Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Các thuốc điều trị viêm ruột pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.41 KB, 3 trang )

Các thuốc điều trị viêm ruột

Bệnh viêm ruột gồm có hai dạng chính: bệnh Crohn và viêm loét ruột kết mạn tính.
Bệnh Crohn được đặc trưng có những vùng của dạ dày - ruột bị dày lên, có viêm lan
ra tất cả các lớp, loét sâu và lớp niêm mạc nứt nẻ xuất hiện u hạt. Tổn thương có thể
ở bất kỳ chỗ nào của dạ dày - ruột, xen kẽ vào những vùng mô tương đối bình
thường. Đoạn cuối của hồi tràng hay bị bệnh hơn cả. Bệnh viêm loét ruột kết mạn
tính khu trú ở ruột kết và trực tràng. Viêm ở bề mặt nhưng liên tục, trong vùng tổn
thương ít thấy u hạt.
Những thuốc dùng trong điều trị hai dạng
viêm ruột là giống nhau. Các corticosteroid
hoặc aminosalicylat là thuốc lựa chọn đầu tiên
ở dạng bệnh hoạt động. Corticoid có hoạt tính
rộng và là thuốc ưu tiên dùng trong những ca
bệnh nặng nhất, liều dùng và đường dùng
thuốc phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của
bệnh. Với bệnh Crohn, chế độ ăn uống có vai trò quan trọng, nhưng với bệnh viêm ruột
kết mạn tính loét thì chế độ ăn uống có vai trò thấp hơn. Hợp chất amino salycilat và dẫn
chất dùng để điều trị các ca bệnh nhẹ và có vai trò đặc biệt trong điều trị bệnh viêm ruột
kết mạn tính loét, nhưng vai trò của những thuốc này trong điều trị bệnh Crohn chưa
được xác định rõ. Các chất ức chế miễn dịch có thể có ích trong bệnh mạn tính,
Dạng bệnh hoạt động: sulfasalazin uống, một dẫn chất của 5-amino salycilat là thuốc chủ
yếu cho dạng bệnh hoạt động. Nó làm bệnh mạn tính loét nhẹ và vừa hồi phục với bệnh
Crohn ở kết tràng, kết quả cũng tốt như vậy nhưng ở hồi tràng thì kết quả không nhất
quán.
Từ sulfasalazin đã mở đường cho việc phát triển một loạt dẫn chất, trong đó có mesalazin
là chính phân tử acid 5-amino salicylic giải phóng chậm, olssalazin (2 phân tử acid 5-
amino salicylic liên kết với nhau qua cầu nối azo) và nhiều thứ thuốc khác nữa. Tất cả
các thuốc trên đều có hoạt tính với viêm ruột kết tràng loét mạn tính hoạt động, lại dung

Hình ảnh viêm ruột non.


nạp tốt hơn sulfasalazin vì chất sulfasalazin có nhiều tác dụng phụ mà chủ yếu là do
phần sulffonamid gây ra. Nhưng với những bệnh nhân dung nạp tốt sulfasalazin thì các
thuốc mới không có ưu điểm gì hơn.
Cũng giống như với bệnh Crohn, mesalazin cũng có tác dụng trên bệnh nhân có bệnh
viêm ruột kết. Thuốc quan trọng thứ hai dùng trong điều trị viêm ruột kết mạn tính loét là
các corticosteroid. Với bệnh cấp tính từ vừa đến nặng, các corticois dùng toàn thân được
lựa chọn đầu tiên. Prednison hay prednisolon đường uống hay được sử dụng. Trong
những trường hợp nặng nhất thì tiêm tĩnh mạch hydrocortison hay methylprednisolon hay
methylpresnisolon. Ban đầu dùng liều cao, sau giảm dần khi triệu chứng được cải thiện,
nhưng tác dụng phụ của cách dùng này là vấn đề cần quan tâm, Vì vậy, người ta chú ý
đến những corticosteroid khó hấp thu hoặc chuyển hóa nhanh như beclomethason,
budesonid, fluticason, tixocortol. Budesonid dùng đường uống gây thoái triển bệnh
Crohn và tác dụng tương đương với các corticosteroid thường dùng, nhưng tác dụng phụ
ít hơn. Nó có hiệu quả hơn mesalazin trong trường hợp bệnh Crohn ở hồi tràng hay kết
tràng, hay cả hai.
Ở những bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn cuối của kết tràng hay trực tràng thì có thể dùng
thuốc tại chỗ: các thuốc đạn prednisolon hay mesalazin là thích hợp. Nhưng đối với viêm
trực kết tràng thì thuốc thụt thích hợp hơn. Dùng dung dịch thụt corticosteroid hay
mesalazin. Kết quả cho thấy, dùng mesalazin đường trực tràng để điều trị viêm kết tràng
mạn tính loét. Dùng kết hợp mesalazin với corticosteroid đường toàn thân chỉ dành riêng
cho những bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp dùng tại chỗ.
Các thuốc khác dùng trong bệnh viêm ruột hoạt động phải kể đến thuốc ức chế miễn dịch.
Nhiều nghiên cứu tập trung vào các chất azathioprin hay chất chuyển hóa của nó là
mercaptopurin. Thuốc thể hiện hiệu quả chậm, nhưng có ích cho những bệnh nhân bị
bệnh Crohn, nhất là bị rò và cho những ca viêm kết tràng mạn tính loét khó trị. Nhưng
kết quả tốt nhất đạt được với những bệnh nhân đang dùng corticosteroid, rồi dùng thêm
các chất ức chế miễn dịch. Methotrexat liều thấp có ích với bệnh Crohn và bệnh viêm
ruột kết mạn tính loét, nhưng ciclosporin thì kết quả kém.
Metronidazol có tác dụng hạn chế trong viêm ruột nhưng lại có tác dụng trong những
biểu hiện của bệnh Crohn vùng đáy chậu. Các kháng sinh khác được dùng theo kinh

nghiệm: ciprofloxacin được ưa chuộng, nhưng thiếu bằng chứng thuyết phục và đã được
dùng kết hợp với metronidazol và liệu pháp không được dung nạp tốt. Ritarubin được
dùng kết hợp với một macrolid (clarithromycin hay azithromycin) tỏ ra có hiệu quả.
Một số thuốc đã được dùng trong viêm ruột hoạt động: các globulin, miễn dịch, các
interferon, các acid béo chuỗi ngắn, heparin, yếu tố XIII, chloroquin, triglycerid của các
acid omega3, omeprazol camostat mesylat, ketotifen, infliximad. Các chất ức chế yếu tố
gây hoại tử khối u như: thalidomid, oxypentifyllin đã được thử, trong đó thalidomid có
một số kết quả tốt.
Các thuốc chống tiêu chảy phải dùng cẩn thận và trong viêm ruột nặng phải tránh hoàn
toàn loại thuốc này vì nguy cơ gây độc cho ruột kết to. Trong trường hợp bệnh nặng,
phải chống suy dinh dưỡng.
Điều trị duy trì: thuốc 5-aminosalicylat làm cho bệnh viêm ruột kết mạn tính loét đã
thuyên giảm được ổn định. Mesalazin có thể làm giảm những đợt tái phát bệnh Crohn sau
khi xử lý phẫu thuật. Nói chung các corticoid không có hiệu quả trong duy trì cả hai
bệnh.
DS. Phạm Thiệp

×