Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Giải pháp quản lý đào tạo lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 119 trang )



1



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Xuất phát từ quan điểm của Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt
Nam về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã,
nhằm phát huy nội lực của toàn xã hội, phát triển kinh tế xã hội, xây
dựng xã hội công bằng văn minh; Từ những quan điểm của Đại hội lần
thứ VI , ngành Giáo dục - Đào tạo cũng chủ trương đa dạng hoá các loại
hình và phương thức đào tạo, tạo cơ hội cho nhiều người nhất là thanh
niên học sinh có cơ hội học tập nâng cao trình độ, công nghệ mới để lập
thân, lập nghiệp .
Công nghệ thông tin (CNTT) ngày nay là công cụ có vị trí đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ đổi mới. Nó không thể thiếu đối với cán bộ,
viên chức nhà nước nhất là đối với các ngành kinh tế, kỹ thuật, văn hoá,
xã hội,giáo dục, dịch vụ du lịch ...CNTT được ví như là chìa khoá để
hội nhập vào khu vực và quốc tế và là con đường để đi đến thành công.
Chiến lược phát triển CNTT của Việt Nam hiện nay là phát triển hệ
thống mạng lưới tin học trên toàn quốc:“Thực hiện 50% Hành chính
công cơ bản trực tuyến, 100% các trường dùng Internet, thực hiện chứng
minh thư điện tử, Chính phủ điện tử.
Chính phủ đã và đang đưa ra chủ trương chọn CNTT là một trong
các nhóm kỹ thuật tiên tiến được đầu tư theo phương thức đi tắt đón đầu
để đuổi kịp theo sự phát triển của thế giới. Chỉ thị số 58 /CT TƯ của bộ
chính trị về việc đẩy mạnh và ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp Công
nghiệp hoá, Hiện đại hoá (CNH,HĐH) đất nước đã nêu rõ“CNTT là một


trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Cùng với một số
ngành công nghệ cao khác,CNTT đang làm biến đổi sâu sắc đời sống
kinh tế, xã hội của thế giới hiện đại” “ Ứng dụng và phát triển CNTT ở


2



nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần
của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện
đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, đảm bảo an ninh quốc
phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Để thực hiện được các mục tiêu trên, nước ta từ
nay đến năm 2010 cần có các chuyên gia CNTT có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng. Những đội ngũ này không ở đâu khác là từ các
Trường đại học, các cơ sở đào tạo CNTT.
Chiến lược phát triển giáo dục nước ta đến năm 2010 đề ra cho giáo
dục đại học nhiệm vụ là: Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng
đào tạo theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình
độ cao, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường đào tạo năng lực thích ứng
với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho
những người khác, phục vụ thiết thực sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Trong những năm gần đây, Trong lĩnh vực giáo dục Việt Nam xuất
hiện một khái niệm mới mẻ, đó là việc áp dụng Hệ thống quản lý chất
lượng giáo dục theo tiêu chuẩn ISO nhằm nâng cao chất lượng giáo dục

đào tạo. Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO là phương
pháp làm việc khoa học, được xem là công nghệ quản lý mới, giúp các
nhà quản lý tổ chức hoạt động sáng tạo, đạt được hiệu quả công việc cao
trong quy trình hoạt động đào tạo của nhà trường. Cụ thể là giúp cho các
nhà quản lý tránh được những vụ việc sai phạm không cần thiết; kiểm
soát được cả hệ thống của nhà trường từ đào tạo đến nghiên cứu khoa
học, tổ chức hành chính trị sự, tiết kiệm. Việc quản lý theo quy trình còn


3



giúp cho mọi người thực hiện công việc “ Làm đúng, làm tốt ngay từ
đầu” hạn chế được những sai sót và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống. Lâu nay chúng ta quen xây dựng kế hoạch, mục tiêu, cam kết
trách nhiệm được ký kết trong các hội nghị công chức hàng năm nhưng
lại hết sức chung chung và khi tổng kết lại thì có rất nhiều vấn đề cần
sửa chữa. Trong khi đó, thực hiện quy trình quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO thì các yêu cầu tiêu chuẩn hàng năm phải được lượng hoá, có
kế hoạch thực hiện cụ thể dựa vào đó mà mọi người đánh giá được kết
quả thực hiện công việc, quản lý theo mục tiêu đã đề ra. Đồng thời trách
nhiệm quyền hạn từng chức danh trong bộ máy của nhà trường, cơ sở
đào tạo tránh được những chồng chéo, đảm bảo thông tin nội bộ thông
suốt .
1.2 Cơ sở thực tiễn
CNTT ngày nay đã và đang đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống
hàng ngày. Nó đã thâm nhập vào tất cả các ngành, lĩnh vực của xã hội và
khẳng định tầm quan trọng trong các ngành quản lý, điều khiển, tự động
hoá , truyền thông vv… Thật khó nói hết tầm quan trọng của CNTT

trong xã hội và đời sống của con người hiện đại. Nó đang có những đóng
góp tích cực trong việc phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng sống
của con người. Tuy nhiên ngành CNTT ở Việt Nam hiện nay vẫn đang ở
tình trạng chậm phát triển nguy cơ tụt hậu xa hơn với các nước trên thế
giới và khu vực, việc đào tạo nhân lực và ứng dụng CNTT chưa đáp ứng
được yêu cầu của đất nước và yêu cầu hội nhập.
Theo Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA) toàn
thế giới hiện đang thiếu khoảng 1,5 triệu kỹ sư CNTT và đến năm 2010
con số này sẽ lên tới 3 triệu. Tại Việt Nam, nhu cầu nhân lực ngành phần
mềm trong nước ngày càng tăng cao. Uớc tính giai đoạn 2008 – 2010 cần
từ 12.000- 15000 người/năm giai đoạn 2011- 2015 cần từ 20.000- 25.000


4



người / năm . Trong khi đó quy mô đào tạo nhân lực CNTT của Việt
Nam chỉ đạt 9.000- 10.000 người/ năm . Nếu chỉ tính số học viên tốt
nghiệp ra trường đạt yêu cầu nhà tuyển dụng thực tế còn thấp hơn.
Việc phát triển nguồn lực CNTT chưa được chuẩn bị kịp thời về số
lượng và chất lượng hiện nay dẫn tới việc chúng ta đang thiếu nguồn
nhân lực CNTT rất lớn hoặc nếu có nguồn nhân lực ngành này thì chất
lượng không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Một trong các nguyên
nhân dẫn tới chất lượng nguồn nhân lực CNTT nói trên bắt nguồn từ
việc quản lý công tác đào tạo.
Nam Định là một Tỉnh đông dân có truyền thống hiếu học lâu đời .
Nhu cầu học tập tin học, trau dồi kiến thức công nghệ mới là cấp bách ,
thiết thực. Ngoài các khoa CNTT ở các trường Đại học, Cao đẳng ở
Nam Định đào tạo CNTT mang tính chất hàn lâm, Nam Định chưa có cơ

sở nào đào tạo CNTT trình độ Lập trình viên cho cán bộ nhân dân và
thanh niên trong địa bàn Tỉnh. Được sự động viên giúp đỡ và khuyến
khích của các cấp lãnh đạo , đặc biệt là Sở Giáo dục - Đào tạo, Công ty
đầu tư phát triển phần mềm FPT, và học viện đào tạo CNTT hàng đầu
Ấn Độ và trên thế giới Aptech. Trung tâm đã lập tờ trình xin sở Giáo
dục - Đào tạo Tỉnh Nam Định, để xây dựng và tổ chức thực hiện mô
hình  Trung tâm đào tạo Lập trình viên quốc tế Aptech Nam Định  và
đã được Sở Giáo dục - Đào tạo phê duyệt với mục tiêu đào tạo nguồn
nhân lực CNTT cho các tổ chức cơ quan doanh nghiệp tỉnh Nam Định
và khu vực lân cận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra: Làm thế nào để quản lý
được chất lượng đào tạo Lập trình viên quốc tế tại cơ sở đang là một vấn
đề hết sức cấp bách hiện nay.
Đã nhiều năm qua ngành giáo dục luôn phải đối mặt với một câu
hỏi: Làm thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo? Mỗi trường đều có
những tiêu chuẩn, giải pháp riêng trong đó có Trung tâm đào tạo Lập


5



trình viên Quốc tế Aptech Nam Định đã đưa ra các giải pháp áp dụng để
nâng cao chất lượng đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo,Trung tâm
đào tạo lập trình viên quốc tế Aptech Nam Định đã phải cố gắng rất
nhiều và cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên so với
tiêu chuẩn ISO 9000 thì chất lượng đào tạo lập trình viên tại Trung tâm
vẫn còn một số bất cập từ công tác quản lý đó là : Sự nhận thức của đa
số cán bộ, giáo viên, học sinh về tiêu chuẩn ISO 9000 và việc thực hiện
các quy trình làm việc như tuyển sinh; đổi mới phương pháp giảng dạy;
tuyển chọn và đánh giá giảng viên; kiểm soát đề cương bài giảng, chất

lượng giáo trình giảng dạy; mời giảng viên thỉnh giảng;thu thập các ý
kiến phản hồi, giải quyết các khiếu nại của học viên, giới thiệu việc làm
cho học viên sau khi tốt nghiệp. Tất cả những bất cập trong công tác
quản lý trên ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của Trung tâm.
Cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý
đào tạo lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Nam
Định.Với lý do trên Tác giả đã chọn đề tài “ Giải pháp quản lý đào tạo
lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Trung tâm
Aptech Nam Định”.
2. Mục đính nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý đào tạo Lập trình viên
quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
quản lý đào tạo lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại
Trung tâm đào tạo lập trình viên quốc tế Aptech Nam Định nhằm quản lý
công tác đào tạo cung ứng nguồn nhân lực công nghệ cao cho các cơ
quan doanh nghiệp phần mềm, các khu công nghiệp tỉnh Nam Định và
khu vực đồng bằng sông Hồng.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu


6



Công tác quản lý đào tạo Lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO
9000 tại Trung tâm Aptech Nam Định.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý đào tạo Lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn
ISO 9000 tại Trung tâm Aptech Nam Định

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đào tạo Lập trình
viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000
4.2 Nghiên cứu thực trạng của công tác quản lý đào tạo Lập trình
viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Trung tâm Aptech Nam
Định
4.3 Đề xuất một số giải pháp quản lý đào tạo Lập trình viên quốc
tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Trung tâm Aptech Nam Định
5. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, trong đề tài này tác giả
chỉ điều tra, khảo sát thực trạng quá trình đào tạo Lập trình viên quốc tế
theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Trung tâm Aptech Nam Định. Bước đầu
thực hiện quản lý đào tạo Lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO
9000. Xây dựng một số giải pháp quản lý để thực hiện đào tạo Lập trình
viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại Trung tâm.
6. Giả thuyết khoa học
Công tác đào tạo Lập trình viên quốc tế tại Trung tâm Aptech
Nam Định đến nay vẫn còn nhiều điều bất cập, vai trò quản lý đào tạo
lập trình viên quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 vẫn còn nhiều hạn chế.
Nếu xây dựng và áp dụng một số giải pháp quản lý đào tạo lập trình viên
quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9000 thì sẽ nâng cao chất lượng quản lý
công tác đào tạo Trung tâm cung ứng nguồn nhân lực có trình độ cao đáp
ứng nhu cầu công nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.


7



7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Quá trình thực hiện đề tài kết hợp các nhóm phương pháp nghiên
cứu:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp; sách, tài liệu, báo cáo khoa học
trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
- Tham khảo Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng, Nhà nước và Bộ
Giáo dục và Đào tạo, các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
-Phương pháp thử nghiệm
- Phương pháp khảo sát, điều tra
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp toán thống kê, xử lý số liệu


8



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
LẬP TRÌNH VIÊN QUỐC TẾ THEO TIÊU CHUẨN ISO 9000
1.1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, sự bùng nổ CNTT trên thế giới có ảnh hưởng
lớn đến mọi mặt hoạt động Kinh tế- Văn hoá- Xã hội của các Quốc gia. CNTT
là con đường giúp chúng ta dễ dàng đi tắt đón đầu để thực hiện công cuộc
CNH,HĐH Đất nước. Nhà nước đã ban hành chỉ thị số 58- CT /TW ngày 17-
10-2000 của Bộ Chính trị (khoá 8) về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH Đất nước đó là: “CNTT là một trong các động
lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao

khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới
hiện đại”...Mục tiêu của CNTT Việt Nam đến năm 2010 là đạt trình độ tiên tiến
của khu vực. Tại Việt Nam, nhu cầu nhân lực ngành phần mềm trong nước
ngày càng tăng cao. Ước tính giai đoạn 2008-2010 cần từ 12.000- 15000
người/năm, giai đoạn 2011- 2015 cần từ 20.000- 25.000 người / năm .
Trong khi đó quy mô đào tạo nhân lực CNTT của Việt Nam chỉ đạt
9.000- 10.000 người/ năm. Trên thực tế nếu tính số học viên tốt nghiệp ra
trường đạt yêu cầu của nhà tuyển dụng còn thấp hơn. Các trường Đại học,
Cao đẳng và các Cơ sở đào tạo đang tìm các giải pháp để quản lý nâng cao
chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực.Một trong các tiêu
chuẩn để quản lý công tác đào tạo hiện nay các trường, các cơ sở đào tạo
đang áp dụng là tiêu chuẩn ISO 9000. ISO 9000 ra đời năm 1987 và đã được
soát xét 02 lần vào năm 1994 và năm 2000. Phiên bản mới nhất là tiêu
chuẩn ISO 9000:2000. Từ năm 1987 đến nay tiêu chuẩn ISO 9000 đã được cả
thế giới công nhận. Tại Việt Nam đã có khoảng 4500 doanh nghiệp được cấp
giấy chứng nhận trong đó có một số trường học. Việc áp dụng ISO đã mang lại
hiệu quả cho một số cơ quan, doanh nghiệp.Hiện nay, một số trường Đại học,


9



Cao đẳng, THCN, các Cơ sở đào tạo tại Việt Nam đã được nhận hoặc bắt đầu
công bố sẽ nhận chứng chỉ ISO. Tháng 6/2005, trường Đại học Hàng Hải trở
thành trường đại học đầu tiên được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng
Việt Nam cấp chứng nhận quản lý giáo dục đạt tiêu chuẩn ISO. Ngày 3/5/2007,
trường Đại học Tôn Đức Thắng nhận được chứng chỉ ISO 9001:2000. Một số
trường THCN, THPT và các Cơ sở đào tạo cũng đã bắt đầu công bố đã nhận
chứng chỉ ISO trong đó có trường THPT Ngô Thời Nhiệm thành phố Hồ Chí

Minh (TPHCM ). Các trường, các Cơ sở đào tạo đánh giá cao về hệ thống quản
lý chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn ISO. Theo Ông Chu Xuân Thành – Hiệu
trưởng THPT Ngô Thời Nhiệm cho biết: Lĩnh vực áp dụng của hệ thống chất
lượng này là tất cả các hoạt động dạy, học và dịch vụ của nhà trường. Các hoạt
động được hệ thống hóa, quy định cụ thể và chi tiết.
Có thể nói tiêu chuẩn ISO đã khẳng định vai trò vị trí của nó trong quản
lý chất lượng đào tạo tại các trường, cơ sở đào tạo. Bộ giáo dục đào tạo đã ban
hành quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 02 tháng 12 năm 2004 về
“Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng các trường đại học”. Đây được
xem là cách làm khá tốt để các trường có một “Bộ khung” từ đó triển khai việc
kiểm định chất lượng giáo dục cho riêng mình. Áp dụng tiêu chuẩn ISO nhằm
góp phần quản lý nâng cao chất lượng đào tạo không có gì là mới lạ,tuy nhiên
việc áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo tại các Cơ sở đào
tạo CNTT còn chưa nhiều và chưa hiệu quả hoặc mang tính hình thức.
1.2 Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Quản lý
Quản lý là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động
của những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Ngày nay, thuật
ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý được thể hiện qua các
yếu tố cơ bản sau :


10



- Yếu tố xã hội: Vì lợi ích của con người và do con người là động lực và
mục tiêu của sự phát triển xã hội, là mục đích của hoạt động quản lý. Trong
ba lợi ích: Lợi ích người lao động, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước thì lợi

ích của người lao động là trực tiếp, lợi ích của nhà nước là tối cao.
Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã ghi rõ:
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về các lĩnh vực văn hoá, xã hội là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người với tư cách vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng.
- Yếu tố tổ chức: Tổ chức là khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ
giữa những con người để thực hiện một công việc quản lý. Muốn quản lý phải
có tổ chức,không có tổ chức không thể có quản lý. Đó là sự sắp đặt một hệ
thống bộ máy quản lý, quy định chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền cho từng
cơ quan trong bộ máy ấy. Quy định các mối quan hệ dọc ngang của từng cơ
quan bố trí cán bộ và các chế độ chính sách cán bộ. Tổ chức được hình
thành và tồn tại là do nhu cầu quản lý xã hội cho nên tổ chức phải hoạt
động có hiệu quả, nếu không sự tồn tại của nó không có mục đích.
-Yếu tố uy quyền: Đó là thể thống nhất giữa quyền lực và uy tín trong
quản lý. Người quản lý phải sử dụng quyền lực và để quyền lực có hiệu quả
thì người quản lý phải có uy tín: uy tín về chính trị, uy tín về đạo đức, uy tín
về năng lực ... Chỉ có quyền lực hoặc chỉ có uy tín thì không đủ để quản lý.
Cần thống nhất hai mặt thì quản lý mới có hiệu quả.
Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người. Ngay từ đầu
con người đã có nhu cầu lao động tập thể, hình thành nên cộng đồng và
xã hội trong quá trình lao động tập thể càng không thể thiếu được kế
hoạch, sự phân công và điều hành chung, sự hiệp tác và quản lý công
việc, các tư liệu lao động và nguồn tài nguyên… Hoạt động quản lý nẩy
sinh từ những yêu cầu đó. Lao động luôn luôn là lao động xã hội, cho
nên quản lý tồn tại trong mọi xã hội, dù xã hội đó ở trình độ phát triển


11




nào. Như vậy quản lý là một hoạt động cần thiết để đạt mục tiêu của tổ
chức, là hoạt động phức tạp với nhiều chức năng và đặc điểm cơ bản
khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng - NXB Giáo dục - 1998 thuật
ngữ quản lý được định nghĩa là: “ Tổ chức, điều khiển hoạt động của một
đơn vị, cơ quan” 14. Quản lý là một hoạt động có chủ đích, được tiến
hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để
thực hiện các mục tiêu xác định của công tác quản lý. Trong mỗi chu
trình quản lý chủ thể tiến hành những hoạt động theo các chức năng quản
lý như xác định mục tiêu, các chủ trương, chính sách; hoạch định kế
hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, điều hoà, phối hợp, kiểm tra và huy
động, sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật lực, nhân lực… để
thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh thời gian
nhất định.
Trong tác phẩm “ Lý luận quản lý Nhà nước” của Mai Hữu Khuê,
xuất bản năm 2003 có định nghĩa về quản lý như sau: “ Quản lý là một
phạm trù có liên quan mật thiết với hiệp tác và phân công lao động, nó
là một thuộc tính tự nhiên của mọi lao động hiệp tác. Từ khi xuất hiện
những hoạt động quần thể của loài người thì đã xuất hiện sự quản lý. Sự
quản lý đã có trong cả xã hội nguyên thuỷ, ở đó con người phải tập hợp
với nhau để đấu tranh với thế giới tự nhiên, muốn sinh tồn con người
phải tổ chức sản xuất, tổ chức phân phối”. 19
Khái niệm quản lý có ngoại diên rất rộng, từ việc ăn uống đến sinh
bệnh lão tử, từ cá nhân đến gia đình, từ quốc gia đến thế giới, từ vật chất
đến tinh thần nơi nào mà có sự hiện diện của con người thì đều cần đến
quản lý. C.Mác đã coi việc xuất hiện quản lý như là kết quả tất nhiên của
sự chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau
thành một quá trình xã hội được phối hợp lại. C.Mác đã viết:



12



“Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên
một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà sự
hoạt động. Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng chung tức là chức năng
phát sinh từ sự khác nhau giữa vận động chung của cơ thể sản xuất với
những hoạt động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể
sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình nhưng một
dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” 11; 29
Như vậy, có thể nói hoạt động quản lý là tất yếu nẩy sinh khi con người
lao động tập thể và tồn tại ở mọi loại hình tổ chức, mọi xã hội. Do đó, khái
niệm quản lý được nhiều tác giả đưa ra theo nhiều cách tiếp cận khác nhau:
- Theo M. Pinto: “Quản lý là sự hoạt động thiết yếu nảy sinh khi có
nỗ lực tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu chung”
- F.W.Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt nhất và rẻ nhất ”
- H.Koontz thì lại khẳng định: “Quản lý là hoạt động thiết yếu đảm
bảo sự nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt các mục tiêu của tổ chức ”
- Theo tác giả Trần Anh Tuấn: “Quản lý là những hoạt động cần
thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ
chức nhằm đạt được những mục tiêu chung”
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “ Quản lý là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao
động" 15; 24
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “
Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng

các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và
kiểm tra (khách thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự
kiến”.17


13



- Theo tác giả Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lý là một dạng lao
động đặc biệt của người lao động mang tính tổng hợp của các hoạt
động lao động trí óc liên kết bộ máy quản lý thành một chỉnh thể thống
nhất, điều hoà phối hợp các khâu và các cấp quản lý hoạt động nhịp
nhàng đạt kết quả cao ”
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ
thống mà người quản lý mong muốn” [21;17].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là những tác động định hướng, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận
hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [23;135].
Tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều phối các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một
cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người -
thành viên của hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích
dự kiến” [13;15].
Từ những quan niệm của các tác giả đã trình bày ở trên, ta có thể rút ra
những điểm khái quát chung:

“Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy,
điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của
con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp
với quy luật khách quan” [27;1].
Tóm lại, quản lý là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển các quá
trình xã hội, các hành vi hoạt động của con người để đạt được mục đích
đúng với ý chí của các nhà quản lý và phù hợp với quy luật khách quan


14



1.2.2 Cơ sở tâm lý học quản lý
Bản thân mỗi một con người đều là một cá thể tâm lý nhất định. Do vậy
trước mỗi một tình huống, một vấn đề thì mỗi người thường có những thái độ,
phản ứng và đưa ra những nhận xét, quyết định hành động theo những cách
khác nhau. Chính những '' lăng kính tâm lý '' đó đã tạo lên những bất đồng ý
kiến (thường được gọi là xung đột) đôi khi là giữa cá nhân với cá nhân hoặc
giữa cá nhân với tập thể và ngược lại. Đặc biệt, khi có hình thức lao động mới
được đưa vào một tổ chức thì hiện tượng này xảy ra là khó tránh khỏi. Nó có
thể mang đến những kết quả tiêu cực hoặc tích cực phụ thuộc vào bản chất và
cường độ của xung đột được thể hiện qua sơ đồ mô phỏng sau :

Kết quả
tích cực
Kết quả
Trung tính





Kết quả
Tiêu cực


Quá
nhiều
xung đột

Xung đột thích hợp



Quá nhiều
xung đột
Thấp
Vừa phải Cao

Sơ đồ 1.1 Cƣờng độ xung đột
Lúc này, vai trò của người quản lý là phải làm sao tạo được sự đồng thuận
cao nhất, lôi cuốn được mọi thành viên cùng quyết tâm thực hiện để đạt được
mục tiêu cho ý tưởng mới. Theo tài liệu bài giảng cao học chuyên đề Tâm lý học


15



quản lý của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì có tám chiến thuật gây ảnh hưởng

trong tổ chức để đưa thành viên của tổ chức vào công việc. Đó là :
+ Tư vấn : Lôi cuốn, khuyến khích mọi thành viên tham gia, góp ý kiến vào
việc ra quyết định và biến đổi. Chiến thuật này sẽ tạo tâm lý tích cực cho các
thành viên vì họ đều cảm thấy được tôn trọng, được phát huy tính dân chủ.
+ Thuyết phục, lôi kéo duy lý: Cố gắng thuyết phục các thành viên bằng lý lẽ,
lô gíc và sự kiện. Chiến thuật này đòi hỏi người quản lý phải có tư duy sắc
bén, hiểu sâu sắc vấn đề và có tài hùng biện.
+ Kêu gọi (khơi gợi) khéo léo: Cố gắng làm cho các thành viên nhiệt tình ủng
hộ và tham gia bằng cách khơi gợi cảm xúc, lý tưởng, giá trị của họ.
+ Chiến thuật khôn khéo: Tạo cho các thành viên đạt đến trạng thái tinh thần
tốt nhất, phấn chấn nhất trước khi thực hiện một yêu cầu nào đó.
+ Chiến thuật tạo đồng minh: Lôi cuốn sự ủng hộ, giúp đỡ của một thành
viên để thuyết phục các thành viên khác.
+ Chiến thuật gây áp lực: Yêu cầu sự phục tùng hoặc sử dụng các biện pháp
đe doạ, răn đe.
+ Chiến thuật tạo sức ép từ bên trên: Cố gắng thuyết phục các thành viên
bằng cách có được sự ủng hộ từ cấp trên.
+Chiến thuật trao đổi, thương thảo: Biểu hiện cam kết, hoặc hứa hẹn áp
dụng các ưu đãi, cất nhắc...
Các chiến thuật tâm lý nêu trên sẽ đạt được kết quả tốt đẹp nếu người
quản lý hình thành liên minh chiến lược trên cơ sở:
- Tạo nên sự tôn trọng lẫn nhau.
- Tạo được niềm tin, uy tín.
- Tạo điều kiện cùng có lợi.
- Hợp tác trên tinh thần cởi mở, chân thành.
Tuy nhiên, kết quả đạt được ngoài sự cam kết, phục tùng, ủng hộ đôi khi
người quản lý còn gặp phải những phản kháng hoặc chống đối mà không


16




lường trước được sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý.
1.2.3 Các chức năng cơ bản của quản lý
Hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng các chức năng quản lý. Trong giáo dục & đào tạo, quản lý là
tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên và học sinh, học viên,
các lực lượng khác tham gia giáo dục trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống
các mục tiêu quản lý giáo dục. Chức năng quản lý là các dạng hoạt động
tương đối độc lập, được tách ra từ hoạt động quản lý.
Có bốn chức năng cơ bản của quản lý có liên quan mật thiết với nhau là:
Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Thông tin là một nguồn lực, là
mạch máu, là trái tim của người quản lý.
- Lập kế hoạch
Lập kế hoạch là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai
của tổ chức và các con đường, giải pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục
đích đó. Nội dung chủ yếu của lập kế hoạch là: Xác định và đảm bảo về
nguồn lực của tổ chức, quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để
đạt được các mục tiêu của tổ chức.
- Tổ chức
Tổ chức chính là quá trình biến ý tưởng của kế hoạch thành hiện thực.
Về phương diện quản lý, tổ chức là quá trình hình thành cấu trúc quan hệ giữa
các thành viên, các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện
thành công kế hoạch và mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ tổ chức có hiệu
quả, người quản lý có thể phối hợp điều hành tốt hơn các nguồn lực.
- Chỉ đạo
Chỉ đạo thực chất là hoạt động dẫn dắt của người quản lý đối với các bộ
phận và các thành viên của tổ chức để đạt được mục tiêu, đến các quá trình
lập kế hoạch, tổ chức nhân sự và kiểm tra đánh giá kết quả. Chỉ đạo là hoạt

động thường xuyên và mang tính kế thừa, phát triển.


17



- Kiểm tra
Kiểm tra là một chức năng quan trọng của quản lý. Theo lý thuyết điều
khiển, kiểm tra chính là thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lý. Kiểm tra
bao gồm các yếu tố cơ bản sau: Đánh giá việc thực hiện công việc theo chuẩn,
nếu có sự lệch thì điều chỉnh, uốn nắn .
Tóm lại: Các chức năng của quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau;
người quản lý luôn phải nắm bắt thông tin và tiến hành việc quản lý theo bốn
chức năng trên thì dẫn dắt tổ chức đến mục tiêu cần đạt được.

Sơ đồ 1.2 Chu trình quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội đều có
sự tham gia của hoạt động quản lý như: Quản lý Nhà nước, quản lý
doanh nghiệp, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường ... mỗi lĩnh vực quản
lý tuy có đặc thù riêng song các lĩnh vực trên đều có những nét cơ bản,
đặc trưng chung của hoạt động quản lý và chính hoạt động quản lý luôn
góp phần quyết định vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của từng tổ
chức, của từng con người trong một hệ thống nhất định.
1.2.4. Quản lý giáo dục
Khái niệm “Quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ khác nhau. Ít nhất có hai
cấp độ chủ yếu,đó là cấp vĩ mô và cấp vi mô. Ở cấp vĩ mô, có thể định nghĩa

Thông tin
Lập kế hoạch

Tổ chức
Chỉ đạo
Kiểm tra


18



quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ
chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát... một cách có hiệu quả các nguồn giáo
dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh - tế xã hội. Ở cấp vi mô, quản lý giáo dục có thể
định nghĩa: Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lý
vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với
sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Đứng trên quan điểm hệ thống, giáo dục là một tiểu hệ thống kinh tế - xã
hội. Đến lượt mình, có thể coi giáo dục là một hệ thống, gồm các tiểu hệ
thống thành phần và các vận động được liên kết với nhau tạo nên một thực thể
thống nhất. Hệ thống phải có các mục đích và tính chất vượt lên trên các mục
đích và tính chất riêng của từng thành phần. Đối với các hệ thống mở như nhà
trường thì ranh giới giữa hệ thống với môi trường rất linh hoạt và nhiều lúc
không thể phân minh được. Ví dụ các kiến thức, kỹ năng, các niềm tin, chuẩn
mực... không phải chỉ được tạo ra trong nhà trường, mà phần lớn được đưa
vào trong nhà trường từ bên ngoài [16;9].
Như vậy, quản lý giáo dục được hiểu một cách đầy đủ là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của những người làm công tác
quản lý giáo dục nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối và
nguyên lý của Đảng, thực hiện được mục tiêu giáo dục phù hợp với tính chất

của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà hạt nhân là quá trình giáo dục
- đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu kinh tế - xã hội và đưa giáo dục tiến lên
trạng thái mới về chất thông qua việc thực hiện các chức năng của quản lý
giáo dục: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá.
1.2.5 Đào tạo
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đào tạo là quá trình tác động
đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri


19



thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định,
góp phần của mình vào sự phát triển của xã hội, duy trì và phát triển
nền văn minh của loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập
trong nhà trường gắn với giáo dục nhân cách” 13; 289
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: “Đào tạo là quá trình hoạt động
có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá
nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng xuất
và có hiệu quả.” 21; 45
Đào tạo là một quá trình tác động đến con người, trang bị kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, đồng thời giáo dục phẩm chất đạo đức, thái độ, lương tâm
nghề nghiệp, ý thức kỷ luật cho người học để họ trở thành người cán bộ, công
dân tốt, nhằm tạo điều kiện cho họ có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội. Quá trình này diễn ra tại các Các trường Đại học, Cao
đẳng,Trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo khác... Đào tạo là một hoạt động
đặc trưng của giáo dục nhằm chuyển giao kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác

trong thiết chế tổ chức nhà trường.
1.2.6 Quản lý đào tạo
Là quản lý một hệ thống toàn vẹn bao gồm các yếu tố: Mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thực tổ chức, người dạy, người học, cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ cho người dạy, người học, môi trường giáo dục đào tạo...
Quản lý đào tạo vừa phải làm sao mỗi yếu tố của quản lý đào tạo có được lực
tác động đủ mạnh, lại vừa phải đảm bảo sự vận động nhịp nhàng, hài hòa và
thống nhất của toàn bộ quá trình, không để yếu tố nào vận động yếu làm ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của quá trình.
Mục tiêu quản lý đào tạo tập trung vào hai điểm chính:
- Đảm bảo việc thực hiện đầy đủ các mục tiêu, kế hoạch, nội dung,


20



chương trình dạy học theo đúng tiến độ quy định.
- Đảm bảo quá trình đào tạo đạt chất lượng cao.
Quản lý đào tạo là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố, có mối liên hệ
tương tác khá phức tạp. Nội dung quản lý quá trình đào tạo vì thế cũng rất đa
dạng và rộng lớn.
1.2.7 Đào tạo lập trình viên quốc tế
Đào tạo lập trình viên là mô hình đào tạo mới hiện nay về CNTT, mô
hình đào tạo này được hình thành dưới sự hợp tác của các học viện đào tạo
CNTT nước ngoài mà phổ biến ở Việt Nam hiện nay là Aptech , NIIT ,
MICROSOFT, CISCO, TATA INFORTECH, GENETIC.vv với các Trung
tâm đào tạo CNTT tại Việt Nam theo hình thức mua bản quyền công nghệ.
Sau khi học viên ra trường học viên được cấp bằng Kỹ thuật viên CNTT,
Chuyên viên phần mềm, Lập trình viên quốc tế. Bằng cấp do các học viện đào

tạo CNTT cấp không chỉ có giá trị ở Việt Nam mà còn được công nhận rộng
rãi trên thế giới.. Đào tạo lập trình viên là đào tạo những người thiết kế, xây
dựng và bảo trì các chương trình máy tính (phần mềm). Bằng cách thao tác
các đoạn mã (các ngôn ngữ) trên các công cụ lập trình, Lập trình viên có thể
tạo ra các chương trình mới, sửa lỗi hay nâng cấp chương trình đó để tăng
tính hiệu quả của việc sử dụng máy tính. Hiện nay các Kỹ thuật viên, Chuyên
viên phần mềm và các Lập trình viên thường làm việc trên nhiều ngôn ngữ
lập trình khác nhau. Các ngôn ngữ lập trình phổ biến hiện nay mà các lập
trình viên đang học tập và sử dụng là: Java, C++, PHP, Asp, ASP.Net, Visual
Basic.Net và C#. Công việc của người lập trình được làm như là kỹ sư phần
mềm. Để làm ra một phần mềm, trước hết người ta phải tạo ra một bản thiết
kế, mỗi Lập trình viên đảm nhiệm một phần việc, sau đó các phần được kết
nối lại tạo thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Lập trình viên được ví là những
thợ - người ngồi làm các dòng lệnh trên máy tính, làm ra các phần mềm hoặc
chỉnh sửa, phát triển nó dựa trên các công cụ lập trình.


21



Đào tạo lập trình viên quốc tế là quy trình đào tạo được các Học viện đào
tạo CNTT nổi tiếng như Học viện đào tạo CNTT Aptech , NIIT ,
MICROSOFT, CISCO, TATA INFORTECH, GENETIC.vv áp dụng để đào
tạo đội ngũ cán bộ chuyên viên phần mềm, lập trình viên đạt tiêu chuẩn quốc
tế . Học viên khi tốt nghiệp các Học viện đào tạo CNTT nói trên có khả năng
làm việc chuyên môn phần mềm không những ở Việt Nam mà còn có thể làm
việc ở các nước trên thế giới.
1.2.8 Quản lý đào tạo lập trình viên quốc tế
Là quy trình quản lý đào tạo cán bộ kỹ thuật công nghệ cao. Quản lý

đào tạo lập trình viên là quản lý đào tạo những người thiết kế, xây dựng và
bảo trì các chương trình máy tính (phần mềm). Bằng cách thao tác các đoạn
mã (các ngôn ngữ) trên các công cụ lập trình, Lập trình viên có thể tạo ra các
chương trình mới, sửa lỗi hay nâng cấp chương trình đó để tăng tính hiệu quả
của việc sử dụng máy tính. Quy trình quản lý đào tạo bao gồm các thành tố
như :Quản lý quy trình tuyển sinh;quản lý mục tiêu, xây dựng nội dung
chương trình đào tạo;quản lý quy trình giảng dạy bồi dưỡng giáo viên và quy
trình học tập của học viên,quản lý trang thiết bị dạy học;quản lý quy trình giới
thiệu việc làm cho học viên sau khi tốt nghiệp. Các quy trình quản lý trên
được Trung tâm xây dựng và áp dụng nghiêm ngặt và phải thỏa mãn các điều
kiện của tổ chức quốc tế
1.3 Các mô hình quản lý chất lƣợng đào tạo
1.3.1 Khái niệm về mô hình
Là bản mô tả giản lược cấu trúc, hoạt động, đặc tính của một đối
tượng, một hệ thống hay một khái niệm
1.3.2 Các mô hình
Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn ISO “Quản lí chất lượng là
những hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm đề ra các chính sách,
mục tiêu, quyền hạn, trách nhiệm và được thực hiện bằng các giải pháp


22



như chính sách chất lượng, hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng,
đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng, trong khuôn khổ một hệ
thống chất lượng cho phép”.Do có nhiều mục tiêu khác nhau nên có
nhiều quan niệm khác nhau về quản lý chất lượng. Từ đó có nhiều mô
hình quản lý chất lượng được hình thành.Các mô hình quản lý chất lượng

được các nhà quản lý giáo dục đại học thế giới nghiên cứu và áp dụng
phổ biến là: Hệ thống quản lý chất lượng QMS tiêu chuẩn ISO 9000;
Quản lý Chất lượng tổng thể TQM; Quản lý chất lượng giáo dục Đại học
của Châu Âu EFQM, v.v.
Ngoài ra còn có Giải thưởng chất lượng được hình thành trên một số
nước nhằm thúc đẩy chính sách chất lượng của mỗi quốc gia giúp các tổ
chức chú trọng đến quản lý chất lượng và coi đó là động lực thúc đẩy đối
với sự phát triển và tồn tại của một tổ chức.
Một số giải thưởng chất lượng phổ biến tại một số nước và khu vực
như Giải thưởng Malcolm Baldrige (Mỹ), Giải thưởng chất lượng
Deming (Nhật Bản), Giải thưởng chất lượng Hàn Quốc, Giải thưởng chất
lượng Singapore, Giải thưởng chất lượng Philippines, Giải thưởng chất
lượng Quốc tế Châu Á – Thái Bình Dương, Giải thưởng chất lượng Việt
Nam, v.v.
1.4 Mô hình quản lý đào tạo theo tiêu chuẩn ISO 9000 phiên bản
2000(ISO 9000:2000)
1.4.1 Khái niệm
ISO là một hệ thống các văn bản quy định tiêu chuẩn và quy trình
chi tiết, nghiêm ngặt ở mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, đảm bảo
mọi sản phẩm hay dịch vụ phải phù hợp với mẫu mã, quy cách, các
thông số kỹ thuật quy định trước đó với mục tiêu là tạo một đầu ra phù
hợp với mục đích. ISO là : “Viết ra những gì cần làm - làm những gì
đã viết - viết những gì đã làm”


23





1.4.2 Mô hình
Là sự thừa nhận chất lượng của 3 bên
- Bên thứ nhất là sự tự đánh giá chất lượng bằng hệ thống tiêu chuẩn
riêng của mình;
- Bên thứ hai là khách hàng với hệ thống tiêu chuẩn riêng dùng để đánh
giá chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ được cung cấp;
- Bên thứ ba thường là một tổ chức hoạt động theo các tiêu chuẩn quốc
gia với đội ngũ các nhà đánh giá chuyên nghiệp.
* Lợi ích: Chúng có giá trị đối với bên ngoài và được thừa nhận từ bên
ngoài
* Bản chất: Là một hệ thống các văn bản quy định tiêu chuẩn và quy
trình chi tiết, nghiêm ngặt ở mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất.Đảm bảo
mọi sản phẩm hay dịch vụ phải phù hợp với mẫu mã, quy cách, các thông số
kỹ thuật quy định trước đó với mục tiêu là tạo một đầu ra “phù hợp với mục
đích”.
1.4.3 Lịch sử hình thành và phát triển của ISO 9000
Hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 lần đầu tiên xuất hiện năm 1979,
dưới dạng Hệ thống tiêu chuẩn Anh BS 5750 do Viện Tiêu chuẩn Anh
giới thiệu.Sau đó, BS 5750 được tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ban hành
lại với một số điều chỉnh không đáng kể và gọi tên là ISO 9000. Kể từ
năm 1978, ISO 9000 được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.Bộ tiêu
chuẩn quốc tế ISO 9000:1978 là hệ thống tiêu chuẩn nhằm đảm bảo chất
lượng quản lý của một tổ chức. Chất lượng quản lý của một tổ chức là cơ
sở nền tảng để hình thành chất lượng sản phẩm và dịch vụ do tổ chức đó
cung cấp. Đây là quan điểm được nhiều quốc gia đồng thuận và áp dụng.
Đầu tiên, bộ tiêu chuẩn này được áp dụng tại các quốc gia trong cộng
đồng Châu Âu, Mỹ , Canada, Nhật Bản, sau đó đã được phổ biến rộng


24




rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.Năm 1994, tổ chức ISO đã ban hành bộ
tiêu chuẩn ISO: 1994, được phân định thành 3 tiêu chuẩn riêng biệt.
Tiêu chuẩn ISO 9001: 1994: Áp dụng cho các tổ chức có liên quan
đến thiết kế, phát triển, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Trong tiêu chuẩn
này, đặc biệt thích hợp nếu có hoạt động thiết kế trong cung cấp sản
phẩm hoặc dịch vụ. Những công ty sản xuất cũng như các công ty thiết
kế nhà, đường ống dẫn, các hệ thống máy tính v.v cần phải được công
nhận theo tiêu chuẩn ISO 9001.
Tiêu chuẩn ISO 9002: 1994 : Có thể áp dụng cho các doanh nghiệp
liên quan đến sản xuất, lắp đặt và dịch vụ, nhưng ở các doanh nghiệp này
không có hoạt động thiết kế. Bởi vì hầu hết các tổ chức cung cấp sản
phẩm và dịch vụ đều có liên quan đến hoạt động này nên ISO 9002 là
tiêu chuẩn được áp dụng phổ biến nhất.
Tiêu chuẩn ISO 9003: 1994: Áp dụng cho các doanh nghiệp nếu có
thể thẩm định đầy đủ sự phù hợp các yếu tố đã xác định qua hoạt động
kiểm tra và thử nghiệm thành phẩm hoặc dịch vụ. Đây là tiêu chuẩn ít
được áp dụng nhất .
Ngày 15 tháng 12 năm 2000, Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ISO đã ấn
hành bộ tiêu chuẩn ISO 9000: 2000. Trong phiên bản lần thứ 3 này, tiêu
chuẩn ISO 9001:2000 đã được thay thế các tiêu chuẩn ISO 9001: 1994,
ISO 9002: 1994 , ISO 9003: 1994.
- ISO 9000: 2000 gồm các thuật ngữ cơ bản trong quản lý- tám
nguyên tắc của quản lý và hướng dẫn áp dụng ISO 9001: 2000
- ISO 9001:2000 gồm 6 yêu cầu và các điều khoản của QMS.
- ISO 9004:2000 hướng dẫn cải tiến hiệu lực, hiệu quả QMS và chất
lượng sản phẩm.
- ISO 9001:2003 hướng dẫn đánh giá: Tiêu chuẩn này cung cấp

hướng dẫn đánh giá về Hệ thống quản lý chất lượng và Hệ thống quản lý


25



môi trường.

×