Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chính sách tiền tệ Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.95 KB, 13 trang )

CHNH SCH TIN T VIT NAM - THC TRNG V GII PHP
PGS.TS. Lê Hoàng Nga
Học viện Ngân hàng
Trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là tăng
trởng kinh tế, ổn định đồng tiền, cân bằng cán cân đối ngoại và giải quyết
công ăn việc làm, chính sách tiền tệ quốc gia có vai trò rất quan trọng. Thông
thờng, việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) đợc Quốc hội hoặc Chính
phủ các quốc gia giao cho Ngân hàng Trung ơng đảm nhiệm. Với việc quản
lý một đối tợng đơn chiếc, riêng lẻ và duy nhất trong một nớc là tiền tệ, với
tính chất nhạy cảm và có tính công cộng cao nh tiền tệ, thì việc điều hành và
thực thi CSTT quốc gia của Ngân hàng Trung ơng không phải là dễ dàng. Bất
kỳ một động thái nào của Ngân hàng Trung ơng trong việc đa ra các quyết
sách của mình về tiền tệ, ngân hàng đều gây ra các phản ứng tức thời tới các
hoạt động kinh tế vĩ mô và vi mô trong nền kinh tế.
ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam (NHNN) thực hiện CSTT từ
đầu những năm 90 của thế kỷ 20 vừa qua. Cho đến nay, CSTT quốc gia đã
thực sự góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội
của Nhà nớc, nhất là trong việc kìm chế lạm phát từ 3 con số vào những năm
1985-1989 xuống còn 1 con số kể từ đầu những năm 90, cung cấp tổng ph-
ơng tiện thanh toán (M2) cho nền kinh tế phù hợp với tốc độ tăng của GDP,
từ đó thúc đẩy tăng trởng kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng. Quan
điểm điều hành CSTT ở Việt Nam hiện nay là theo quan điểm đa mục tiêu,
tuỳ vào diễn biến kinh tế- xã hội mà lựa chọn mục tiêu thích hợp. Trình độ
hoạch định và điều hành CSTT của NHNN Việt Nam ngày càng tăng lên
thông qua việc chú trọng công tác phân tích mọi diễn biến kinh tế- tiền tệ
trong nớc và quốc tế để có những dự báo và quyết định kịp thời tới việc ổn
định giá trị đồng tiền Việt Nam, sử dụng ngày càng nhuần nhuyễn hơn các
công cụ của CSTT. Với quan điểm điều hành CSTT một cách thận trọng và
linh hoạt để kiểm soát lạm phát ở mức 1 con số, hỗ trợ tăng trởng kinh tế,
củng cố sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh có nhiều bất
lợi, CSTT vừa qua thực sự có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế.


Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì việc điều hành CSTT của Việt Nam hiện nay
cha hẳn là hoàn thiện. Vẫn còn nhiều bất cập khi điều hành CSTT mà NHNN
và các Bộ hữu quan cần phải tập trung giải quyết.
1. Một số bất cập lớn trong chính sách tiền tệ Việt Nam hiện nay
1.1. Bất cập trong hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia
Có thể nói, một khó khăn trong hoạch định CSTT chính là vị thế của
NHNN Việt Nam. Theo Luật NHNN năm 1997 và Luật sửa đổi , bổ sung
một số điều về NHNN theo Lệnh số 19/2003/L/CTN ngày 26/6/2003 (Quốc
hội khoá VI kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17/ 6/ 2003) thì NHNN không độc
lập với Chính phủ mà là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, trong Hội đồng
t vấn CSTT quốc gia có nhiều thành phần từ các cơ quan hữu quan của Chính
phủ. Đây là một đặc thù của Việt Nam mà chúng ta cha thể thực hiện theo
mô hình NHTW độc lập của các nớc phát triển. Rõ ràng là điều này không
đem lại cho NHNN tính độc lập và nhanh nhạy khi mà các diễn biến kinh tế-
xã hội trong và ngoài nớc là bất thờng, không thể dự đoán trớc chính xác.
Nhng điều quan trọng là Chính phủ cần cho phép NHNN có nhiều quyền hạn
hơn trong việc điều hành CSTT.
Một khó khăn lớn của NHNN nữa là sự phối kết hợp giữa các tài khoản
lớn của quốc gia với CSTT còn rất nhiều khó khăn. CSTT là một bộ phận của
chính sách tài chính quốc gia, do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ và thờng
xuyên giữa CSTT, cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thơng mại, Ngân sách
Nhà nớc. Trong một nền kinh tế mở nhỏ nh Việt Nam thì mối quan hệ giữa
các chính sách này là vô cùng phức tạp, tuỳ thuộc vào chế độ tỷ giá, mức độ
chu chuyển vốn, mức độ bội chi cán cân thanh toán và ngân sách Nhà n-
ớc Trong khi chúng ta đạt đợc sự cân bằng bên trong nền kinh tế do đã
kiểm soát đợc lạm phát và đạt tăng trởng kinh tế thì chúng ta lại mất cân
bằng bên ngoài do cán cân vãng lai của cán cân thanh toán bị thâm hụt. Khi
nhìn vào bản cân đối tiền tệ của NHNN, chúng ta sẽ thấy rõ mối quan hệ
này.

Tài sản Có Tài sản Nợ
1. Tài sản Có ngoại tệ ròng (NFA)
- Tài sản Có ngoại tệ
- Tài sản Nợ ngoại tệ
2. Tài sản Có trong nớc ròng
(NDA)
- Cho vay Chính phủ ròng
- Cho vay các ngân hàng thơng mại
- Các khoản khác ròng
Tiền dự trữ (MR)
- Tiền gửi của các ngân hàng th-
ơng mại tại NHTW.
- Tiền ngoài NHTW
Một sự thặng d hoặc bội chi cán cân thanh toán sẽ làm tăng hoặc giảm
tiền dự trữ với các điều kiện khác không đổi, dẫn đến tổng phơng tiện thanh
toán( M2) cung ứng cho nền kinh tế sẽ thay đổi. Tơng tự nh vậy, bội thu hay
bội chi Ngân sách Nhà nớc sẽ làm giảm hay tăng việc vay NHNN, dẫn đến
sự thay đổi M2. Nhng ở Việt Nam, khi xây dựng CSTT, NHNN gặp nhiều
khó khăn về số liệu thống kê, báo cáo về các vấn đề tài chính công Sự
không khớp nhau về thời gian báo cáo, về độ chính xác và đầy đủ của số liệu,
sự khó khăn về con ngời và cơ sở vật chất, việc cha thống nhất các mẫu biểu
thống kê ở các cơ quan hữu quan (NHNN, các tổ chức tín dụng, Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và đầu t ) hiện đang là những khó khăn trong dự báo,
dự đoán cũng nh đa ra các quyết định đúng đắn về điều hành CSTT.
1.2. Bất cập trong điều hành Chính sách tiền tệ
1.2.1. Trong việc sử dụng các công cụ của CSTT
Việt Nam sử dụng các công cụ của CSTT từ đầu thập kỷ 90 vừa qua. Từ
chỗ chỉ sử dụng các công cụ trực tiếp của CSTT là chủ yếu, cho đến nay,
NHNN đã dần từng bớc chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp, mở rộng
và nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ thị trờng mở, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ,

dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn , và trong trờng hợp cần thiết sử dụng công cụ
tỷ giá, lãi suất . Có thể nói, NHNN Việt Nam gần nh đã sử dụng tất cả các
công cụ của CSTT theo thông lệ quốc tế, trong đó, NHNN rất chú trọng đến
việc hoàn thiện và đổi mới các công cụ này. Tuy nhiên, các công cụ gián tiếp
của CSTT đòi hỏi nhiều điều kiện tiền đề quan trọng mà chúng ta cha thể
ngay lập tức đáp ứng để nâng cao chất lợng của chúng. Tồn tại lớn nhất là
NHNN cha có đủ điều kiện xây dựng và sử dụng CSTT có hiệu quả, sự phối
kết hợp giữa các bên liên quan còn kém, việc xác định khối lợng tiền cung
ứng hàng năm cha chính xác và cha kịp thời. Hiện nay còn nhiều bất cập
điều hành CSTT mà bài viết này chỉ đề cập đến một số nét cơ bản.
- Trong việc ổn định đồng tiền quốc gia
Sự ổn định đồng tiền đợc thể hiện ở ổn định sức mua đối nội và đối
ngoại của đồng tiền Việt Nam. Sức mua đối nội thờng biểu hiện qua chỉ tiêu
lạm phát cao hay thấp. Trong những năm gần đây, mức lạm phát thờng đợc
Quốc hội xác định ở mức 1 con số, tuy nhiên trong thực tế có những thời kỳ
giảm phát, (1999-2002), gây ảnh hởng không nhỏ tới hoạt động kinh tế.
Bảng 1: Mức độ lạm phát ở Việt Nam
Đơn vị: %
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Chỉ tiêu 10 10 7 7,8 10 6 5 5
Thực 12.7 4,5 3,6 9,0 0,1 -0,6 0,8 0,3
hiện
Nguồn: Báo cáo thờng niên của Ngân hàng Nhà nớc
Khả năng dự báo lạm phát của NHNN còn yếu kém về phơng pháp tính,
thu thập và xử lý thông tin thị trờng, các biện pháp kích cầu khi xảy ra giảm
phát tỏ ra kém hiệu quả bởi các kênh truyền dẫn cha đầy đủ và cha hiệu quả.
Mức độ đôla hoá ở Việt Nam khá cao (trên 30%) gây ảnh hởng không
nhỏ tới việc hoạch định và điều hành CSTT, mối quan hệ giữa M2 và giá cả,
sản lợng. Với mức độ đôla hoá tài sản và tiền gửi cao nh vậy thì việc xác
định cung tiền trở nên khó khăn vì có yếu tố ngoại lai trong lu thông tiền tệ,

đôla trôi nổi trong xã hội lớn khó kiểm soát và tính toán đợc, cầu VND vì
vậy không ổn định. NHNN phải tính toán M2 dựa vào công thức:
M2= VND ngoài lu thông + tiền gửi (VND+ ngoại tệ)
Cả 2 yếu tố này đều khó tính toán cụ thể khi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt
trong thanh toán còn khá lớn (theo tính toán của NHNN hiện nay thì tỷ lệ
này trung bình khoảng 25% trong tổng các khoản thanh toán), tỷ lệ kết hối
đã đợc dỡ bỏ đối với 50/60 tổ chức tín dụng đợc phép kinh doanh ngoại hối.
NHNN vì vậy chỉ có thể điều tiết lợng tiền cung ứng qua công cụ dự trữ bắt
buộc, lãi suất, nghiệp vụ thị trờng mở mà không sử dụng đợc tiền cơ sở (Base
Money) vì hệ số tạo tiền (m) rất khó dự báo.
- Công cụ lãi suất
Lãi suất là một biến số kinh tế nhạy cảm và chịu ảnh hởng của nhiều
nhân tố khác nhau. Lãi suất trong CSTT bao gồm lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất cho vay.Về lãi suất tái cấp vốn, chủ yếu NHNN chỉ cho vay NHTMNN,
không cho vay nhiều đối với các loại NHTMCP, ngân hàng liên
doanh Trên thực tế, lãi suất tái cấp vốn thờng thấp hơn lãi suất cho vay, gây
khó khăn trong điều hành lãi suất.
Lãi suất VND và USD chênh lệch nhau khá lớn trong nhiều thời kỳ,
trung bình là khoảng 6%/năm từ đầu năm 2003 cho đến nay, tạo ra sự luân
chuyển vốn nội tệ và ngoại tệ nhiều khi không thuận đối với các tổ chức tín
dụng.
Bảng 2: Chênh lệch lãi suất huy động và cho vay VND và USD
Đơn vị tính : %
Năm
Lãi suất huy động Lãi suất cho vay
Ngắn hạn Dài hạn Ngắn hạn Dài hạn
VND USD VND USD VND USD VND USD
1999 3,6 3,5 6,0 4,0 10,2 7,5 10,2 7,5
2000 6,0 4,5 7,8 5,0 7,8 6,8 8,4 7,0
2001 5,4 1,55 6,6 1,99 7,2 4,0 7,8 5,0

2002 6,0 1,2 7,0 1,2 7,5 3,5 8,4 4,5
Nguồn: Báo cáo thờng niên của Ngân hàng Nhà nớc
Hiện nay, trong các tổ chức tín dụng đang tồn tại nhiều loại lãi suất u
đãi khác nhau (lãi suất u đãi trong nông thôn, lãi suất cho vay qua Quỹ hỗ trợ
phát triển, lãi suất qua các Hội phụ nữ, hội Cựu chiến binh ), gây khó khăn
trong quản lý và theo dõi lãi suất, tạo ra phần nào cơ chế "xin - cho" về lãi
suất đối với các tổ chức vay vốn. Chênh lệch lãi suất nông thôn và thành thị
còn khá lớn. Lãi suất cơ bản đợc thực hiện từ tháng 5/2003 cho đến nay thực
ra không còn ý nghĩa khi mà lãi suất cơ bản thờng công bố ở mức 0,6%-
0,625%/ tháng nhng lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thờng dao
động ở mức trên 0,75%/tháng, cao nhất là 1,2%/tháng. Đặc biệt, lãi suất cho
vay không tăng lên nhng lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng tăng
mạnh, mặt khác, các tổ chức tín dụng huy động vốn với lãi suất huy động
vốn cố định nhng lại cho vay theo lãi suất thoả thuận từ ngày 1/6/2002. Điều
này đã tạo ra rủi ro lãi suất rất lớn mà NHNN đã cảnh báo các tổ chức tín
dụng từ giữa năm nay. Đây là một hiện tợng không bình thờng và cũng
không lành mạnh khi mà các NHTMNN huy động vốn chủ yếu rót vào
những khách hàng lớn, một số khách hàng này hiện nay đang bị xếp hạng tín
dụng thấp. Các loại lãi suất cơ bản, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất thị trờng
mở của NHNN hầu nh không có tác dụng đối với lãi suất thị trờng. Rất
nhiều hiện tợng về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của NHNN và các tổ
chức tín dụng đang trở thành những vấn đề kinh tế nóng bỏng trong kinh
doanh tiền tệ mà ngành ngân hàng đang phải tập trung giải quyết.
Có thể nói, những hiện tợng này là tất nhiên trong cơ chế lãi suất thoả
thuận hiện hành mà chúng ta phải chấp nhận. Nếu phân tích kỹ thì chúng ta
sẽ thấy, các cơ sở cho cơ chế điều hành lãi suất này cha hội đủ, đó là thị tr-
ờng tiền tệ, mà cụ thể là thị trờng liên ngân hàng (thị trờng nội tệ và ngoại tệ
liên ngân hàng) cha phát triển đồng bộ, các kênh dẫn truyền tác động của
chính sách lãi suất và CSTT nói chung tới các tổ chức tín dụng và nền kinh tế
cha đầy đủ, việc quản lý vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng cha thật sự

đợc quan tâm thích đáng. NHNN cha có một đề án lãi suất thống nhất xuyên
suốt từ lãi suất ngắn hạn tới lãi suất trung và dài hạn. Vì vậy, việc tiến tới tự
do hoá lãi suất ở Việt Nam là hoàn toàn hợp quy luật trong bối cảnh hội nhập
quốc tế đang trở thành hiện thực, tuy nhiên, lộ trình này còn ẩn chứa nhiều
vấn đề mà NHNN phải quan tâm giải quyết ở tầm vĩ mô.
- Nghiệp vụ thị trờng mở
Nghiệp vụ thị trờng mở đợc thực hiện ở Việt Nam từ ngày 12/8/2000
sau một giai đoạn chuẩn bị lâu dài. Việc thực thi nghiệp vụ thị trờng mở
đánh dấu một bớc chuyển quan trọng của NHNN trong điều hành công cụ
CSTT từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp. Hơn 3 năm qua, nghiệp vụ
thị trờng mở đã hoạt động thờng xuyên, cung ứng hàng nghìn tỷ tiền đồng
cho các tổ chức tín dụng vào những lúc căng thẳng, góp phần ổn định tiền tệ.
Hiện nay, thành viên của thị trờng mở là 22 thành viên, bao gồm 4
NHTMNN, 10 NHTMCP, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh nớc ngoài, 1
công ty tài chính , Quỹ Tín dụng nhân dân. Hàng hoá giao dịch tuy bao gồm
các giấy tờ có giá ngắn hạn nhng chủ yếu chỉ có tín phiếu kho bạc và tín
phiếu ngân hàng Nhà nớc, trong đó giao dịch tín phiếu ngân hàng Nhà nớc
chiếm khoảng 14,5% năm 2001, 20,7% năm 2002 trong tổng giao dịch trên
thị trờng mở. Đến hết quý 1/2003, thị trờng mở đã thực hiện đợc 177 phiên
với các số liệu chủ yếu sau:
Bảng 3: Khối lợng phát hành tín phiếu kho bạc tại NHNN
Đơn vị: tỷ đồng
Thời hạn Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Quý1/2003
364 ngày 4.441 2.945 6.218 2.480
Thời hạn
khác
- 970 2.202 -
Tổng số 4.441 3.915 8.420 2.480
Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam
Bảng 4: Doanh số giao dịch trên thị trờng mở

Đơn vị : tỷ đồng
Doanh số Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Quý1/2003
Tổng doanh số
- NHNN mua
1.903,5
1.353,5
3.933,8
3.313,8
9.145,5
7.245,5
9.734
6.694
- NHNN bán 550 620 1900 3.040
Nguồn: Ngân hàng Nhà nớc
So với yêu cầu của thực thi CSTT thì nghiệp vụ thị trờng mở cửa Việt
Nam hiện nay còn nhiều hạn chế cần phải tháo gỡ.
- Tuy thành viên thị trờng mở là khá đông đảo, nhng thực sự tham gia
giao dịch thờng là chỉ 30%/tổng số thành viên, trong đó chủ yếu là các
NHTMNN (96,7% vào năm 2001 và 99,6% năm 2002). Khoảng 30% các
phiên giao dịch không trúng thầu trong quý 1/2003. Do đó, các giao dịch
trên thị trờng này cha phản ánh đúng nhu cầu vốn khả dụng của các tổ chức
tín dụng cũng nh việc phát huy vai trò của thị trờng mở tới CSTT cha thật sự
đúng với yêu cầu của nó.
- Hàng hoá giao dịch trên thị trờng quá đơn điệu, chủ yếu là tín phiếu
kho bạc, trong khi đó, các loại giấy tờ có giá khác, kể cả các loại giấy tờ có
giá ngắn hạn nh thơng phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
trung và dài hạn cha đợc giao dịch trên thị trờng này, mặc dù Luật sửa đổi
NHNN đã cho phép. Đây là một khó khăn tiềm ẩn vì các loại giấy tờ có giá
này chỉ có thể phát sinh theo mức độ sôi động về kinh tế của các doanh
nghiệp và tổ chức tín dụng, không thể ra đời và hoạt động theo ý thức chủ

quan của các nhà quản lý. Chính vì vậy, pháp lệnh thơng phiếu mặc dù đã đ-
ợc ban hành vào năm 2000 nhng cho đến nay, Pháp lệnh này gần nh cha đi
vào cuộc sống. Các sản phẩm tài chính ngắn hạn khác rất phát triển ở các n-
ớc nh hợp đồng mua lại, hợp đồng mua lại ngợc, chấp nhận của ngân hàng,
trái phiếu chính phủ thời hạn 2 năm cha hiện hữu nhiều ở Việt Nam. Một
khi mà hàng hoá cha đa dạng thì hoạt động giao dịch vốn cha thể thờng
xuyên đợc.
- Hoạt động của nghiệp vụ thị trờng mở chủ yếu dựa trên chơng trình
phần mềm của hệ thống giao dịch điện tử. NHNN Việt Nam hiện nay vẫn sử
dụng một phần mềm cha tập trung giữa NHNN với các tổ chức tín dụng. Do
đó, các số liệu cần thiết cho nghiệp vụ này nh tình hình vốn khả dụng của
các chi nhánh trong một hệ thống tổ chức tín dụng trong từng thời điểm,
hoặc vốn khả dụng giữa các tổ chức tín dụng, lãi suất chào mua chào bán của
các NHTM cha báo cáo thờng xuyên và cập nhật với NHNN. Vì vậy, tác
dụng của nghiệp vụ này trong việc cung ứng tiền hoặc thu hút tiền từ các tổ
chức tín dụng về NHNN khi thực hiện mục tiêu của CSTT tỏ ra mờ nhạt.
- Về phơng thức giao dịch: nghiệp vụ thị trờng mở chủ yếu hoạt động d-
ới hình thức đấu thầu: đấu thầu khối lợng và đấu thầu lãi suất, trong đó, tiên
tiến nhất là đấu thầu lãi suất vì có tính khách quan, phản ánh đúng tình hình
cung cầu vốn ngắn hạn, truyền tải lập tức các tín hiệu của NHNN. Trong thời
gian qua, các phiên đấu thầu lãi suất cha chiếm tỷ trọng lớn trong các phiên
giao dịch, việc chỉ đạo lãi suất và khối lợng đấu thầu cũng cha linh hoạt. Lãi
suất trúng thầu của tín phiếu kho bạc cha thật sự phản ánh đúng mặt bằng lãi
suất thị trờng, tác dụng phát ra tín hiệu của NHNN vì vậy cha thật nhanh
nhạy. Vì vậy, nghiệp vụ thị trờng mở là một công cụ nhạy bén của CSTT mà
NHNN Việt Nam cần phải thật sự chú ý trong thời gian tới.
- Hoạt động của thị trờng mở gắn bó với sự phát triển của thị trờng liên
ngân hàng, nhất là thị trờng nội tệ liên ngân hàng. Thị trờng liên ngân hàng
là cơ sở để CSTT phát huy tác dụng trong việc phản ánh vốn ngắn hạn, xác
định và phát ra tín hiệu về lãi suất của NHNN, xây dựng đờng cong lãi suất

chuẩn đối với trái phiếu chính phủ Tuy nhiên, thị trờng liên ngân hàng kém
phát triển trong thời gian qua đã hạn chế rất nhiều tác dụng của CSTT.
- Về dự trữ bắt buộc
NHNN thực hiện công cụ này từ đầu những năm 90 vừa qua. Dự trữ bắt
buộc đợc tính trên số tiền gửi huy động bình quân (bao gồm cả VND và
ngoại tệ) không kỳ hạn và có kỳ hạn dới 12 tháng của các tổ chức tín dụng.
Với mục đích thực hiện CSTT thận trọng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã đợc điều
chỉnh trong phạm vi 0-20% theo quy định của luật NHNN.
Bảng 5: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng
Đơn vị: %
Tổ chức tín dụng
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc %
12/2001 4/2002 12/2002
VND
Ngoại
tệ
VND
Ngoại
tệ
VND
Ngoại
tệ
Ngân hàng Thơng mại Nhà nớc,
Ngân hàng Thơng mại Cổ phần
Đô thị, chi nhánh Ngân hàng n-
ớc ngoài, Ngân hàng liên doanh,
Công ty tài chính
Ngân hàng Nông nghiệp Phát
triển Nông thôn
Ngân hàng Thơng mại Cổ phần

Nông thôn, Ngân hàng Hợp tác,
QTĐN
3
2
1
10
10
10
3
2
1
8
8
8
3
2
1
5
5
5
Nguồn: Báo cáo thờng niên 2002, Ngân hàng Nhà nớc
Hạn chế trong việc sử dụng công cụ này là NHNN cha thật sự chủ động,
khi xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn nhiều yếu tố phi kinh tế nh tâm lý,
chính trị, tính linh hoạt kém
1.2.2. Trong việc thực hiện các dịch vụ ngân hàng
NHNN đã xây dựng thành công hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng, đến nay hệ thống này có gần 200 chi nhánh của 50 thành viên, tăng
gần gấp 4 lần so với số lợng 54 chi nhánh của 6 thành viên tham gia ban đầu,
xử lý bình quân mỗi ngày 8.000 lệnh với số tiền thanh toán bình quân qua hệ
thống tăng từ 300 tỷ đồng/ngày lên 4.000 tỷ đồng/ngày. Từ ngày 1/1/2003,

hệ thống thanh toán bù trừ điện tử cũng đã đợc vận hành chính thức. Các
NHTM hiện nay đã triển khai nhiều hoạt động ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động dịch vụ của mình theo hớng "ngân hàng điện tử" nh dịch
vụ: Home banking, Mobile banking, Phone banking, Internet Bank, thanh
toán online, thanh toán thẻ, dịch vụ ngân hàng tự động qua máy (ATM), ch-
ơng trình ngân hàng bán lẻ (Retail banking), thanh toán giữa các chi nhánh
(Intrabank Payment), tham gia thanh toán quốc tế SWIFT, chơng trình quản
lý phát hành thẻ tín dụng Trong việc huy động tiền gửi tiết kiệm, các ngân
hàng đã thực hiện dịch vụ gửi một nơi rút nhiều nơi trong cùng hệ thống,
hoạt động này vừa mở rộng kênh huy động vốn của NHTM vừa khuyến
khích thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp và cá nhân phát triển.
Cơ sở hạ tầng về truyền thông cơ bản của 4 NHTMNN Việt Nam có
khác nhau, song về cơ bản, các ngân hàng đều có mạng Intranet nội bộ với
tốc độ cao và đáp ứng có hiệu quả các bài toán nghiệp vụ ngân hàng. Hệ
thống NHNN hiện đang vận hành mạng Intranet trong toàn hệ thống, giúp đỡ
đắc lực trong công tác lãnh đạo, thông tin, nhân sự, kế toán Tất cả các ngân
hàng đều có đờng kết nối trực tiếp ra Internet ở tốc độ tối thiểu 129 kbps với
trang WEB riêng của mình để quảng cáo thơng hiệu, các thông tin về lãi
suất, tỷ giá chào, biểu giá dịch vụ
Hạn chế lớn nhất hiện nay trong việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng
hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế là:
- Sự phối kết hợp giữa các NHTM trong thực hiện các dịch vụ ngân
hàng mới còn kém: Mỗi hệ thống ngân hàng phát triển một chiến lợc hiện
đại hoá khác nhau, không có sự gắn kết với nhau, ví dụ về hoạt động thanh
toán thẻ, séc, máy rút tiền tự động ATM , gây ra sự lãng phí vốn và thời
gian, sự cạnh tranh không đáng có giữa các ngân hàng, sự khó khăn cho lựa
chọn của các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ ngân hàng. Hiệu quả sử dụng
vì vậy còn thấp.
- Khả năng tài chính của các ngân hàng còn thấp. Mặc dù các
NHTMNN đã đợc Chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ tới 6.800 tỷ đồng qua

2 đợt, 32/34 NHTMCP đang hoạt động đã hội đủ số vốn điều lệ tối thiểu
bằng vốn pháp định, nhng so với quy mô tài chính của các NHTM trong khu
vực thì mức vốn này vẫn ở mức khiêm tốn. Hệ số đảm bảo an toàn của ngân
hàng (hệ số COOK) cha đạt tới tỷ lệ 8% theo chuẩn mực quốc tế. Trong bối
cảnh hiện nay, năng lực tài chính của các ngân hàng hạn chế, nhất là đối với
các NHTMCP, là một trong các nguyên nhân gây ra khó khăn trong việc
triển khai về công nghệ đối với các dịch vụ ngân hàng mới nh Home
banking, Internetbank Công tác này hầu nh vẫn chỉ dừng lại ở mức thử
nghiệm và cũng chỉ cung cấp cho một số ít khách hàng đặc biệt.
- Sự phát triển của thơng mại điện tử ở Việt Nam vẫn đang trong giai
đoạn ban đầu. Các dịch vụ ngân hàng mới không thể đi sớm quá sự phát triển
của thơng mại trong nớc. Trong lộ trình thực hiện Hiệp định thơng mại Việt-
Mỹ, các dịch vụ tài chính rất đợc chú trọng với ý nghĩa hiện đại, đa dạng,
theo đúng chuẩn mực quốc tế. Nhng các sản phẩm tài chính hiện đại phải
xuất phát từ thực tiễn hoạt động của thơng mại và dịch vụ trong nớc. Đa số
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
khoảng 80% số vốn hoạt động của doanh nghiệp là vốn vay ngân hàng. Cầu
nối giữa họ và các tổ chức tín dụng còn gặp nhiều rào cản về nhận thức, cách
làm việc Mặc dù cơ chế cho vay hiện nay của các ngân hàng là rất thông
thoáng với lãi suất thoả thuận, nhng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng
của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn.
- Thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn ở mức thấp, tỷ trọng
sử dụng tiền mặt trong lu thông ngoài hệ thống ngân hàng/tổng phơng tiện
thanh toán hiện đang dao động ở mức 24 - 25%, cao hơn nhiều so với các n-
ớc trong khu vực (Thái lan: 6,3%, Trung quốc: 9,7% ). Chính tâm lý dùng
tiền mặt, bao gồm cả VND và ngoại tệ mặt, và sự hiểu biết về dịch vụ ngân
hàng của đa số ngời dân Việt Nam thấp, cũng là một nguyên nhân để cho
việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng mới còn gặp nhiều khó khăn.
- Hiện nay các ngân hàng mới dừng ở thời kỳ đầu của giai đoạn 2 về
ứng dụng công nghệ thông tin, vẫn dừng ở mức cho phép truy vấn về thông

tin tài khoản và thống kê các giao dịch liên quan tới tài khoản. Các ngân
hàng cha có đủ điều kiện để thực hiện các giáo dịch chuyển tiền với các tài
khoản khác hoặc thanh toán thông qua tài khoản theo đúng ý nghĩa của
dịch vụ này.
2. Một số giải pháp khắc phục
Các hạn chế trong hoạch định CSTT của Việt Nam hiện nay bắt nguồn
từ nguyên nhân sâu xa là hoạt động kinh tế nói chung cha phát triển, kéo
theo sự phát triển cha mạnh của các tổ chức tín dụng cùng với các bất cập
của nó. Việc khắc phục các bất cập này đòi hỏi một quan điểm toàn diện,
tổng quát, từ đó mà có các giải pháp cụ thể. Có rất nhiều giải pháp cần thực
hiện để khắc phục các hạn chế của CSTT trong thời gian tới mà trong phạm
vi một bài viết không thể bao trùm tất cả. Chúng tôi chỉ xin phép trao đổi về
một số quan điểm lớn.
Về quan điểm thực hiện các giải pháp lớn về CSTT
- Hiện nay, NHNN Việt Nam cha thể độc lập với Chính phủ do đặc thù
nền kinh tế- chính trị của đất nớc. Tiền tệ là một công cụ hữu hiệu để Nhà n-
ớc thực hiện các nhiệm vụ vĩ mô trong từng thời kỳ. Để nâng cao hơn nữa
vai trò của CSTT thì việc giao cho NHNN nhiều quyền hạn hơn trong hoạch
định và thực thi CSTT là một vấn đề rất quan trọng. Thống đốc NHNN có thể
đợc độc lập về xây dựng và trình CSTT, tổ chức thực hiện và tài chính. Ví dụ:
để thực hiện chỉ tiêu lạm phát ở mức 1 con số mà Quốc hội đã thông qua thì
NHNN có thể đợc quyết định lợng tiền cung ứng trong từng thời kỳ phù hợp
với diễn biến của tình hình. Hoặc Hội đồng t vấn CSTT quốc gia sẽ t vấn
những nét chính trong hoạt động tiền tệ - tín dụng quốc gia, Thống đốc
NHNN là ngời chủ động thực hiện các hoạt động để đạt đợc các mục tiêu đó.
- Để nâng cao hiệu quả hoạt động của CSTT quốc gia thì việc quản lý và
kiểm soát hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là
điều cần thiết. Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều loại tổ chức tín
dụng phi ngân hàng đợc phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng nh
Công ty tiết kiệm bu điện, Quỹ hỗ trợ phát triển, Công ty tài chính, công ty

cho thuê tài chính Một số hoạt động huy động vốn tiết kiệm ngắn hạn ở
các tổ chức này thực sự đã gây ra việc khó kiểm soát các luồng vốn di
chuyển trong xã hội, khó quản lý vốn khả dụng trong các doanh nghiệp và
các tổ chức tín dụng, việc tính toán cầu tiền thực sự trong xã hội trở nên khó
khăn do sự phân đoạn thị trờng. Tất nhiên, việc mở rộng các nghiệp vụ ngân
hàng đối với các tổ chức phi ngân hàng là cần thiết và tất yếu, song thiết nghĩ
rằng, NHNN cần phải quản lý chặt chẽ thờng xuyên các hoạt động này. Có
những nghiệp vụ đặc thù của ngân hàng nh thanh toán, huy động vốn tiết
kiệm không kỳ hạn có lẽ không nên mở rộng quá sang các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng.
- Trong các công cụ gián tiếp của CSTT, tuỳ diễn biến của thị trờng mà
NHNN sử dụng loại công cụ nào hoặc phối kết hợp các công cụ nhằm đạt
mục tiêu đặt ra. Vấn đề nổi lên hiện nay là cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN và của các NHTM đang có nhiều bất cập. Để xác lập lại trật tự, có lẽ
NHNN phải đi từ việc xây dựng cơ chế điều hành lãi suất trên thị trờng tiền
tệ, trớc hết là lãi suất trên thị trờng nội tệ liên ngân hàng, coi đó là lãi suất
cơ sở để xác định các loại lãi suất ngắn hạn khác. Từ mức lãi suất ngắn hạn,
các NHTM cộng vào các phụ phí, mức bù rủi ro, lợi nhuận của ngân hàng
để tính ra các loại lãi suất trung và dài hạn. Lãi suất thoả thuận mà các tổ
chức tín dụng áp dụng đối với khách hàng sẽ dựa trên nguyên tắc này. Lãi
suất cơ bản không còn tác dụng phát ra tín hiệu thực sự của NHNN, chỉ có
lãi suất liên ngân hàng, nhất là lãi suất liên ngân hàng qua đêm mới là lãi
suất quan trọng mà NHNN điều hành mặt bằng lãi suất thị trờng. Đề án về
lãi suất thống nhất phải đảm bảo đợc tính liên thông khoa học giữa các loại
lãi suất. Điều kiện để thực thi giải pháp này là xây dựng một thị trờng tiền tệ,
mà trọng tâm là thị trờng nội tệ liên ngân hàng hữu hiệu trong thời gian tới.
Cũng không nên tách biệt giữa thị trờng nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng nh
hiện nay, mà theo quá trình hội nhập, NHNN nên xây dựng một thị trờng
liên ngân hàng thống nhất, bao gồm giao dịch cả VND và ngoại tệ. Trong
thời gian tới, NHNN nên tập trung xây dựng một đề án thị trờng liên ngân

hàng một cách nghiêm chỉnh theo thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình
Việt Nam, trong đó chú ý phát triển thị trờng thứ cấp rộng rãi giữa các tổ
chức tín dụng thông qua việc hình thành các công ty môi giới chuyên trách
trên thị trờng liên ngân hàng.
- Nên dứt khoát tách tín dụng chính sách và tín dụng thơng mại trong
hoạt động của các ngân hàng thơng mại. Từ đầu năm 2003 cho đến nay,
khoảng 7000 tỷ đồng cho vay chính sách đã đợc tách về ngân hàng chính
tách xã hội, nhng có lẽ dứt khoát hơn nữa là tất cả các khoản cho vay có tính
chất u đãi nh tín dụng sinh viên, cho vay cần tập trung tất cả về ngân hàng
chính sách xã hội. Các ngân hàng thơng mại trong quá trình tái cơ cấu chỉ
nên tập trung cho vay thơng mại với nguyên tắc thơng mại. Điều này cũng
rất có lợi cho việc quản lý vốn khả dụng tại các ngân hàng và các doanh
nghiệp.
- Về điều kiện nâng cao hiệu quả CSTT: Để thực thi có hiệu quả CSTT,
những điều kiện không thể thiếu mà chúng ta phải quan tâm là: 1/ Thông tin,
nhất là thông tin kinh tế. Việc thiếu thông tin ở đây là thông tin cha chính
xác, cha cập nhật và cha đầy đủ. Với 5 hệ thống tài khoản hiện nay, chúng ta
cha hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của hệ thống kế toán quốc tế, mà đây lại là
một nhu cầu khẩn trơng trong thời gian tới. Việc triển khai Luật Kế toán mới
đợc Quốc hội ban hành cần có thời gian chuẩn bị để đi vào cuộc sống. Các
thông tin ở Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN thực ra mới chỉ
có Ngân hàng ngoại thơng Việt Nam sử dụng nhiều hơn cả. Vì vậy, vấn đề
trớc tiên là phải nâng cao chất lợng thông tin phục vụ việc ra các quyết định
về CSTT. Sau đó là vấn đề xử lý thông tin này ở các Vụ, Cục chức năng ở
NHNN, điều này lại đòi hỏi trình độ của cán bộ nghiệp vụ ở đây, không chỉ
phân tích thông tin mà còn cần có sự phối kết hợp giữa các Vụ, Cục, các cơ
quan hữu quan trên quan điểm lợi ích chung. 2/ Công nghệ cao trong việc
tiếp nhận, chuyển giao thông tin, lu giữ tin; trình độ cao này lại cần có số
vốn lớn mà NHNN phải quan tâm và sự tranh thủ giúp đỡ của các tổ chức tài
chính nớc ngoài. NHNN cần nâng tầm hệ thống thông tin của mình ở trình

độ Internet và hoàn thiện mạng Intranet ở các hoạt động quản lý và nghiệp
vụ của mình.
Luận bàn về CSTT trong quá trình đổi mới là một vấn đề phức tạp, luôn
biến đổi, có tác dụng mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế- xã hội. Bài viết
này chỉ góp bàn một vài ý kiến nhỏ và rất mong có sự trao đổi rộng rãi giữa
những ngời quan tâm.

×