các nền kinh tế nội khối. Việt Nam cũng tăng cường hoạt động chứng nhận hệ thống đánh giá và
quản lý chất lượng theo ISO 9000 và ISO 14000 cho doanh nghiệp và công ty trên toàn quốc. Đây là
nỗ lực hết sức quan trọng trong việc chuẩn hoá về tiêu chuẩn chất lượng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ

Việt Nam trước sự cạnh tranh của từ bên ngoài, và đồng thời giúp nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam trong tương quan với các nền kinh tế thành viên. Kết quả về việc hài hoà tiêu chuẩn
và hợp chuẩn trong APEC nói riêng và trong cam kết quốc tế với các tổ chức kinh tế quốc tế khác
như ASEAN, WTO… được thể hiện rõ ở tăng trưởng kim ngạch XK hàng hoá và dịch vụ Việt Nam
trong thời gian vừa qua cũng như khả năng đáp ứng về nhân lực và trình độ quản lý của Việt Nam
đối với tiếp nhận đầu tư FDI. Các thông tin liên quan đến vấn đề này có thế tìm thấy tại địa chỉ:
www.apec.org/apec/apec_groups/committees/committee_on_trade.html.
3. Hợp tác Kinh tế Kỹ thuật (ECOTECH)
Với nhận thức về sự chênh lệch và khác biệt giữa các nền kinh tế thành viên đang phát triển
và phát triển trên khía cạnh trình độ và mức độ phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật và đặc biệt
là vấn đề nhân lực, APEC đã thiết kế một trong 3 trụ cột hợp tác là Hợp tác Kinh tế Kỹ thuật với mục
tiêu xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ năng lực cho các thành viên nhằm tăng cường
khả năng hợp tác dài hạn, sâu rộng hơn giữa các thành viên và giảm bớt khoảng cách phát triển kinh
tế xã hội trong nội bộ khu vực APEC.
18
Chương trình hợp tác ECOTECH được đưa ra năm 1994 tại Bogor và tiếp tục được bàn
thảo, hoàn thiện tại Chương trình Hành động Osaka 1995, và được chính thức thông qua tại Tuyên
bố Manila về Khuôn khổ hợp tác APEC nhằm tăng cường hợp tác và phát triển kinh tế năm 1996, với
4 mục tiêu cơ bản là: (i) Tăng trưởng bền vững và phát triển đồng đều trong nội khối APEC; (ii) Giảm
sự chênh lệch phát triển kinh tế xã hội giữa các nền kinh tế thành viên; (iii) Cải thiện điều kiện sống
cho dân cư trong khu vực APEC; và (iv) Nâng cao tinh thần cộng đồng trong khu vực.
Chương trình hợp tác ECOTECH đã được các thành viên hết sức ủng hộ, đặc biệt từ phía
các nền kinh tế đang phát triển trong APEC. APEC thiết lập một ngân quỹ (tiền huy động đóng góp
niên liễm của các nền kinh tế thành viên và của các nhà tài trợ chính như Hoa Kỳ, Nhật Bản) dành
riêng tài trợ các loại hình dự án xây dựng năng lực, hợp tác kinh tế kỹ thuật phục vụ hoạt động các
diễn đàn và nhóm công tác trong APEC. Các chương trình hợp tác trong ECOTECH đã mang lại
nhiều lợi ích cho các thành viên đang phát triển như Việt Nam trên khía cạnh đào tạo chuyên gia, đào
tạo cán bộ làm công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách và nhiều dự án tài trợ nghiên cứu
chính sách phát triển thương mại…
Thông tin chi tiết tham khảo tại web:

/>II. LỢI ÍCH VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI THAM GIA APEC
1. Những lợi ích cơ bản từ việc tham gia APEC
APEC được thành lập với mục tiêu là thúc đẩy dòng chảy thương mại và đầu tư trong khu
vực. Mặc dù trong những năm qua, các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có gặp
khó khăn trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á hay một số bất ổn của nền kinh tế thế giới, nhưng nhóm các nền kinh tế bên bờ Thái Bình
Dương này vẫn đại diện cho hơn 43% tổng dân số thế giới, 56% tổng GDP và 47% thương mại toàn
cầu
7
. APEC hội tụ hầu hết các đối tác thương mại chính và công nghiệp hàng đầu và là các đối tác
thương mại chủ đạo trong chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại của Việt Nam. 80% kim ngạch, 75% đầu tư trực tiếp nước ngoài và hơn 50% viện trợ phát triển
chính thức (ODA)
8
vào Việt Nam hiện nay là do trao đổi với các thành viên APEC. Sự ổn định kinh tế
của APEC có ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng kinh tế liên tục của Việt Nam. Trên thực tế,
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, sự sút giảm kinh tế của Hoa Kỳ, Nhật bản và một số
nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs) đã làm giảm đáng kể cầu của khu vực đối với hàng XK và dòng
vốn thu hút FDI của Việt Nam. Tham gia APEC, Việt Nam có thể giành được những lợi ích to lớn trên
cơ sở hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu theo hướng đa dạng hoá chính sách và đa phương
hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, từ hợp tác song phương giữa Việt Nam với một quốc gia khác,
đến hợp tác đa phương và khu vực. Có thể khái quát một số lợi ích cụ thể như sau:
7
Thông tin trên trang mạng APEC Việt Nam 2006
8
Thông tin tổng hợp từ các trang web của Bộ Thương mại (www.mot.gov.vn), Tài chính (www.mof.gov.vn),
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (www.mpi.gov.vn)
19
Thứ nhất, Việt Nam có thêm một diễn đàn đa phương phục vụ mục đích đối ngoại, giúp, giảm
thiểu tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử, nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế.

APEC là tập hợp có thế lực lớn với nhiều thành viên có vai trò kinh tế, chính trị quan trọng như Hoa
Kỳ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN mà trong đó ta sẽ có vị trí thành viên bình đẳng, góp phần
xây dựng luật chơi chung của cả khu vực. Quan hệ với các thành viên APEC có ý nghĩa quan trọng
đối với ta cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Tham gia APEC là tham gia cơ chế tiếp xúc, đối thoại
thường xuyên, không chính thức, đặc biệt ở Cấp cao sẽ mở ra nhiều cơ hội để ta có thể trao đổi và
giải quyết các vấn đề cùng quan tâm, thúc đẩy quan hệ song phương với các đối tác quan trọng của
Việt Nam.
Thứ hai, thông qua các hoạt động hợp tác kinh tế đa phương trên nhiều cấp độ, Việt Nam có
điều kiện thuận lợi học hỏi kinh nghiệm và kỹ năng trong quản lý và điều hành nền kinh tế, nắm bắt
các thông tin về chiều hướng phát triển của thế giới để định hướng và điều chỉnh chính sách trong
nước. APEC là trung tâm tổng hợp nghiên cứu, xử lý và trao đổi thông tin toàn cầu. Việc thu thập
thông tin qua các hoạt động của APEC cũng như việc thiết lập các mạng thông tin giữa các thành
viên của APEC sẽ giúp nhiều cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế.
Thứ ba, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ các chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuật
ECOTECH trong APEC. Chương trình này bao trùm nhiều lĩnh vực hợp tác với hàng trăm dự án
được triển khai, tập trung vào những vấn đề liên quan đến hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về phát triển
nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp nhận
thông tin, phát triển thị trường Chương trình này đã tạo điều kiện cho ta tham gia phát triển bồi
dưỡng nguồn nhân lực và tiếp cận với các công nghệ mới trong các lĩnh vực sản xuất, nhằm nâng
cao hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế. Từ khi tham gia APEC đến nay, chúng ta đã nhận được sự
giúp đỡ khá hiệu quả từ các chương trình hợp tác này. Với tư cách là đầu mối trong hoạt động hợp
tác kinh tế APEC, Bộ Thương mại đã và đang là đầu mối triển khai các chương trình dự án trong
khuôn khổ hợp tác kinh tế kỹ thuật ECOTECH. Các chương trình này đã góp phần giúp nâng cao
năng lực cán bộ từ các bộ, ngành và cơ quan trung ương, đặc biệt là trợ giúp kỹ thuật về đàm phán
thương mại quốc tế, cung cấp kỹ năng và thông tin tiếp cận thị trường và hoạt động thương mại quốc
tế. Để biết thêm thông tin chi tiết liên quan đến chương trình này xin liên hệ với Vụ Chính sách
Thương mại Đa biên - Bộ Thương mại Tel: 04.8256.776.
Thứ tư, nâng cao khả năng quản lý, kinh doanh, mở rộng quan hệ thương mại đầu tư và
thâm nhập thị trường. Các đối tác kinh tế của Việt Nam chủ yếu là thành viên của APEC (ngoại trừ
EU) như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Ôxtrâylia và Niu Dilân. Bên cạnh đó,

một số nền kinh tế như Canađa, Mêxicô, Canađa, Mêxicô, Chilê là những thị trường lớn đầy tiềm
năng chưa được khai thác. Tham gia APEC, ta có cơ hội đối thoại chính sách với các nền kinh tế
phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các thành viên trên các diễn đàn quốc tế nhằm giải toả
các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng trong thương mại quốc tế.
Thứ năm, trao đổi kinh nghiệm, tạo thêm động lực thúc đẩy phát triển nội lực của các doanh
nghiệp và điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước, tăng tính cạnh tranh trong khu vực. Thông qua hợp
tác APEC, Việt Nam có cơ hội nâng cao năng lực quản lý và sản xuất trong nước, đẩy mạnh công
20
cuộc cải cách cơ chế chính sách trong nước theo hướng minh bạch hơn, bình đẳng và thuận lợi hơn
cho các hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng khai thác được kinh nghiệm và các nguồn lực quốc tế
nhằm xây dựng các khuôn khổ pháp lý theo định hướng kinh tế thị trường.
Thứ sáu, cơ chế hợp tác tự nguyện trong APEC là tiền đề tốt chuẩn bị cho việc hội nhập sâu
hơn và rộng hơn vào kinh tế khu vực và thế giới, là bước đệm chuẩn bị cho việc đàm phán gia nhập
WTO. APEC đóng vai trò là diễn đàn đối thoại, trao đổi, hợp tác, hỗ trợ trên cơ sở tự nguyện. Các
cam kết không mang tính ràng buộc, do đó không gây sức ép mà mang tính khuyến khích thúc đẩy.
Các diễn đàn trong APEC cũng là cơ hội để Việt Nam kêu gọi sự trợ giúp và linh hoạt trong quá trình
đàm phán gia nhập WTO. Tham gia vào hợp tác APEC cũng góp phần đáng kể nâng cao năng lực
của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế của
mình trong khuôn khổ ASEAN, WTO.
2. Một số khó khăn trong hợp tác APEC
Mặc dù có nhiều thuận lợi và cơ hội nhưng việc tham gia vào quá trình hợp tác APEC cũng
có nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có cả những thách thức chủ quan và khách quan. Thứ nhất,
nhận thức về APEC trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của cán bộ, giới doanh nghiệp, quần
chúng nhân dân còn nhiều hạn chế. Vấn đề này một phần do công tác, tuyên truyền, phổ biến về
APEC mới chỉ được thực hiện ở mức độ nhất định cả về nội dung và đối tượng. Mặt khác, một bộ
phận lớn các doanh nghiệp còn tỏ ra thờ ơ, chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò và lợi ích mà
APEC mang lại cho chính bản thân họ. Đây chắc chắn là một trong những cản trở lớn nhất đối với
nền kinh tế khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trong đó có sự hội nhập vào
APEC. Bên cạnh đó, do chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ quản lý tập trung
sang cơ chế thị trường, những hạn chế về nhân lực trên cả khía cạnh chất và lượng đã gây cản trở

đáng kể đến hiệu quả của các nỗ lực hội nhập kinh tế kể từ khi Việt Nam mở cửa. Sự thiếu đội ngũ
cán bộ giỏi có chuyên môn và kinh nghiệm trong hợp tác kinh tế quốc tế và kinh doanh quốc tế, cùng
với sự hiểu biết hạn chế về cơ chế thị trường và sự vận hành của nó, các học thuyết, các qui định
của thương mại quốc tế và các vấn đề nổi cộm trong thương mại quốc tế đang gây cản trở cho việc
tham gia một cách xây dựng và chủ động trong hợp tác APEC. Thêm nữa, do năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn nhiều yếu kém so sánh tương quan với các nền kinh tế
khác nên khi tham gia APEC, thực hiện các chương trình hành động APEC có thể sẽ mang lại nhiều
bất lợi đối với doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thể thấy các bất lợi này trên một số
khía cạnh như sự phân biệt đối xử giữa các nền kinh tế thành viên với Việt Nam vì Việt Nam chưa
phải là thành viên của WTO, hay sự bất lợi trong cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam so với
một số nền kinh tế khác có cơ cấu kinh tế tương đồng như Trung Quốc, Thái Lan khi các nền kinh tế
này được hưởng các ưu đãi thương mại từ các nền kinh tế phát triển APEC khác như GSP từ Nhật
Bản hay Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực
XK hàng hoá dịch vụ liên quan đến hàng nông sản, chế biến thuỷ hải sản, dệt may và thủ công mỹ
nghệ sẽ có thể gặp khó khăn trong ngắn hạn khi bị áp dụng các hạn chế bởi hàng rào phi quan thuế
và các biện pháp quản lý hành chính từ các nền kinh tế khác.
21
Việt Nam tham gia APEC trong bối cảnh có nhiều bất lợi hơn so với nhiều thành viên khác
của APEC. Việt Nam là nước đang phát triển, có nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và nhất
là đang trong giai đoạn đàm phán gia nhập WTO. Chính vì thế mà việc ta tham dự APEC có nhiều
hạn chế, nhất là khả năng phát triển những kết quả đạt được của APEC liên quan đến tự do hoá và
thuận lợi hoá thương mại. Do vậy, trong thời gian tới, việc tham gia APEC sẽ tập trung vào việc: (i)
Xây dựng và hoàn thiện Kế hoạch Hành động Quốc gia (IAP): Việc xây dựng IAP không chỉ để thực
hiện cam kết với APEC mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm giới thiệu hệ thống chính sách
pháp luật của Việt Nam với các nước. Hiện nay, IAP được cập nhật lên internet, nhiệm vụ này càng
trở lên quan trọng hơn vì nó phục vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài
muốn tìm hiểu cơ hội kinh doanh ở Việt Nam; (ii) Tiếp thu kinh nghiệm của APEC để rà soát, sửa đổi,
bổ sung chính sách trong nước phù hợp với điều kiện của ta và các chuẩn mực quốc tế. Hiện nay,
APEC đã xây dựng nhiều bộ nguyên tắc và danh mục lựa chọn, tài liệu tổng kết kinh nghiệm của các
thành viên, cùng với nhiều tài liệu tham khảo khác. Đây là nguồn tài liệu tham khảo tốt cho Việt Nam

trong quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; (iii) Thông qua hợp tác
APEC để thúc đẩy đào tạo phát triển nguồn nhân lực theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 07 về hội
nhập kinh tế quốc tế; (iv) Tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các hoạt động của APEC theo hướng có
chọn lọc; (v) Tăng cường phổ biến thông tin và kết quả hợp tác APEC. Cần tập trung cho các đối
tượng hưởng lợi và có liên quan trực tiếp như các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các cơ quan quản lý
trung ương và địa phương. Tuy nhiên, cũng cần có sự chú trọng thích đáng tới các đối tượng xã hội
khác nhau nhằm nâng cao hiểu biết và sự ủng hộ đối với tiến trình hợp tác APEC.
III. HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆT NAM TRONG NĂM APEC 2006
Năm 2006, Việt Nam sẽ đảm nhận một trọng trách quan trọng: chủ trì năm APEC 2006 và tổ
chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 14. Đây là một vinh dự của Việt Nam, góp phần khẳng định
vai trò của Việt Nam trong APEC và trên trường quốc tế và cam kết của Chính phủ Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu rộng vào các hoạt động của nền kinh tế toàn cầu.
Với vai trò chủ nhà của APEC, Việt Nam sẽ tổ chức khoảng 110 cuộc họp và hội nghị, quan
trọng nhất là Hội nghị Cấp cao, Hội nghị Liên Bộ trưởng Ngoại giao-Thương mại, Hội nghị Bộ trưởng
Thương mại, Tài chính và các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành. Việt Nam cũng phải xây dựng chủ
đề lớn cho hợp tác APEC trong năm, cụ thể hoá thành các chủ đề nhỏ và triển khai thành các
chương trình hoạt động cụ thể và chủ trì giám sát việc thực hiện. Để đảm bảo hiệu quả công tác
chuẩn bị nội dung và tổ chức hậu cần cho các sự kiện APEC sẽ diễn ra trong năm, Thủ tướng Chính
Phủ đã quyết định thành lập Uỷ ban Quốc gia về APEC 2006 do Phó Thủ tướng Vũ Khoan làm Chủ
tịch, với sự tham gia của các Bộ Ngành với tư cách thành viên Uỷ ban. Cơ cấu Uỷ ban gồm có 5 Tiểu
ban chuyên trách về Nội dung, Vật chất - Hậu cần, An ninh, Tuyên truyền – Văn hoá và Lễ tân. Các
Tiểu ban chịu trách nhiệm về các mảng công việc cụ thể và phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo
tổ chức thành công các sự kiện APEC. Ban Thư ký APEC giúp việc cho Uỷ ban Quốc gia và đã đi vào
hoạt động từ tháng 12/2005.
Chủ đề chính của APEC 2006 là “Hướng tới cộng đồng APEC năng động vì ổn định và
phát triển”, thể hiện mục tiêu trước mắt của APEC là “năng động, ổn định và phát triển”, vừa bao
22
hàm tầm nhìn của APEC trong tương lai là “hướng tới một cộng đồng”. Ba chủ đề nhỏ được lựa chọn
để định hướng cho các hoạt động trong năm là “Một môi trường an toàn và thuận lợi cho thương mại
và đầu tư hướng tới mục tiêu Bogor”, “Cùng phát triển thông qua hợp tác kinh tế - kỹ thuật”, và “Gắn

kết cộng đồng APEC”.
Năm 2006 là năm có nhiều ý nghĩa với APEC với việc một loạt các chương trình hợp tác
APEC được hoàn thành hoặc bắt đầu được triển khai như: (1) APEC sẽ đánh giá việc thực hiện giảm
5% chi phí giao dịch trong 4 lĩnh vực là thủ tục hải quan, tiêu chuẩn chất lượng, đi lại của doanh nhân
và thương mại điện tử vào năm 2006, trên cơ sở đó, APEC sẽ đưa ra các hoạt động để giảm tiếp 5%
chi phí giao dịch cho tới năm 2010; (2) APEC sẽ triển khai Lộ trình Busan để thực hiện mục tiêu
Bogor, trong đó mảng hợp tác về tự do hóa và thuận lợi hóa đầu tư cũng sẽ được đẩy mạnh lên tầm
cao mới để cân bằng với các hoạt động về thương mại; (3) APEC thúc đẩy Vòng đàm phán Đô-ha
kết thúc theo như hạn định trước vào cuối năm 2006; (4) APEC tiếp tục triển khai các hoạt động về
an ninh như chống khủng bố, an ninh con người như phòng chống thiên tai, dịch bệnh và các hoạt
động có tính chất cộng đồng như thúc đẩy hợp tác văn hóa, du lịch, hợp tác về phụ nữ, thanh niên
v.v
Trong khuôn khổ các chủ đề chính và chủ đề nhỏ, Việt Nam đã xây dựng các ưu tiên hợp tác
cho các lĩnh vực hoạt động cụ thể. Các ưu tiên này tập trung vào tăng cường giao lưu khu vực về
thương mại và đầu tư, củng cố hệ thống thương mại đa biên, nâng cao năng lực cạnh tranh của các
SMEs, tăng cường năng lực hội nhập thông qua phát triển nguồn nhân lực và xây dựng quan hệ đối
tác, đối phó với bệnh cúm gà và các bệnh dịch truyền nhiễm, chống tham nhũng, đẩy mạnh hợp tác
thông qua các hoạt động văn hoá du lịch và cải cách APEC. Việt Nam giành sự ưu tiên đặc biệt trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các SMEs như một giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế phù hợp với điều kiện phát triển thực tế hiện tại là một nền kinh tế với đa phần
là doanh nghiệp ở quy mô vừa và nhỏ. Ngoài ra, để hỗ trợ tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư,
hàng năm APEC có chương trình ECOTECH – chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật với khoảng gần
200 dự án trên nhiều lĩnh vực. Là nước chủ nhà APEC trong năm 2006, Việt Nam có thể chủ động
định hướng chương trình ECOTECH theo các ưu tiên phát triển của mình. Vì vậy, các Bộ Ngành
trong nước và cộng đồng doanh nghiệp, các Hiệp hội Doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam nên tranh thủ cơ hội này để khai thác các dự án phục vụ nhu cầu xây dựng năng
lực và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam.
Với các sự kiện APEC diễn ra trong năm 2006, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến của các quan
chức, doanh nghiệp và người dân từ 21 nền kinh tế ở Châu Á Thái Bình Dương. Đây là một cơ hội
lớn để thu hút đầu tư, xây dựng quan hệ đối tác thương mại, thúc đẩy giao lưu văn hoá và du lịch.

Các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng để đón bắt các cơ hội này. Bộ Văn hoá Thông tin và Tổng
cục Du lịch cần có kế hoạch xây dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới để giới thiệu về
văn hoá, đất nước và con người Việt Nam. Mọi thông tin chi tiết xin tham khảo tại các trang web
chính thức của APEC và APEC Việt Nam 2006:

;
;
23
;
/>.tmp/o&o2005_06_2.pdf
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ DOANH NGHIỆP CẦN QUAN TÂM
TRONG HỢP TÁC APEC
I. HỘI ĐỒNG TƯ VẤN KINH DOANH APEC (ABAC)
Có thể nói rằng, từ trước cho đến nay ABAC là đại điện đầy đủ nhất và hiệu quả nhất cho
quyền lợi và lợi ích cũng như tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp các nền kinh tế thành viên trong
APEC.
1. Sự ra đời và cơ cấu tổ chức
ABAC được các nhà lãnh đạo kinh tế APEC thành lập vào tháng 11/1995 nhằm đưa ra
những kiến nghị đóng góp cho việc thực hiện Chương trình nghị sự Osaka (Osaka Action Agenda) và
những vấn đề ưu tiên cụ thể khác liên quan tới hoạt động kinh doanh cũng như cung cấp thông tin về
các vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh doanh cho các diễn đàn khác trong APEC khi có yêu cầu
hoặc đưa ra những quan điểm có tính đến vai trò và lợi ích của doanh nghiệp trong một số vấn đề
hợp tác cụ thể, ví dụ như những khuyến nghị nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư trong
khu vực APEC.
Mỗi nền kinh tế APEC có thể cử 1 đến 3 thành viên từ khu vực tư nhân tham gia ABAC. Các
thành viên của ABAC được các nhà lãnh đạo kinh tế của họ bổ nhiệm và sẽ đại diện cho các ngành
nghề kinh doanh khác nhau, bao gồm cả SMEs. Mỗi nền kinh tế tự quyết định nhiệm kỳ của người
được bổ nhiệm cũng như các công việc hành chính và nhân sự có liên quan.
Chủ tịch ABAC được lựa chọn hàng năm và là công dân của nền kinh tế thành viên chủ trì

Hội nghị APEC năm đó. Ví dụ, Việt Nam năm nay (2006) chủ trì Hội nghị APEC nên chức Chủ tịch
ABAC do Việt Nam cử đại diện. Năm 2007, Ôxtrâylia sẽ chủ trì Hội nghị APEC thì Chủ tịch ABAC sẽ
do Ôxtrâylia đề cử. Chủ tịch ABAC năm APEC Việt Nam 2006 là Ông Hoàng Văn Dũng – Phó Chủ
24
tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
9
. Năm ngoái – APEC Hàn Quốc 2005, Chủ
tịch ABAC là Ông Jae-Hyun Hyun - Chủ tịch tập đoàn Tong Yang, người Hàn Quốc.
Ban Thư ký Quốc tế của ABAC đặt trụ sở tại Manila, Philippin. Ban Thư ký phục vụ tất cả các
thành viên APEC và duy trì một website riêng (www.abaconline.org). Tài chính cho hoạt động của
ABAC được thực hiện thông qua một hệ thống đóng góp niêm liễn hàng năm dựa trên quy mô của
mỗi nền kinh tế thành viên, dựa trên công thức đóng góp của APEC.
2. Báo cáo thường niên 2005 của ABAC lên Hội nghị Lãnh đạo kinh tế APEC
Năm 2005 ABAC đã trình một bản báo cáo lên Hội nghị lãnh đạo kinh tế APEC với chủ đề:
“Thiết lập mạng lưới Châu Á – Thái Bình Dương: Con đường dẫn tới sự thịnh vượng chung”
(Networking Asia-Pacific: A Pathway to Common Prosperity). Trong bản báo cáo ABAC nhấn mạnh và
tin tưởng vào APEC với vai trò là một thể chế khu vực quan trọng:

Có khả năng đưa viễn cảnh kinh doanh về một Cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương
trong đó hàng hoá, dịch vụ, tài chính và con người được di chuyển tự do thành hiện thực.

Đảm bảo rằng tất cả mọi người trong APEC sẽ được thừa hưởng thành quả của sự thịnh
vượng từ quá trình hội nhập trên.

Và thiết lập một khuôn khổ thích hợp nhằm ứng phó với khủng hoảng khu vực.
Tuy nhiên, ABAC cũng đặt ra câu hỏi liệu APEC có thể đạt được mục tiêu Bogor
10
hay không
và đã đưa ra một loạt các thách thức và rủi ro mà khu vực đang phải đối mặt. Do vậy, báo cáo nêu ra
chi tiết 10 khuyến nghị chính yếu sau:


Kết thúc thành công vòng đàm phán Đôha – WTO

Hưởng ứng Sáng kiến Santiago
11

Tiếp tục đưa APEC theo hướng thực hiện mục tiêu Bogor

Thích ứng với môi trường an ninh mới

Tạo lập một môi trường thuận lợi cho kinh doanh

Củng cố các hệ thống tài chính

Sẵn sàng đối phó với tình trạng khẩn cấp

Đối phó với tình trạng bất ổn định năng lượng

Khuyến khích sự đổi mới

Thúc đẩy các công nghệ liên quan đến môi trường và khoa học tự nhiên
3. Chương trình công tác của năm 2006
Năm 2006 chủ đề
12
của ABAC là:
9
Giám đốc điều hành ABAC năm 2006 là Ông Trần Thiện Cường, Giám đốc Ban Quan hệ quốc tế Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
10
Mục tiêu Bogor là Tự do hoá thương mại và đầu tư vào năm 2010 đối với các nước phát triển và năm 2020

đối với các nước đang phát triển trong APEC
11
Sáng kiến Santiago là sáng kiến liên quan đến vấn đề xây dựng năng lực phục vụ cho thương mại mở rộng
trong APEC
12
Chủ đề của năm 2005 là :“Thiết lập mạng lưới Châu Á – Thái Bình Dương: Con đường dẫn tới sự thịnh
vượng chung” (Networking Asia-Pacific: A Pathway to Common Prosperity)
25

×