Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Một số giải pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường đại học sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÃ THÀNH TRUNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SÀI GÒN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. THÁI VĂN THÀNH

TP.Hồ Chí Minh – 2010

1


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.


10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.

Viết tắt
CBCNV
CHXHCNVN
CNH
HĐH
CP

Viết đầy đủ
Cán bộ cơng nhân viên
Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cơng nghiệp hóa
Hiện đại hóa
Chính phủ

ĐH
ĐT
ĐTTC
GD-ĐT
GDĐH

GV
GS
PGS.TS
KH
NQTW
TS
UBND
UNESCO

Đại học
Đào tạo
Đào tạo tại chức
Giáo dục đào tạo
Giáo dục đại học
Giảng viên
Giáo sư
Phó giáo sư Tiến sĩ
Khoa học
Nghị quyết Trung ương
Tiến sĩ
Ủy ban Nhân dân
United Nations Educational, scientific

VLVH

and Cultural Organization.
Vừa làm vừa học

MỤC LỤC
Trang


1.1
1.2
1.3

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Một số khái niệm cơ bản của đề tài
Quản lý đào tạo ở trường đại học

2

1
5
5
9
20


1.4
1.5

Quản lý hệ VLVH trong trường đại học
Giải pháp quản lý đào tạo hệ VLVH ở trường đại học
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ VỪA

24
34
35


LÀM VỪA HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ

3.1
3.2

VỪA LÀM VỪA HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Các nguyên tắc đề xuất giải pháp
Một số giải pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục nghiên cứu

74
74
74
86
86
88

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 Tình hình chung
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)
trong một bối cảnh khi mà điểm xuất phát chỉ là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
nguồn nhân lực chất lượng thấp, chưa được đào tạo cơ bản. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X đã xác định mục tiêu chiến lược xây dựng nước ta trở thành một quốc gia: dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đại hội cũng đã chỉ rõ “muốn tiến
hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo,
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Phát

3


triển giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng để phát triển nguồn
nhân lực.Theo đó, trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều biện pháp đổi mới
theo hướng đa dạng hóa phương thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục cho mọi
tầng lớp nhân dân và để xây dựng một xã hội học tập "mọi người được đi học, học thường
xuyên, học suốt đời". Giáo dục chính quy (GDCQ) được kết hợp với các hình thức vừa
làm vừa học (VLVH).
Thực hiện quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo: "Giáo dục cho mọi người";
"Cả nước trở thành một xã hội học tập", GDĐH Việt Nam còn phải thực hiện bước
chuyển từ "Đại học tinh hoa" sang "Đại học đại chúng" nhằm đáp ứng nhu cầu học tập,
học thường xuyên, học suốt đời ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Con đường tất yếu phải thực hiện là "phát triển nhanh quy mô; đồng thời phải bảo đảm
về chất lượng".
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát
của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp theo
hướng hiện đại hóa. Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những
bước nhảy vọt”.
Do vậy, giáo dục và đào tạo, khoa học - cơng nghệ có vai trị quyết định trong sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân; nhu cầu phát triển giáo dục và đào tạo là rất bức thiết.
Sau 20 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước đi

theo phương châm đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xây dựng một nền giáo dục nước
ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, tạo ra nguồn lực to lớn và có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của
đất nước.

4


Đại hội lần thứ X của Đảng cũng vẫn đặc biệt coi trọng nguồn nhân lực, ngành
giáo dục và đào tạo góp phần quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho đất
nước, đó là yếu tố quyết định trong nội lực của đất nước phát triển trong thời đại mới. Để
thực hiện được nhiệm vụ này, ngành giáo dục và đào tạo cần sự nghiên cứu, tìm tịi, thiết
kế nội dung chương trình, đổi mới phương pháp, có quan điểm cụ thể trong quá trình dạy
học. Trong từng bậc học, cấp học, hoạt động dạy học là hoạt động chính, chủ yếu trong
nhà trường, quyết định trực tiếp tới chất lượng của nguồn nhân lực, nên việc tìm ra những
biện pháp quản lý họat động dạy học để nâng cao chất lượng dạy học là hết sức cần thiết.
Nghị quyết TW 2 BCH TW Đảng, khóa VIII nhận định: "Cơng tác quản lý giáo dục - đào
tạo có những mặt yếu kém, bất cập  Mở rộng quy mô giáo dục - đào tạo và phát triển
nhiều loại hình giáo dục - đào tạo nhưng có nhiều thiếu sót trong việc quản lý chương
trình, nội dung và chất lượng ". Nghị quyết cũng đã đề ra bốn giải pháp chủ yếu cho
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trong đó, giải pháp thứ 4 là "Đổi mới công tác quản lý giáo dục".
 Thực trạng công công tác quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường đại học
Sài Gịn
Thực tế cơng tác quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học của trường Đại học Sài Gòn
trong những năm qua cho thấy số lượng học viên hệ vừa làm vừa học của trường Đại học
Sài Gòn ngày một tăng. Điều này tỉ lệ thuận với nhu cầu chuẩn hóa giảng viên cũng như
nhu cầu phát triển của nhân viên các cơng ty xí nghiệp. Vì thế áp lực về đội ngũ giảng
viên, chương trình đào tạo, giáo trình hay cơ sở vật chất ngày một cấp bách để đáp ứng
nhu cầu của xã hội.

Mặc dù việc nâng cao chất lượng đào taọ hệ vừa làm vừa học còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố nhưng việc đổi mới quản lý nhà trường mà cốt lõi là công tác quản lý đào tạo
là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo hệ
vừa làm vừa học, vấn đề này chưa được tác giả nào quan tâm nghiên cứu.

5


Xuất phát từ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn giáo dục nêu trên và góp phần nâng cao
hiệu quả công tác quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường Đại học Sài Gịn, chúng
tơi chọn đề tài:
“Một số giải pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường Đại học Sài Gòn.”
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc
nâng cao chất lượng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học của trường Đại học Sài Gịn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường
Đại học Sài Gòn, đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên và nhu cầu xã hội.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
3.1: Khách thể nghiên cứu:
Công tác quản lý hệ đào tạo vừa làm vừa học ở trường Đại học Sài Gòn.
3.2: Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường Đại học Sài Gòn.
4. Giả thiết khoa học:
Nếu chúng ta xây dựng các giải pháp đảm bảo tính khoa học, khả thi sẽ nâng cao được
hiệu quả quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường Đại học Sài Gòn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
 Xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài
 Xây dựng một số giải pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường Đại học
Sài Gòn.

6. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
 Nhóm các phương pháp Thống kê tốn học để sử lý số liệu.
7. Đóng góp của luận văn:

6


 Đề tài nêu lên được thực trạng công tác quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở
trường Đại học Sài Gòn.
 Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở
trường Đại học Sài Gòn.
8. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng quản lý đào tạo đại học hệ vừa học vừa làm ở Trường Đại học
Sài Gòn
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo đại học hệ
vừa làm vừa học ở trường Đại học Sài Gòn

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1: Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1:Trên thế giới
Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, vấn đề về giáo dục thường xuyên cho
người lớn tuổi đã được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, có thể nói rằng
cho đến tận cuối thập niên 50 của thế kỷ trước thì đào tạo chính quy cơ bản vẫn là hình
thức duy nhất trong hệ thống giáo dục và đào tạo toàn cầu.

Năm 1972, Edgar Farue - Chủ tich Uỷ ban Quốc tế về phát triển giáo dục (thuộc
UNESCO) trong báo cáo với nhan đề “Học để tồn tại: thế giới giáo dục hôm nay và ngày
mai” đã làm xoay chuyển nhận thức về giáo dục, với các khái niệm quan trọng là “Học
suốt đời” và “Tính phù hợp”. Với việc đặt giáo dục cho đối tượng người lớn tuổi trong
khuôn khổ của giáo dục suốt đời, khái niệm “xã hội học tập” được nhiều nhà giáo dục lớn
trên thế giới đưa ra bàn luận và kết quả tất yếu là quan niệm về giáo dục đã được mở rộng

7


hơn: Giáo dục người lớn, giáo dục thường xuyên, giáo dục khơng chính quy phải được coi
là bộ phận chủ yếu quan trọng cùng với nhà trường chính quy cung cấp cơ hội học tập
suốt đời cho mọi người. Đây là định hướng cho cải cách giáo dục giai đoạn này.
Điều này có thể giải Một cơng trình được thế giới thừa nhận như một triết lý của
giáo dụcthế kỷ XXI là báo cáo của Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI, dưới sự chủ
tọa của Jacques Delors, nguyên Chủ tịch ủy ban Châu Âu (EC) nhiệm kỳ 1985-1995 và
được UNESCO công bố tháng 4 năm 1996, với tên gọi “học tập, một kho báu tiềm ẩn”.
Trong đó báo cáo này dành chương V để phân tích việc học suốt đời. Theo đó có thể tóm
tắt triết lý của một nền giáo dục cần thiết cho thế kỷ XXI: Học tập suốt đời và XHHT.
Học tập suốt đời được coi là chìa khóa mở cửa vào thế kỷ XXI. Nó vượt qua cách hiểu
thơng thường về GDCQ và KCQ; hình thành quan niệm mới về giáo dục ban đầu và giáo
dục tiếp tục. Học tập suốt đời gắn với quan niệm mới về một XHHT, ở đó tất cả mọi thứ
đều có thể tạo ra cơ hội học tập để phát huy tiềm năng của mỗi người.
Ngoài cơng trình nghiên cứu trên, cịn có nhiều nghiên cứu khác cũng đề cập tới xu
thế học tập suốt đời trong thời đại mới. Chẳng hạn, các nhà Tương lai học, Giáo dục học
hàng đầu thế giới và khu vực như Alvin Toffler, Warren Bennis, Stephen Covey, Gary
Hamel, Kevin Kelly, Philip Kotler, John Kotter Michael Porter, Perer Senge, Thoms L.
Friedman, Raja.Roysingh, Tsunesaburo Makiguchi đã phân tích các đặc trưng của xã hội
hiện đại, được xây dựng trên nền tảng của hệ thống tri thức khoa học phát triển nhanh,
biến đổi mạnh và sự thơng tin tồn cầu. Từ đó các nhà tương lai học trên đã đưa ra các dự

báo nền giáo dục của tương lai hoàn toàn khác với giáo dục truyền thống. Đó là nền giáo
dục siêu cơng nghiệp mà một trong nhiều đặc trưng của nó là do sự lỗi thời nhanh chóng
của kiến thức và sự biến động mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội, do đó, nền giáo dục phải
hướng đến sự giáo dục suốt đời trên cơ sở thường xuyên đào tạo lại. Trong tác phẩm “Dự
báo thế kỷ XXI” các nhà khoa học Trung Quốc cũng nhấn mạnh đến đặc trưng của giáo
dục tương lai và xu thế học tập suốt đời đối với mỗi cá nhân và một XHHT. Cùng với vấn
đề xu thế học tập suốt đời, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung làm sáng tỏ vấn đề XHHT.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX khái niệm XHHT đã được tranh luận sôi nổi trên

8


diễn đàn giáo dục. Có thể kể ra các cơng trình nghiên cứu của Donal Shon, Robert
M.Hutchins, Argyris, Husén, Edgarl Faure, Stwarde Ranson, Richard Edwards v.v... Cơng
trình của Donal Shon, với ý tưởng các công ty, các phong trào xã hội và các chính quyền
đều phải là “các hệ thống học tập” (Learning system). Một trong những cơng trình nghiên
cứu về XHHT đáng chú ý là của Husen, nghiên cứu vai trò của sự tiến bộ của kỹ thuật với
sự ra đời của hội học tập, đặc biệt là những năm 40 của thế kỷ XX. Một trong những cơng
trình được nhiều người đánh giá cao là của Richard Edwards. Theo Edwards XHHT là
một xã hội đảm bảo tự do, dân chủ và bình đẳng xã hội cho mọi người dân; bình đẳng
nhất là ở chỗ mọi người dân đều tạo ra cho mình khả năng tự học và tự học suốt đời; nhu
cầu học tập, động cơ học tập là một động lực quan trọng. Trên thực tế cho tới những năm
đầu thế kỷ XXI xu thế học tập suốt đời và một XHHT đang được hiện thực hóa ở nhiều
nước trên thế giới.
Tại Pháp, tư tưởng toàn dân học tập và học tập suốt đời lần đầu tiên được đề xuất
bởi Paolo Lange, nhà quản lí giáo dục đưa ra vào những năm 60 của thế kỷ XX. Năm
1972 Ủy ban Quốc tế do Thủ tướng Pháp chủ trì đã đưa ra báo cáo với tên gọi “sự tồn tại
của XHHT trên thế giới, giáo dục hôm này và ngày mai” đã chính thức xác nhận tính
pháp lí của tư tưởng này, không chỉ ở Pháp mà trên phạm vi quốc tế. Từ đó quan niệm
học tập suốt đời ngày càng thâm nhập sâu vào thực tiễn giáo dục của nhiều nước trên thế

giới có nền giáo dục phát triển [45].
Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong lĩnh vực triển khai tư tưởng học
tập suốt đời và XHHT. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, nền giáo dục Nhật Bản
đã cải cách theo xu thế mở ra các điều kiện để mọi người dân được học suốt đời. Trong
những năm 1984 - 1987, Nhật Bản đề ra chủ trương: Phải xây dựng một thể chế giáo dục
suốt đời quá độ sang hệ thống giáo dục mới ổn định. Năm 1988 Bộ Giáo dục Nhật đã
cơng bố sách trắng, trong đó khảng định: Nhật bản đang đối diện với mục tiêu của việc
cải cách giáo dục cho thế kỷ XXI “chính là thực hiện một XHHT suốt đời”.
Ở Mỹ, tháng 4 - 1984, trong báo cáo của Ủy ban giáo dục chất lượng cao tồn Liên
bang đã gửi Quốc hội, trong đó nhấn mạnh: cần phải dốc sức vào việc giáo dục suốt đời,

9


mở ra một phong trào giáo dục với mục tiêu xã hội hóa học tập. Ngày 18 - 4 - 1981 trong
chiến lược giáo dục của “kế hoạch năm 2000 của Mỹ”, do tổng thống Mỹ công bố lại
nhấn mạnh thêm một bước, học tập suốt đời kiến thức và kỹ thuật, suốt đời là học sinh và
hô hào mở cuộc vận động cải tạo nước Mỹ thành một nước “cả nước đi học”.
Tại Hàn Quốc, ngày 31-5 -1995, Hội đồng về cải cách giáo dục (PCER) đã nghiên
cứu và cho xuất bản cuốn sách “hệ thống giáo dục mới”, mà quan điểm cơ bản là xây
dựng một xã hội giáo dục sống động và mở cửa. Một trong những hướng ưu tiên của
chương trình cải cách này là đa dạng hóa các loại hình giáo dục, tạo ra nhiều cơ hội giáo
dục cho mọi tầng lớp nhân dân được lựa chọn. Một trong những việc làm ngay của Hàn
Quốc trong cải cách giáo dục này là thành lập các trung tâm đa phương tiện quốc gia, qua
đó, người dân có thể được tiếp cận và sử dụng các phương tiện thơng tin hiện đại vào việc
học tập của mình [2].__thích qua việc phân tích tình hình phát triển kinh tế - xã hội lúc đó:
1.1.2: Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, từ lâu các nhà khoa học và quản lý đã đặc biệt quan tâm đến việc
nghiên cứu các biện pháp quản lý chất lượng đào tạo, đặc biệt là các trường ĐH, các Viện
nghiên cứu đứng trước đòi hỏi cấp bách của việc cung ứng nguồn nhân lực của đất nước

trong từng giai đoạn phát triển. Vấn đề này đã được cơng bố trên nhiều cơng trình nghiên cứu:
Có thể nêu một số trong các nhà nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này như: Phạm
Minh Hạc [43], [54], [55], Vũ Văn Tảo [107], Nguyễn Minh Đường [71], Vũ Ngọc Hải
[44], [45], [47], Phạm Tất Dong [30], [31], Đặng Quốc Bảo, Mạc Văn Trang, Đặng Thành
Hưng, Tô Bá Trượng, Đào Thái Lai, Tạ Ngọc Thanh, Thái Xuân Đào v.v... [33], [99].
Liên tiếp trong hai năm 2004 -2005 Hội Khoa học Tâm lí - Giáo dục Việt Nam phối
hợp với Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục tổ chức hai cuộc hội thảo khoa học
với chủ đề xây dựng XHHT. Các hội thảo này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các
nhà khoa học giáo dục. Từ đây nhiều vấn đề cơ bản vê tư tưởng học tập suốt đời và xây
dựng một XHHT đã được làm sáng tỏ như các khái niệm XHHT, cơ sở phương pháp luận
của việc xây dựng XHHT; vai trò của XHHT trong thời đại mới, trong quá trình triển
khai học tập suốt đời; các điều kiện thực hiện XHHT; phương hướng xây dựng và phát

10


triển XHHT ở Việt Nam trong thời gian tới… Ngoài ra, các tác giả khác như Nghiêm
Đình Vì, trong tác phẩm “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài”, Hồng Tụy và nhóm
gồm 23 giáo sư trong bản kiến nghị gửi lên Thủ tướng Chính phủ về chấn hưng và hiện
đại hóa giáo dục [100], Thái Duy Tuyên, trong tác phẩm “Giáo dục học hiện đại” [102],
đều nhấn mạnh mọi người cần học tập, học thường xuyên, học suốt đời.
Mặc dù các nghiên cứu ở trong nước tuy không ít nhưng còn tản mạn, chưa tập trung
và chưa đi sâu vào những khía cạnh bản chất, thiết thực của vấn đề chất lượng. Khơng ít
quan điểm về chất lượng giáo dục cịn nghiêng theo nghĩa hành chính, thành tích hoặc
thiếu nhất quán. Do đó ngay cả về lý luận thì vấn đề chất lượng giáo dục nói chung, vấn
đề chuẩn hố giáo viên nói riêng cũng cần được nghiên cứu đầy đủ hơn.
Đặc biệt, các nghiên cứu về quản lý đào tạo hệ VLVH cịn rất ít, nhất là nghiên cứu
về vấn đề này trong mối quan hệ với nhu cầu chuẩn hóa giáo viên của các địa phương còn
là một vấn đề khá mới mẻ, một mảnh đất trống cần quan tâm trong nghiên cứu khoa học
về QLGD.

1.2: Một số khái niệm cơ bản:
1.2.1: Quản lý
1.2.1.1: Khái niệm về quản lý
Có thể nói: trong các hoạt động của con ngưới thì quản lý là một trong những hình
thức lao động quan trọng nhất, đặc thù nhất, nó điều khiển các hoạt động lao động khác.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về quản lý là vô cùng cần thiết, nó sẽ giúp cho con người
có được những kiến thức cơ bản nhất, chung nhất đối về hoạt động quản lý.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý là vấn đề hết sức phức tạp vì đối tượng hoạt động càng
đa dạng bao nhiêu thì lại càng địi hỏi phải có các biện pháp quản lý phong phú bấy nhiêu
bấy nhiêu. Chỉ riêng khái niệm “quản lý” cũng đã được các nhà triết học, các nhà khoa
học định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào phương pháp tiếp cận.
F.W Taylor cho rằng: Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau
đó thấy họ đã hồn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.

11


H. Koontz thì khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức).
C.Mác nhận định: “ Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng ”.
Quản lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn.
Từ những định nghĩa trên và xét quản lý với tư cách là một hành động có thể định
nghĩa: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”.

Từ định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng quản
lý, đây là quan hệ ra lệnh - phục tùng, khơng đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người
- Quản lý là sự tác động, mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật
khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thơng tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại.
1.2.1.2: Bản chất quản lý
Mục tiêu của quản lý: Là cần tạo dựng một mơi trường mà trong đó mỗi người có
thể hồn thành được mục đích của mình, của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự
bất mãn của cá nhân ít nhất.
Đối tượng của quản lý: Là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ giữa người và người
trong quản lý, quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Quản lý nghiên cứu các quan hệ

12


phát sinh trong quá trình hoạt động của con người, của các tổ chức. Những quan hệ này
có thể là quan hệ của con người với môi trường, của tổ chức với môi trường. Quản lý
nghiên cứu các mối quan hệ này nhằm tìm ra quy luật và cơ chế vận dụng những quy luật
đó trong q trình tác động lên con người, thơng qua đó tác động lên các yếu tố vật chất
và phi vật chất khác như vốn, vật tư, trang thiết bị, công nghệ, thông tin … một cách có
hiệu quả. Khoa học quản lý sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho nghiên
cứu sâu các môn học về quản lý tổ chức theo lĩnh vực hoặc theo ngành chuyên môn từ
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý nhân lực, quản lý tài chính … Như vậy trong
lĩnh vực quản lý, vai trò lý thuyết quản lý cho ta những phương tiện phân loại các kiến
thức quan trọng và thích hợp về quản lý. Những nguyên tắc trong quản lý có tính chất mơ
tả hoặc tiên đốn, chứ khơng có tính tất yếu. Điều này có nghĩa là, chúng phản ánh sự liên

hệ của một biến số với các biến số khác như thế nào, tức là cái gì sẽ xảy ra khi các biến số
này tác động qua lại … Quản lý có nhiệm vụ tìm ra quy luật và tính quy luật của hoạt
động quản lý, từ đó xác định các ngun tắc, chính sách, cơng cụ, phương pháp và các
hình thức tổ chức quản lý để khơng ngừng hồn thiện và nâng cao chất lượng quản lý.
Tính khoa học: Tính khoa học của quản lý địi hỏi các nhà quản lý trước hết phải
nắm vững những quy luật liên quan đến quá trình hoạt động của tổ chức, đó khơng chỉ là
những quy luật kinh tế mà còn là hàng loạt những quy luật khác, nắm quy luật thực chất là
nắm vững hệ thống lý luận về quản lý. Tính khoa học của quản lý cịn địi hỏi các nhà
quản lý phải biết vận dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, những thành
tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Để nắm được và thực hiện được tính khoa học của
quản lý, trước hết phải biết tiếp cận khoa học thật rõ ràng với các khái niệm, tức là những
từ và những thuật ngữ chính xác, thích hợp với những sự việc đem phân tích với đầy đủ
các thơng tin có được. Trên cơ sở này, nội dung phương pháp khoa học là xác định các sự
việc thông qua quan sát các sự kiện mà xác nhận các sự việc này thông qua quan sát tiếp.
Sau khi phân loại và phân tích các sự việc, các nhà quản lý tìm kiếm những mối liên hệ
nhân quả mà họ tin là đúng. Khi các khái quát hóa, hay là giả thuyết nêu ra đã được kiểm
định về mức độ chính xác và dường như đúng, phản ánh hoặc giải thích được thực tại và

13


do đó có giá trị trong việc dự báo cái gì sẽ xảy ra trong những hồn cảnh tương tự thì
chúng được gọi là các ngun tắc. Sự mơ tả này khơng phải bao giờ cũng có nghĩa là
chúng đúng mãi hoặc khơng cịn gì đáng nghi ngờ nữa, mà có nghĩa là chúng được tin là
có đủ giá trị để dùng cho việc dự đoán. Quan trọng hơn, khoa học quản lý còn cung cấp
cho người quản lý phương pháp nhận thức và phương pháp hành động một cách khách
quan khoa học.
Tính nghệ thuật: Quản lý là một khoa học nhưng mang tính nghệ thuật. Kiến thức
làm cơ sở cho quản lý là một khoa học, còn vận dụng kiến thức đó để quản lý lại là nghệ
thuật. Tính nghệ thuật của quản lý xuất phát từ tính đa dạng phong phú, tính mn hình

mn vẻ của các sự vật và hiện tượng trong kinh tế xã hội và trong quản lý. Như vậy hoạt
động quản lý là một lĩnh vực thực hành phải xử lý tình huống khác nhau nên còn phụ
thuộc vào tài nghệ từng người (được gọi là nghệ thuật quản lý). Đó là cách giải quyết
cơng việc trong điều kiện thực tại của tình huống mà những kiến thức quản lý và sách vở
không thể chỉ ra hết được.
Quản lý là một nghề: Ngày nay, nghề quản lý đã được đào tạo ở nhiều nước trên
thế giới trong các trường ĐH và bậc cao hơn. Như vậy có thể nói là muốn tham gia quản
lý thì phải đào tạo hay nói cách khác: quản lý là một nghề. Nhưng để có thể trở thành nhà
quản lý giỏi hay khơng lại cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Như vậy muốn quản lý
có kết quả thì trước tiên nhà quản lý tương lai phải được phát hiện năng lực, được đào tạo
nghề nghiệp, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm một cách chu đáo để phát hiện, nhận thức
một cách chuẩn xác và đầy đủ các quy luật khách quan. Đồng thời có phương pháp nghệ
thuật thích hợp nhằm tn thủ đúng các địi hỏi của các quy luật đó.
Các thuộc tính của quản lý: Quản lý được ra đời trong quá trình phát triển xã hội
lồi người. Xã hội càng phát triển thì khoa học quản lý càng phát triển. Khoa học quản lý
càng phát triển thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Mối liên hệ này luôn quan hệ mật thiết
hữu cơ với nhau và chúng được dựa trên hai thuộc tính cơ bản của quản lý:
- Thuộc tính chính trị - xã hội: Quản lý là quá trình phối hợp nỗ lực của nhiều
người để đạt được mục tiêu. Về mặt chính trị - xã hội hoạt động quản lý mang tính giai

14


cấp, tính giai cấp trong quản lý được thể hiện trong mục tiêu của quản lý. Xã hội có giai
cấp thì quản lý mang tính giai cấp và được tiến hành vì lợi ích giai cấp thống trị xã hội. Sự
khác biệt này thể hiện qua mục tiêu và quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý.
- Thuộc tính tổ chức - kỹ thuật: Quản lý là quá trình điều khiển, giữa hệ thống hình
thức các thủ pháp, phương pháp tiến hành, điều hành công việc. Điều khiển là chức năng
của những hệ có tổ chức (sinh học, xã hội, kỹ thuật) nó bảo tồn cấu trúc xác định của các
hệ, duy trì chế độ hoạt động và thực hiện hoạt động, xem xét theo góc độ này quản lý

phản ánh sự tiến bộ xã hội, nên quản lý khơng mang tính giai cấp.
1.2.1.3: Chức năng của quản lý:
Chức năng của quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể
quản lý nảy sinh từ sự phân cơng, chun mơn hóa trong hoạt động quản lý nhằm thực
hiện mục tiêu chung của quản lý.
Phân công gắn liền với hợp tác, phân công, chun mơn hóa càng sâu, địi hỏi sự
hợp tác càng cao, mối liên hệ càng chặt chẽ với trình tự nhất định giữa các chức năng
quản lý.
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các cơng
việc của q trình quản lý, mỗi chức năng có nhiệm vụ cụ thể, là q trình liên tục của các
bước công việc tất yếu phải thực hiện. Chức năng của quản lý có vai trị rất quan trọng, nó
xác định vị trí mối quan hệ giữa các bộ phận, các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý.
Mỗi hệ thống quản lý đều có nhiều bộ phận, nhiều khâu, nhiều cấp khác nhau, gắn
liền với những chức năng xác định nào đó, nếu khơng có chức năng quản lý thì bộ phận
đó khơng cịn lý do tồn tại. Căn cứ vào chức năng quản lý mà chủ thể quản lý có thể theo
dõi, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh sự hoạt động của mỗi bộ phận và toàn bộ hệ thống
quản lý.
1.2.1.4: Các chức năng cơ bản của quản lý:
Trong cuốn “Giáo trình khoa học quản lý” của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
xuất bản năm 2004 có nêu 7 chức năng cơ bản của quản lý gồm:
1. Dự báo (hay còn gọi là dự đoán)

15


2. Kế hoạch hóa
3. Tổ chức
4. Động viên
5. Điều chỉnh
6. Kiểm tra

7. Đánh giá
Henry Fayol, một trong những người khởi đầu khoa học quản lý cho rằng quản lý có
4 chức năng cơ bản và là 4 khâu có sự liên hệ chặt chẽ với nhau, đó là:
1. Chức năng lập kế hoạch: Trong đó bao gồm dự báo, vạch mục tiêu. Đây là chức
năng đầu tiên, đó là bản hướng dẫn xác định mục tiêu, mục đích đối với các thành tựu
tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu đó.
Như vậy lập kế hoạch có liên quan đến mục tiêu, nhiệm vụ, xác định mục tiêu
(phương hướng) đối với tổ chức, xác định và đảm bảo các phương tiện, điều kiện các
nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu. Trong lập kế hoạch bao gồm cả hai phương
diện hoạch định cách thức tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và kiểm tra, đánh giá quá
trình thực hiện mục tiêu nhiệm vụ để thấy rõ những mục tiêu nhiệm vụ được thực hiện
như thế nào, đến đâu và nếu thấy chưa thỏa mãn thì quyết định xem những hoạt động nào
cần thiết để đạt được mục tiêu đó.
2. Chức năng tổ chức: Tổ chức cơng việc, sắp xếp con người
Người quản lý sau khi lập xong kế hoạch cần phải chuyển hóa những ý tưởng đó
thành hiện thực, đó là tổ chức thực hiện.
Tổ chức là quá trình sắp xếp, xác lập và liên kết các bộ phận các chức năng riêng lẻ
thành một hệ thống hoàn thiện, thống nhất tạo nên sức mạnh tổng hợp để đạt được mục
tiêu quản lý.
Dưới tác động của chức năng tổ chức diễn ra quá trình hình thành cấu trúc quan hệ
giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức, nhằm làm cho họ thực hiện
thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ chức năng tổ
chức mà người quản lý có thể kết hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực

16


một cách có hiệu quả, cho phép mọi người trong đơn vị có điều kiện góp phần tốt nhất
vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện của người quản lý, tổ chức là công cụ
của quản lý, tổ chức tốt sẽ là khởi nguồn kích thích các động lực, nếu tổ chức khơng tốt sẽ

kìm hãm, triệt tiêu các động lực, làm giảm hiệu quả quản lý.
3. Chức năng điều hành: Tác động đến con người bằng các quyết định để con
người hoạt động, đưa bộ máy đạt tới mục tiêu, trong đó bao gồm cả việc khuyến khích,
động viên
Sau khi lập kế hoạch và xác định được cơ cấu tổ chức và nhân sự thì phải làm cho
hệ thống quản lý hoạt động, phải có người đứng ra lãnh đạo dẫn dắt tổ chức, đó là chức
năng điều hành, điều khiển.
Mục đích của điều hành là đưa tổ chức vào hoạt động để thực hiện mục tiêu. Đây
là những tác động từ phía chủ thể quản lý, điều hành trong quản lý, là quá trình khởi động
và duy trì sự hoạt động của hệ thống quản lý theo kế hoạch đề ra.
Điều hành thể hiện chức năng lãnh đạo, điều hành trong quản lý là thực hiện những
tác động lên con người, khơi dậy động lực con người trong hệ thống quản lý, là quá trình
tác động lên con người với những động cơ khác nhau của họ. Điều hành không chỉ là sự chỉ
dẫn, ra lệnh mà cịn bao hàm cả sự động viên, khích lệ họ hoàn thành những nhiệm vụ.
Điều hành là chức năng quản lý với ý nghĩa quyết định trong hoạt động quản lý, là
yếu tố đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý khác. Bởi lẽ con người với tư cách vừa là
chủ thể vừa là đối tượng của quản lý, là nhân tố nội tại quyết định thành công hay thất bại
của tổ chức.
4. Chức năng kiểm tra: Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhằm kịp thời
điều chỉnh sai sót, đưa bộ máy đạt được mục tiêu xác định.
Thông qua chức năng này, người quản lý theo dõi, giám sát các thành quả hoạt
động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, điều chỉnh sai sót, lệch lạc nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra.
Tóm lại, các chức năng quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất với một trình tự
nhất định, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ

17


phụ thuộc với chức năng khác. Quá trình ra quyết định quản lý là quá trình thực hiện các

chức năng quản lý theo một trình tự nhất định. Việc bỏ qua hoặc coi nhẹ bất cứ một chức
năng nào trong chuỗi các chức năng đều ảnh hưởng xấu tới kết quả quản lý. Các chức
năng tạo thành một chu trình quản lý của một hệ thống.
1.2.1.5: Quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là quản lý một lĩnh vực xã hội, mà lĩnh vực này ngày càng quan
trọng trong đời sống xã hội. Nói cách khác QLGD là điển hình nhất về quản lý con người,
quản lý quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
Về khái niệm QLGD có nhiều cách hiểu khác nhau:
- QLGD theo nghĩa tổng quát là “hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã
hội nhằm đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát
triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho
mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên QLGD được hiểu là sự
điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân ”.
- QLGD là “sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong lĩnh vực
hoạt động giáo dục”. Nói một cách đầy đủ hơn “QLGD là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự
điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”.
- QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
Như vậy, QLGD là tổng hợp các biện pháp tổ chức kế hoạch hóa nhằm bảo đảm sự
vận hành bình thường các cơ quan trong hệ thống giáo dục. Hệ thống giáo dục là một hệ
thống xã hội, QLGD cũng chịu sự chi phối của quy luật xã hội và tác động của quản lý xã
hội. Trong QLGD các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và quản lý sự nghiệp
chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không tách biệt, tạo thành hoạt động
quản lý thống nhất.

18



Từ những khái niệm nêu trên đưa đến cách hiểu chung nhất là: QLGD là quá trình
vận dụng nguyên lý, khái niệm, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh
vực QLGD. QLGD là sự tác động có chủ đích của chủ thể QLGD đến đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu xác định.
Mục tiêu của QLGD là điều khiển hệ thống giáo dục đạt tới trạng thái mong muốn
trong tương lai đối với hệ thống giáo dục, đối với trường học hoặc đối với vài thông số
chủ yếu của hệ thống giáo dục của nhà trường. Mục tiêu QLGD được xác định trên cơ sở
đáp ứng những mục tiêu tổng thể của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Đảm bảo quyền học sinh vào học các ngành học, các cấp học, lớp học đúng chỉ
tiêu và tiêu chuẩn
- Đảm bảo chỉ tiêu và chất lượng hiệu quả đào tạo
- Phát triển tập thể sư phạm đủ và đồng bộ; nâng cao về trình độ chun mơn
nghiệp vụ và đời sống
- Xây dựng và sử dụng bảo quản tốt cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy và học
- Xây dựng và hồn thiện các tổ chức chính quyền, Đảng, đồn thể quần chúng để
thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo
- Xây dựng và hoàn thiện các mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội để làm tốt công
tác giáo dục thế hệ trẻ
Đối tượng của QLGD là các hoạt động giáo dục trong xã hội, nhưng trước hết là
trong hệ thống giáo dục, gồm tất cả các ngành học; các phân hệ của nó, đặc biệt là quản lý
các trường học, tìm ra các giải pháp, phương án cải tiến giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng để đi đến mục tiêu cuối cùng là làm thế nào để thầy dạy tốt, trò học tốt.
Phương pháp QLGD: Cũng như bất cứ một hệ thống quản lý nào, QLGD phải sử
dụng các phương pháp quản lý chung. Tuy nhiên, các phương pháp quản lý không phải là
đa năng, hoàn toàn đúng với mọi trường hợp. Vấn đề là người sử dụng phải vận dụng linh
hoạt các phương pháp QLGD để có hiệu quả cao. Các phương pháp quản lý gồm:
- Phương pháp tâm lý - xã hội

19



Đặc điểm của phương pháp này là sự kích thích đối tượng quản lý sao cho để họ toàn tâm,
toàn ý vào công việc, coi mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị là mục tiêu của chính mình.
Phương pháp tác động này nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp.
- Phương pháp tổ chức - hành chính
Đặc điểm của phương pháp này là bắt buộc đối với người thừa hành bằng việc tác
động, chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp của người lãnh đạo. Đó là sự phân cơng giao nhiệm vụ,
giao quyền hạn, phạm vi được sử dụng quyền hạn và trách nhiệm trong thực hiện công
việc. Người thực hiện bắt buộc phải tuân thủ bằng cách thực hiện đúng các quy định, quy
chế, định mức được giao.
- Phương pháp kinh tế
Đặc điểm của phương pháp này là tác động gián tiếp lên đối tượng nhằm hấp dẫn
đối tượng quản lý bằng các lợi ích kinh tế, khiến họ hoạt động có hiệu quả hơn. Trong
QLGD, người ta thường áp dụng phương pháp này để tính tốn hiệu quả kinh tế giáo dục:
Đầu tư chi phí cho giáo dục, giá thành đào tạo ... áp dụng các chỉ tiêu định mức lao động,
các biện pháp khuyến khích vật chất, chế độ tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng ... để người giáo
viên thấy rằng mình được quan tâm đúng mức và tạo động lực phấn đấu công tác tốt hơn.
Trong thực tiễn quản lý, nhà QLGD không chỉ quản lý đơn vị bằng các phương
pháp cơ bản trên. Bản thân mỗi cán bộ QLGD, mỗi cán bộ, giáo viên ... luôn sẵn có
những phẩm chất, nhân cách của một nhà giáo dục. Sự tác động của nhân cách người
QLGD có tác dụng trực tiếp tới đối tượng quản lý và mang lại hiệu quả cao.
Các phương pháp quản lý đều khơng có tính vĩnh cửu, vạn năng để giải quyết tất
cả các công việc. Nhà quản lý phải tùy theo từng điều kiện, từng hoàn cảnh mà lựa chọn
sử dụng kết hợp các phương pháp quản lý sao cho thích hợp, khơng nên rập khn máy
móc. Để làm điều đó, người quản lý phải nắm vững và thành thạo công việc chuyên mơn,
phải có kinh nghiệm quản lý phong phú và có tầm nhìn xa và rộng.
1.2.1.6: Quản lý nhà trường:

20




×