Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Báo cáo: Sự kế thừa potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.46 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ KẾ THỪA QUỐC GIA
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ THỪA QUỐC GIA
1. Khái niệm và giải thích một số thuật ngữ
2. Các điều ước quốc tế điều chỉnh
II. SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA DO KẾT QUẢ CỦA GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC
1. Vấn đề kế thừa quốc gia sau khi giả phóng dân tộc
2. Ví dụ tiêu biểu
III. KẾ THỪA QUỐC GIA SAU CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1.Khái quát chung về tình hình kế thừa quốc gia sau cách mang
xã hội
2.Một số quốc gia trên thế giới áp dụng kế thừa quốc gia sau
cách mạng xã hội
IV. SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA KHI MỘT QUỐC GIA TÁCH
THÀNH NHIỀU QUỐC GIA.
1. Vấn đề đặt ra khi một quốc gia tách ra thành nhiều quốc gia
• Kế thừa quốc gia khi Liên bang tách thành quốc gia độc
lập
• Kế thừa quốc gia khi một bộ phận của quốc gia tách thành
quốc gia độc lập.
2. Một số ví dụ về việc tách quốc gia thành nhiều quốc gia
1
V. SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA SAU KHI HỢP NHẤT, SÁP
NHẬP
1. Hợp nhất
2. Sáp nhập
CHƯƠNG II VẤN ĐỀ KẾ THỪA QUỐC GIA CỦA VIỆT


NAM TỪ SAU THẾ KỶ XX ĐẾN ĐÂY
I. Sự kế thừa quốc gia sau khi Việt Nam giành được độc lập vào năm
1945
II. Sự kế thừa quốc gia sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước năm 1975
2
Lời mở đầu
Sự kế thừa là một chế định trong luật quốc tế và là một vấn đề quan trọng trong
sinh hoạt quốc tế hiện nay. Đời sống quốc tế đã và đang đặt ra những vấn đề mới
về sự kế thừa mà trước đây thực tế không xuất hiện. Kế thừa không chỉ liên quan
tới một quốc gia riêng biệt mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với rất nhiều quốc gia
trên thế giới. Tại kỳ họp XVI của Đại hội đồng LHQ đã thông qua nghị quyết về
việc đưa vấn đề kế thừa vào danh mục những vấn đề trước mắt cần pháp điển hóa.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn luật pháp quốc tế, vấn đề kế thừa bao gồm
một số bộ phận khá phức tạp và thường làm phát sinh nhiều cuộc tranh luận sôi
nổi, nhiều phần của vấn đề đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt khoát. Chế định
kế thừa bao gồm kế thừa chính phủ, kế thừa của tổ chức quốc tế, kế thừa quốc gia,
trong đó bộ phận quan trọng nhất được nghiên cứu là sự kế thừa của quốc gia.
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề kế thừa của quốc gia
trong luật quốc tế hiện đại.
Ý NGHĨA ĐỀ TÀI:
-Với sự nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi mong muốn giúp cho những ai
muốn tìm hiểu về vấn đề kế thừa quốc gia trong môn học Luật quốc tế có cái
nhìn bao quát và toàn diện hơn vấn đề này. Để từ đó hiểu được sự cần thiết
như thế nào trong việc kế thừa qua sự phân tích về các nước đã áp dụng chế
định kế thừa.
• Phân tích và làm rõ các vấn đề liên quan giúp các nhà lập pháp hoàn thiện
vấn đề này hơn.
• Đồng thời qua sự nghiên cứu tìm tòi tài liệu và phân tich các tài liệu đã tìm
được, thì hơn ai hết chúng tôi đã tự trang bị, bổ sung cho mình một lượng

kiến thức không nhỏ về “vấn đề kế thừa quốc gia” nhằm hoàn thiện khối
kiến thức cho môn hoc Luật quốc tế để chuẩn bị cho các kì thi cuối kì và
có thể vận dụng tốt những kiến thức đó phục vụ cho công việc sau này.
Bên cạnh đó cũng giúp bản thân tự rèn luyện các kĩ năng tìm kiếm, chọn
3
chọc tài liệu và đăc biệt là kĩ năng viết bài luận phục vụ cho các đề tài tiếp
theo.
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ KẾ THỪA
QUỐC GIA
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ THỪA QUỐC GIA.
1.Khái niệm và giải thích một số thuật ngữ:
Kế thừa : theo từ điển Từ và Ngữ tiếng Việt của GS.Nguyễn Lân thì kế nghĩa
là kết nối, thừa nghĩa là tiếp theo. Vì vậy, kế thừa có nghĩa là thừa hưởng những gì
mà chủ thể trước để lại cho thế hệ sau. Cần phân biệt kế thừa với thừa kế trong
luật dân sự, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản từ người chết sang người sống.
Quốc gia: cho tới thời điểm hiện nay, chưa có định nghĩa thống nhất trên bình
diện quốc tế về quốc gia. Tuy vậy, có những tiêu chí được thừa nhận rộng rãi hiện
nay được quy định ở điều 1, Công ước Montevideo 1993 về quyền và nghĩa vụ
quốc gia thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có bốn
yếu tố cơ bản sau: dân cư thường xuyên, lãnh thổ được xác định, chính phủ, năng
lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác. ( Giáo trình luật quốc tế
ĐH luật quốc gia Hà Nội)
Trong khoa học luật quốc tế đã có nhiều định nghĩa không hoàn toàn giống
nhau về sự kế thừa trong luật quốc tế. Trong hai Công ước Viên về quyền kế thừa
của quốc gia do Ủy ban luật quốc tế của LHQ soạn thảo và vừa được ký kết mới
đây, có định nghĩa:
“Sự kế thừa của quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ sự thay thế của quốc gia
này cho một quốc gia khác trong việc gánh chịu trách nhiệm về quan hệ quốc tế
đối với lãnh thổ nào đó”. Hiểu một cách đơn giản thì kế thừa quốc gia là sự dịch
chuyển quyền và nghĩa vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác.

Định nghĩa này không bao gồm sự kế thừa về tài sản quốc gia, quốc tịch, điều
ước quốc tế hay quy chế thành viên của tổ chức quốc tế của quốc gia để lại kế
thừa…
Trong từ điển ngoại giao của Liên Xô cũ xuất bản năm 1973, có định nghĩa:
“Sự kế thừa quốc gia là sự dịch chuyển các quyền và nghĩa vụ của một quốc gia
4
này cho một quốc gia khác”. Trong nhiều tài liệu nghiên cứu về kế thừa của quốc
gia cũng có những định nghĩa mang nội dung tương tự.
Những cơ sở làm phát sinh sự kế thừa :Sự xuất hiện trên trường
quốc tế những quốc gia mới, có sự chuyển một bộ phận lãnh thổ từ quốc gia này
cho một quốc gia khác.
Các yếu tố của quan hệ kế thừa quốc gia
• Chủ thể tham gia quan hệ kế thừa: là các quốc gia, các quốc gia này được
phân thành quốc gia để lại kế thừa và quốc gia kế thừa.
• Đối tượng kế thừa (khách thể của kế thừa): là các quyền và nghĩa vụ quốc tế,
trong đó bao gồm những đối tượng quan trọng là lãnh thổ, tài sản quốc gia,
quốc tịch, điều ước quốc tế, quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế.
• Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền kế thừa quốc gia: đó là những
biến cố chính trị lớn lao xảy ra hợp với quy luật khách quan của xã hội, đáp
ứng những yêu cầu của luật quốc tế hiện đại, đặc biệt là nguyên tắc dân tộc
tự quyết.các sự kiện đó bao gồm cuộc cách mạng xã hội; phong trào giải
phóng dân tộc; khi có sự chia, tách của một quốc gia hoặc nhiều quốc gia
hợp nhất, sáp nhập thành một quốc gia.
2.Các điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ kế thừa quốc gia: Ủy ban pháp
luật quốc tế (ILC) thỏa thuận về kế thừa quốc gia theo bốn nhóm:
• Công ước Viên 1978 về kế thừa của các quốc gia đối với các điều ước quốc
tế.
• Công ước Viên 1983 về kế thừa tài sản, hồ sơ lưu trữ và công nợ quốc gia.
• Thành viên tổ chức quốc tế: Báo cáo viên của ILC kết luận rằng vấn đề này
không thích hợp cho việc xây dựng luật. Các báo cáo viên đề nghị một bản

báo cáo cung cấp những minh họa về việc giải quyết các loại khác nhau của
vấn đề.
• Về quốc tịch: các báo cáo viên cũng không tìm thấy bất cứ triển vọng nào về
việc soạn thảo luật và đề nghị bản báo cáo hoặc dự thảo luật Đại hội đồng
LHQ tuyên bố thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu.
5
II. SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA DO KẾT QUẢ CỦA GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC
1.Vấn đề kế thừa quốc gia sau khi giải phóng dân tộc
Sau cách mạng giải phóng dân tộc, quốc gia mới thành lập trước
đây vốn là thuộc địa hoặc lãnh thổ lệ thuộc của quốc gia khác giờ
là một quốc gia độc lập. Quốc gia để lại kế thừa vẫn tồn tại và vẫn
là chủ thể của luật quốc tế, các quyền và nghĩa vụ quốc tế của quốc
gia này vẫn được duy trì tại quốc gia mới thành lập trong một thời
gian nhất định trừ những quyền và nghĩa vụ có liên quan đến địa vị
pháp lý của chính quốc gia để lại kế thừa trong quan hệ qua lại với
quốc gia kế thừa. Trong quan hệ quốc tế, quốc gia kế thừa có địa vị
pháp lý bình đẳng với quốc gia để lại kế thừa.
• Về lãnh thổ, tài sản:
Quốc gia kế thừa sẽ kế thừa toàn bộ lãnh thổ và tài sản của
mình, bao gồm tài sản ở nước ngoài có được từ nguồn gốc của tài
sản trong nước mà trong quá trình xâm lược quốc gia để lại kế thừa
có được.
• Về điều ước quốc tế:
Theo luật quốc tế, quốc gia mới thành lập không nhất thiết phải
tôn trọng các điều ước quốc tế đang có hiệu lực vào thời điểm kế
thừa tại lãnh thổ quốc gia mới, vì quốc gia độc lập không tham gia
vào việc ký kết điều ước quốc tế, quốc gia để lại kế tha mới là chủ
thể phải thực hiện điều ước đó.Vấn đề này được quy định ở phần
III điều 15,16, 30, trong Công ước Viên 1978. Đối với điều ước

6
quốc tế chưa có hiệu lực thì không nhất thiết phải thực hiện nếu
cảm thấy bất lợi cho quốc gia mình.
Nếu quốc gia kế thừa muốn tham gia vào điều ước quốc tế
nhiều bên không hạn chế số lượng thành viên thì có thể thiết lập
quy chế quốc gia để tham gia vào điều ước đó. Đối với điều ước
quốc tế nhiều bên có hạn chế số lượng thành viên thì quốc gia kế
thừa được tham gia khi tất cả các quốc gia thành viên của điều ước
đó đồng ý.
Đối với điều ước song phương đang có hiệu lực tại thời điểm kế
thừa có thể có hiệu lực với quốc gia mới nếu các bên có thỏa thuận
với nhau về điều ước đó một cách cụ thể .
Trong một số trường hợp, quốc gia kế thừa đã ký kết những điều
ước đặc biệt với quốc gia để lại kế thừa để giải quyết vấn đề cụ thể
về kế thừa giữa hai quốc gia.Trong nhiều điều ước loại này có ghi
nhận việc quốc gia mới thành lập sẽ kế thừa tất cả những điều ước
còn hiệu lực thi hành do quốc gia để lại quyền kế thừa đã ký kết
với nước khác về lãnh thổ vốn là thuộc địa hoặc lệ thuộc đó.
• Về quốc tịch: công dân của quốc gia sẽ kế thừa sẽ mang quốc tịch
củaquốc gia mình.
• Về quy chế thành viên: Hiện nay chưa có điều ước nào quy định cụ
thể vấn đề này.Thực tế hiện nay LHQ đã chấp nhận kết nạp các
quốc gia mới giành được độc lập làm thành viên như Zimbabue
(25-08-1980), Đông Timor (2002), Serbia (2000), Montenegro
(2006), Lithuania (1991)…
Ý nghĩa của kế thừa quốc gia sau cách mạng giải phóng dân tộc: tạo điều
kiện tốt về chính trị, ngoại giao, kinh tế cho quốc gia kế thừa. Tạo ra
sự công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia. Đây là bước đệm quan
7
trọng để quốc gia mới thành lập được gia nhập các tổ chức quốc tế,

tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sau này của quốc gia đó.
2.Ví dụ tiêu biểu: như trường hợp giữa Anh và Xri Lanca. Sau khi
giành được độc lập từ tay thực dân Anh, XriLanca đã ký hiệp định với
Anh vào ngày 11/11/1947 thỏa thuận
+ Về điều ước quốc te như sau: “ Tất cả những nghĩa vụ và trách
nhiệm từ trước tới nay thuộc chính phủ Liên hiệp Vương quốc Anh
phát sinh từ bất kỳ điều ước quốc tế hiện hành nào, từ nay trở đi sẽ
chuyển cho chính phủ XriLanca bởi lẽ chúng có thể áp dụng cho
XriLanca. Những quyền và ưu đãi tương trợ nhau từ trước đến nay
đã được Chính Phủ Vương Quốc liên hiệp sử dụng sẽ được Chính
phủ Xri Lanca sử dụng từ nay trở đi nhờ có sự áp dụng bất cứ điều
ước quốc tế nào nói trên” (theo Hiệp định ngày 11-11-1947 giữa
Anh và Xri Lanca).
+ Về quy chế thành viên: sau khi giành độc lập thì Xri Lanca trở
thành thành viên của Liên Hợp Quốc ngày 14/12/1955.
III. KẾ THỪA QUỐC GIA SAU CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1.Khái quát chung về tình hình kế thừa quốc gia sau cách mạng xã
hội:
Một tiền đề nữa của kế thừa quốc gia đó là cách mạng xã hội. Cách
mạng là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt ( Hồ Chí
Minh) hay cách mạng là cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức nhằm lật
đổ nền thống trị của giai cấp áp bức, phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, xây
dựng một chế độ mới tiến bộ hơn ( Nguyễn Lân-Từ điển Từ và Ngữ
Tiếng Việt). Vậy có thể hiểu cuộc cách mạng xã hội là cuộc cách mạng
làm thay đổi chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang
tay giai cấp cách mạng.Cách mạng xã hội tại các nước không phải là
8
thuộc địa thường giữ lại được đơn vị lãnh thổ-dân cư đó với những đặc
tính giai cấp của một kiểu quốc gia khác với kiểu quốc gia đã tồn tại
trước cách mạng.Vậy nên nhà nước mới ra đời sau cuộc cách mang xã

hội không những tồn tại và phát triển trên cái mới mà còn có sự kế thừa
những cái tốt và những thành quả của nhà nước cũ. Để hiểu kĩ hơn về
vấn đề này, chúng ta sẽ xét một vài cuộc cách mang trên trên thế giới để
thấy được sự kế thừa quốc gia.Điển hình là cuộc cách mạng tháng 10
Nga, cuộc cách mạng xã hội của các nước Hồi Giáo,Cách mạng Minh
Trị ở Nhật Bản…
2.Một số quốc gia trên thế giới áp dụng kế thừa quốc gia sau cách mạng
xã hội:
2.1.Cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917:
Đến cuối thế kỉ 17, nước Nga Sa Hoàng vẫn còn rất lạc hậu so với
các nước phương Tây khác. Không kể Hà Lan và Anh đã thực hiện cách
mạng tư sản mà các nước quân chủ chuyên chế phương Tây khác nhất là
Pháp, đã và đang là những quốc gia hùng cường.
Còn nước Nga thì chỉ đầu thế kỷ 18 , khi Piotr I lên ngôi Hoàng đế,
trước những đòi hỏi bức xúc từ nhu cầu phát triển của đất nước, bắt đầu
đề ra và thực hiện thanh công một số cải cách trong đường lối chính sách
đối nội, đối ngoại, mới bước ra vũ đài quốc tế với tư cách một cường
quốc. Từ đó cho đến nửa đầu thế kỷ 19, nước Nga tuy không giữ địa vị
thống soái ở châu Âu, nhưng là một trong những quốc gia có tiếng nói
quyết định trong các vấn đề quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, về kinh tế, nhìn chung nước Nga vẫn còn rất lạc hậu. Cho
đến trước Thế chiến I, nước Nga với diện tích và dân số lớn nhất trong
số 8 cường quốc thế giới: Anh, Pháp, Nga, Đức, Áo, Hung, Italia, Mỹ và
Nhật, lại chỉ chiếm vị trí cuối cùng về tỷ lệ dân số thành thị trong tổng
dân số và mức độ công nghiệp hóa tính theo đầu người. Năm 1861, nước
9
Nga mới xóa bỏ chế độ nông nô, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển cả ở thành thị lẫn nông thôn. Song về tổng quan, nếu như phần lãnh
thổ thuộc châu Âu của nước Nga đã chuyển mạnh sang con đường phát
triển TBCN, thì phần lãnh thổ rộng lớn thuộc châu A', ngoại trừ các

thành phố lớn vẫn duy trì quan hệ sản xuất phong kiến với nền kinh tế
du mục. Do vậy, nước Nga trước cách mạng tháng Mười là mắt xích yếu
nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa thế giới , trong khi chế độ quân
chủ chuyên chế Sa hoàng vẫn là thành luỹ của các thế lực quí tộc phong
kiến.
Cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công. Đối với nước Nga, đó là
cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối với dân tộc thuộc địa trong đế quốc
Nga thì đó còn là cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc .Cách mạng tháng
10 thành công đã dẫn đến sự ra đời của liên Bang Cộng hoà xã hội Xô
Viết (1922), đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bi áp bức
và làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa
phương tây và ở các nước phương đông có quan hệ mật thiết với nhau
trong việc chống lại kẻ thù chung là chủ nghia đế quốc.Vậy sau cuộc
cách mạng, nước Nga đã kế thừa những gì?
+ về điều ước quốc tế: Chính phủ Xô viết đã gửi cho nhân dân
Mông Cổ và Chính phủ Ngoại Mông một bức công hàm với nội dung:
"Chính phủ Xô viết một lần nữa trịnh trọng tuyên bố rằng: nhân dân Nga
từ bỏ mọi hiệp ước mà Nga hoàng trước đây đã ký kết với chính phủ
Nhật và Trung Hoa về Mông Cổ. Mông Cổ ngày nay là một nước độc
lập. Đối với bọn cố vấn, bọn lãnh sự của Nga hoàng, bọn tài phiệt Nga,
phải đuổi cổ chúng ra khỏi đất Mông Cổ. Mọi quyền bính ở Mông Cổ
đều phải thuộc về tay nhân dân Mông Cổ. Không một nước ngoài nào
được can thiệp vào nội trị của Mông Cổ. Hiệp ước Nga - Mông năm
1913 đã bị thủ tiêu. Mông Cổ, một quốc gia độc lập, có quyền ngoại
giao trực tiếp với tất cả các nước khác, không cần có sự đỡ đầu hay
trung gian nào của Bắc Kinh hay Pêtơrơgrát."
10
Bên cạnh đó Chính phủ Nga xô viêt lại tôn trọng tất cả các quy
định trong các điều ước quốc tế về biên giới,các công ước nhân đạo,
công ước toàn thế giới về thư tín, viễn thông năm 1874.

+về lãnh thổ và dân cư: kế thừa toàn bộ lãnh thổ dân cư của chế độ
cũ nhưng mang những đặc tính khác của chế độ mới thành lập. Hay nói
cách khác thì phần lãnh thổ, dân cư không thay đổi sau cuộc cách mạng.
+ Về tài sản: Nhà nước xô viết đã tuyên bố quyền kế thừa tất yếu
của mình đối với tất cả tài sản của nước Nga cũ, không kể tài sản đó
đang ở đâu và kế thừa tất cả những thành quả lao động của nhân dân
nước mình làm ra.
+Về quy chế thành viên: nước Nga là thành viên của hội đồng
bảo an liên hợp quốc, sau cách mạng vẫn giữ nguyên tư cách thành viên.
2.2 Cuộc cách mạng Hồi giáo Iran:
Là cuộc cách mạng đưa Iran từ chế độ quân chủ do Shah
mohammad Reza Pahlavi đứng đầu thành quốc gia cộng hoà Hồi
Giáo(1/4/1979) dưới sự lãnh đạo của Ayatollah Ruhollah Khomeini. Nó
được coi là cuộc cách mạng vĩ đại thứ ba sau cuộc cách mạng Pháp và
Cách Mạng Tháng 10 Nga.Vậy Iran đã kế thừa những gì sau cuôc cách
mạng vĩ đại ấy?
+ về lãnh thổ:Trước đây đã có sự tranh cãi về nguồn gốc các tên gọi của
thực thể -Iran và Persia(Ba Tư).Ngày 21 tháng 3 năm 1935, Reza Shah
Pahlavi đưa ra một nghị định yêu cầu các phái đoàn nước ngoài phải sử
dung thuật ngữ Iran trong các văn bản ngoại giao. Nhưng sau khi bị
phản đối thì năm 1959 lại đưa ra thông báo là cả hai cái tên Iran và
Persia(Ba Tư) đều sử dụng thay thế cho nhau được. Cuộc Cách mạng
1979 dẫn tới việc thành lập Nhà nước thần quyền Hồi giáo Iran.Như vật
11
cái tên Iran tiếp tục được sử dụng và toàn bộ lãnh thổ được kế thừa, cụ
thể:
Iran có chung biên giói với Azerbaijan và Armenia ở phía tây bắc, với
biển Caspia ở phía bắc, Pakistan và Afghanistan ở phía đông, Thổ Nhĩ
Kì và Iraq ó phía Tây và cuối cùng là giáp với vịnh Pec xích và Vịnh
Oman ở phía nam.

+ Về tài sản:
Những công trình từ triều đại Pahlavi được cộng hoà Iran kế thừa, bảo
vệ và phát triển chẳng hạn: đường sắt, ngân hàng Ba Tư, trường dại học
Tehran, các nhà máy: xi măng, đường, dệt.
+ Về quy chế thành viên:
Gia nhập Liên Hiệp Quốc vào 24/10/1945 và là thành viên đồng sáng
lập. Vi trí áy tiếp tục được duy trì sau Cách mạng 1979 và cho đến ngày
nay
Iran lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 4/8/1973.Cách mạng
Thành công, quan hệ song phương hai nước vẫn phát triển tốt đẹp bền
vững cho đến ngày nay thông qua các hiệp định, thoả thuận về kinh tế,
văn hoá, lãnh sự….
3. Đánh giá:
Như vậy xét về mặt lãnh thổ, tài sản quốc gia mới kế thừa toàn bộ của
quốc gia cũ, quốc tịch của công dân không thay đổi. Còn lại điều ước
quốc tế và quy chế thành viên, có hai quan điểm. Cuộc cách mạng xã hội
trong một quốc gia chỉ làm thay đổi căn bản trong đời sống kinh tế xã
hội của quốc gia đó, không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ quốc gia trên
trường quốc tế nên vấn đề kế thừa quốc gia không đặt ra. Quan điểm thứ
12
hai cho rằng cách mạng xã hội cho ra đời quốc gia mới là chủ thể của
luật quốc tế khác về chất so với chủ thể cũ, do đó sẽ có kế thừa quốc gia.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, vì quốc gia mới với thiết chế
chính trị mới lên cầm quyền khác với thiết chế chính trị cũ về đương lối,
chính sách đối nội đối ngoại và mong muốn làm cho quốc gia mình sẽ
phát triển, tiến bộ nên quốc gia đó không có nghĩa vụ phải công nhận
những quyền và nghĩa vụ của quốc gia cũ gây cản trở cho sự phát triển
của quốc gia của mình , đồng thời có quyền quyết định việc quốc gia đó
có tiếp tục là thành viên của tổ chức quốc tế nào đó nữa hay không hoặc
có tiếp tục tham gia điều ước hay không mà không phải chịu sự ràng

buộc của các chủ thể còn lại khi không ảnh hưởng lớn đến lợi ích các
chủ thể đó.
IV. SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA KHI MỘT QUỐC GIA TÁCH
THÀNH NHIỀU QUỐC GIA.
1. Vấn đề đặt ra khi một quốc gia tách ra thành nhiều quốc gia
Trong quá trình tồn tại và phát triển của liên bang không tránh khỏi
những mâu thuẫn, xung đột ý chí giữa các quốc gia thành viên trong
việc phân chia lợi ích, về đường lối phát triển của liên bang, các thành
viên trong liên bang hoặc muốn lợi ích nghiêng về mình nhiều hơn hoặc
do phân biệt đối xử, xung đột sắc tộc, thiếu dân chủ…và gây ra những
cuộc tranh cãi lớn giữa các thành viên dẫn đến việc tách Liên Bang
thành các quốc gia độc lập.
• Về lãnh thổ : Khi quốc gia kế thừa được tách từ quốc gia Liên bang
thì lãnh thổ của quốc gia kế thừa là toàn bộ lãnh thổ của quốc gia
đó trước khi hợp nhất. Trường hợp tách quốc gia từ một bộ phận
của quốc gia độc lập thì thông qua Điều ước quốc tế của quốc gia
13
để lại kế thừa và quốc gia nhận kế thừa để xác định biên giới lãnh
thổ.
• Về quốc tịch : trường hợp chia quốc gia thì trở về quốc tịch ban đầu
trước khi hợp nhất; trường hợp tách quốc gia từ một bộ phận của
quốc gia khác thì người dân của quốc gia nhận kế thừa có quyền
lựa chọn quốc tịch mới của quốc gia đó hoặc giữ nguyên quốc tịch
của quốc gia để lại kế thừa.
• Về tài sản : thường chia theo tỷ lệ được ghi nhận trong văn kiện.
Thông thường các vấn đề cụ thể trong giải quyết khối tài sản của
quốc gia Liên Bang phải được đặt ra tại Hội nghị các quốc gia
thành viên liên quan và phải được ấn định rõ trong văn kiện chính
thức giữa các quốc gia thành viên liên bang trên cơ sở cân nhắc
đến tỷ lệ dân cư, hoàn cảnh địa lí, điều kiện phát triển kinh tế và

một số cơ sở khác.Tài sản là bất động sản đang ở lãnh thổ nào thì
thuộc quốc gia đó, những tài sản nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia
kế thừa được phân chia theo tỷ lệ hợp lí.
• Về điều ước quốc tế : khi một quốc gia liên bang tách thành nhiều
quốc gia thì các điều ước quốc tế do quốc gia liên bang ký kết với
nước ngoài, nếu chúng đang có hiệu lực và nếu các quốc gia có
thỏa thuận như vậy thì vẫn tiếp tục có hiêu lực thi hành đối với các
quốc gia có quyền kế thừa điều ước nói trên.
*Trường hợp tách quốc gia thì quốc gia nhận kế thừa có quyền
thực hiện hoặc không thực hiện. Ngoại lệ cho cả hai trường hợp
này là các điều ước quốc tế mâu thuẫn với mục đích, nguyên tắc cơ
bản của quốc gia mới thành lập hoặc những điều kiện, hoàn cảnh
thiết để các điều ước nói trên có hiệu lực đã thay đổi hoàn toàn.
• Quy chế thành viên thành viên tại tổ chức quốc tế: Đương nhiên
trở thành thành viên của các tổ chức đó. Tách quốc gia thì không
14
đương nhiên trở thành thành viên mà phải được kết nạp mới trở
thành thành viên.
• Một số ví dụ về việc tách quốc gia thành nhiều quốc gia:
Liên bang Tiệp Khắc tách thành Cộng Hòa Sec và Slovakia, sự tan rã
của Liên Xô thành các quốc gia độc lập…
Liên bang Tiệp Khắc tách ra thành 2 quốc gia là Cộng hòa Séc và
Slovakia
• Về lãnh thổ : Trước đây Cộng Hòa Séc và Slovakia là 2 nước
độc lập sau đó hợp nhất lại và trở thành 2 bang trong Liên bang
Tiệp Khắc, và sau khi tách ra thì trở thành hai quốc gia độc lập, kế
thừa toàn bộ lãnh thổ cũ trước đây cụ thể là:
Cộng Hòa Séc: là một quốc gia thuộc khu vực Trung Âu và không giáp
biển. Cộng Hòa Séc giáp Ba Lan về phia Bắc, giáp Đức về phía Tây,
giáp Áo về phía tây và giáp Slovakia về phía đông.

Cộng hòa Slovakia: nằm ở Trung Đông Âu, đông giáp Ukraina, Tây giáp
Công Hòa Séc, nam giáp Hungari và Áo, bắc giáp Ba Lan.
• Về tài sản : hầu hết các tài sản của liên bang đều chia theo tỷ lệ
2:1 (tỷ lệ giữa dân Séc và Slovakia) bao gồm trang thiết bị quân
đội, đường sắt, máy bay chở khách.
• Về quốc tịch : Công dân của Séc và Slovakia có thể chọn quốc
tịch mà họ muốn.
• Về điều ước quốc tế : kế thừa các điều ước quốc tế cũng như
các quan hệ của liên bang Tiệp Khắc cũ như Séc và Việt Nam đã
ký Hiệp định thư về kế thừa các điều ước quốc tế trước đây giữa
Việt Nam Và Tiệp Khắc. Slovakia và Việt Nam thỏa thuận tiếp tục
15
thực hiện một số hiệp định ký từ thời Slovakia còn là liên bang của
Tiệp Khắc.
• Về quy chế thành viên : Sau khi trở lại thành quốc gia độc
lập năm 1993, Cộng hòa Séc giữ nguyên cờ của liên bang Tiệp
Khắc làm cờ của Cộng hòa Séc và là thành viên của Liên hợp
Quốc.
**Ví dụ về kế thừa khi một bộ phận của quốc gia tách ra thành một
quốc gia độc lập:
• Nhìn chung bình diện về thế giới hiện nay còn nhiều biến đổi, đặc
biệt là về nền độc lập của các quốc gia.Ví dụ điển hình là trường
hợp Đông Timor tách ra từ Indonesia vào năm 2002
• Về lãnh thổ : Đông Timor trước đây là một bột phận lãnh thổ
của Indonesia, được tách ra thành quốc gia độc lập vào ngày 20
tháng 5 năm 2002, bao gồm nửa phía đông của đảo Timor, những
đảo lân cận của Atauro va Jaco, một phần phía tây bắc của đảo,
trong Tây Timor của Indonesia.
• Về quốc tịch : người dân Đông Timor có quyền giữ nguyên
quốc tịch Indonesia hay đổi thành quốc tịch Đông Timor nhưng

không đươc giữ cả hai quốc tịch. Tuy nhiên, trên thực tế người dân
Đông Timor đa số theo đạo Hồi, chưa có quốc tịch.
• Về tài sản : hai nước sẽ thỏa thuận với nhau về vấn đề tài sản.
• Về quy chế thành viên : không đương nhiên là thành viên của
các tổ chức mà Indonesia là thành viên như LHQ, ASEAN. Hiện
nay Đông Timor đang xin gia nhập ASEAN.
16
• Về điều ước quốc tế: Đông timo có quyền thực hiện hoặc
không thực hiện những điều ước mà Indonesia đã ký kết trước đây.
V. SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA SAU KHI HỢP NHẤT, SÁP NHẬP
1. Hợp nhất
• Lãnh thổ: quốc gia kế thừa sẽ kế thừa toàn bộ của lãnh thổ của
quốc gia để lại kế thừa. Do vậy dù hợp nhất hay sáp nhập lãnh thổ
đều dẫn tới hệ quả là quốc gia kế thừa có lãnh thổ lớn hơn các
quốc gia ban đầu.
• Quốc tịch: công dân của quốc gia liên bang có quốc tịch liên bang
và một số trường hợp có quốc tịch theo bang của mình.
• Điều ước quốc tế
• Đối với điều ước quốc tế do các quốc gia độc lập đã ký
kết với nước ngoài đang có hiệu lực thi hành thì nếu điều
ước quốc tế đó phù hợp với tôn chỉ hoạt động, mục đích,
định hướng phát triển của liên bang thì sẽ có hiệu lực
trên toàn liên bang, nếu mâu thuẫn hoặc điều kiện thực
hiện điều ước đã thay đổi hoàn toàn do do kết quả của
việc hợp nhất, sáp nhập hay kết quả của những hoàn cảnh
khách quan ngoài ý muốn của các bên thì các điều ước
quốc tế đó chỉ có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ của bang,
nhưng nếu các bang còn lại đồng ý thì các điều ước trên
vẫn được thực hiện trên toàn liên bang.
• Điều ước quốc tế đã được ít nhất một bang kí kết nhưng

chưa phát sinh hiệu lực vào thời điểm kế thừa thì quốc gia
có quyền kế thừa sẽ thiết lập cho mình một quy chế quốc
gia mới kí kết điều ước quốc tế nói trên.
17
• Quy chế thành viên
Quốc gia mới thành lập có thể trở thành thành viên của tổ chức quốc tế.
Ví dụ quốc gia mới do hợp nhất đều có quyền kế thừa quy chế thành
viên tại LHQ, điển hình là trường hợp nhất Xiry và Ai Cập thành Cộng
hòa Ả Rập thống nhất trong những năm 1958 - 1961. Năm 1958, Cộng
hòa Ả Rập thống nhất tuyên bố quốc gia Ả rập thống nhất sẽ là thành
viên thống nhất cho Xiry và Ai Cập tại LHQ ( trước đây Xiry và Ai Cập
là hai thành viên độc lập và bình đẳng của LHQ )
• Về tài sản: quốc gia kế thừa có quyền kế thừa tất cả tài sản của
quốc gia thành viên liên bang, các quốc gia để lại kế thừa.
Ví dụ điển hình cho trường hợp hợp nhất là Hợp chủng quốc Hoa kỳ,
một Cộng hòa lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và một đặc khu
liên bang. Quốc gia này được thành lập ban đầu với 13 thuộc địa của
vương quốc Anh nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Sau khi tự
tuyên bố trở thành các “tiểu quốc”, cả 13 cựu thuộc địa đã đưa ra
tuyên ngôn độc lập vào ngày 4/7/1776 và sau đó là sự chấp thuận
“Những điều khoản liên hiệp với điều khoản đầu tiên được phát biểu
“Tên gọi Liên bang này sẽ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”. Đa số các
tiểu bang còn lại đã được thành lập từ những lãnh thổ chiếm được qua
chiến tranh hay được chính phủ Hoa Kỳ mua lại. Lãnh thổ của Hoa
Kỳ là do kế thừa lại toàn bộ lãnh thổ của 13 cựu thuộc địa trước đây
và các tiểu bang còn lại. Người dân Hoa Kỳ có 2 quốc tịch là 1 quốc
tịch của bang và 1 quốc tịch của liên bang. Hội nghị liên bang quyết
định sử dụng bản hiến pháp Hoa Kỳ hiện tại vào 17/9/1789. Việc
thông qua bản hiến pháp một năm sau đó đã biến các cựu thuộc địa
trở thành một phần của một nước cộng hòa duy nhất.

Tương tự như Hoa kỳ thì các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
được thành lập gồm Adu Dhabi, Dubai, Shariah, Umm Al-Qaiwam,
18
Aiman và Fuiairah vào 2/2/1971. Đến 2/1972, Ras Al-Khaimah gia nhập
nhà nước liên bang này.
2. Sáp nhập
• Quốc tịch: công dân của quốc gia bị sáp nhập sẽ mang quốc tịch
của quốc gia nhận sáp nhập.
• Điều ước quốc tế: điều ước quốc tế do quốc gia sáp nhập kí kết sẽ
chấm dứt hiệu lực và tuân theo điều ước quốc tế do quốc gia nhận
sáp nhập kí kết ( trừ điều ước quốc tế liên quan đến lãnh thổ).
• Quy chế thành viên của tổ chức quốc tế: quốc gia bị sáp nhập sẽ
theo quy chế thành viên của quốc gia nhận sáp nhập.
Ví dụ cho trường hợp sáp nhập là Cộng hòa Liên bang Đức. Theo điều
20 của Hiến pháp Đức thì Cộng hòa Liên bang Đức là một quốc gia dân
chủ, xã hội và có pháp quyền. Nước Đức có 16 bang. Nước Đức ngày
nay vốn là sáp nhập của Cộng hòa Dân chủ Đức vào Cộng hòa liên bang
Đức. Ngày 23/8/2989 Quốc hội Đông Đức quyết định rằng lãnh thổ của
quốc gia này sẽ được đặt dưới hệ thống pháp luật của Cộng hòa Liên
bang Đức kể từ ngày 3/10/1990. Trước đó Cộng hòa Liên bang là thành
viên của Hội đồng Châu Âu từ năm 1950, tham gia Hiệp ước Rome năm
1957 và là thành viên của khối NATO từ năm 1955. Vậy khi sáp nhập
vào Tây Đức thì Đông Đức mặc nhiên tham gia vào các tổ chức này và
cũng không có quyền tham gia hay không.
Ví dụ thứ hai là trường hợp Hồng Kông, Ma Cao đã sáp nhập vào Trung
Quốc. Hồng Công 1997, Ma Cao 1999. Sau khi hai vùng lãnh thổ này
được sáp nhập thì công dân ở hai vùng lãnh thổ này mang quốc tịch
Trung Quốc; lãnh thổ của Hồng Công và Ma cao trước đây giờ là lãnh
thổ Trung Quốc, các điều ước quốc tế của quốc gia sáp nhập chấm dứt
19

hiệu lực và tuân theo điều ước quốc tế mà trung Quốc đã kí kết; tài sản
của hai quốc gia này đều trở thành tài sản của Trung Quốc.
Chương II Vấn đề kế thừa của Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay
Trong tiến trình lịch sử từ đầu thế kỷ XX đến nay, việc kế thừa được đặt
ra ở hai mốc lịch sử quan trọng, đó là vào năm 1945 và 1975.
• Sự kế thừa quốc gia sau khi Việt Nam giành được độc lập vào năm
1945 :
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là một sự kiện lịch sử trọng
đại, một biến cố vĩ đại. Dân tộc Việt Nam một lúc thực hiện hai sứ mệnh
lịch sử đó là đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời làm cuộc cách
mạng xã hội lật đổ chế độ phong kiến đã tồn tại hơn 1000 năm. Ngày
02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng
trường Ba Ðình (Hà Nội), khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần
100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh
đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng
hòa”. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có quyền kế thừa quốc gia theo
những quy chế pháp lý quốc tế. Cụ thể:
Về lãnh thổ, quốc tịch:
Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa kế thừa toàn bộ lãnh thổ và
quốc tịch của nước Việt Nam trước đây.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã đánh đổ chế độ thực dân đô
hộ gần một thế kỷ của Pháp đối với Việt Nam nhưng trên thực tế, lực
lượng cách mạng đã giành được chính quyền từ tay Nhật, vì trước đó
Nhật đã đảo chính, thay thế Pháp ở Đông Dương. Mặt khác với tính chất
là một cuộc cách mạng chuyển từ chế độ quân chủ sang chế độ dân chủ,
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hoàn toàn có chủ quyền đối với phần lãnh
thổ của triều đình phong kiến khi vua Bảo Đại thoái vị, trao quốc tín lại
cho Việt Minh.
Về tài sản : Kế thừa toàn bộ tài sản trong phạm vi lãnh thổ khi

giành độc lập, và tài sản ở nước ngoài có nguồn gốc từ Việt Nam.
20
Khi đánh đuổi được thực dân đô hộ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
kế thừa toàn bộ tài sản còn lại trong phạm vi lãnh thổ là thuộc địa mà
không được đòi Pháp phải trả lại những gì mà Pháp đã khai thác, lấy đi
của Việt Nam trong thời gian đô hộ. Đồng thời Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa kế thừa toàn bộ tài sản trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của
triều đình phong kiến và tài sản ở nước ngoài có nguồn gốc từ lãnh thổ
này.
Vấn đề tài sản được nói đến trong Sắc lệnh của chủ tịch nước số
ngày 3 tháng 10 năm 1945 - Chủ tịch lâm thời chính phủ Dân chủ Cộng
hòa Việt Nam: “Nay bãi bỏ tất cả các công sở và các cơ quan trước
thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương (các Sở lớn chung cho toàn hạt
Đông Dương và các Sở phụ thuộc Phủ Toàn quyền) đã thiết lập hoặc ở
Hà Nội, hoặc ở Sài Gòn, hoặc ở Đà Lạt, hoặc ở các nơi khác thuộc địa
hạt Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ nước Việt Nam.
Những bất động sản và động sản (dinh thự, nhà cửa, của cải, đồ
đạc, hàng hoá, khí cụ, tài liệu, đồ dùng phòng giấy, v.v ) của tất cả
những công sở kể trên đều phải giữ nguyên vẹn và chuyển giao, cùng
với những nhân viên hiện tòng sự tại đấy, sang các Bộ của Chính phủ
lâm thời Việt Nam…”
Trên thực tế, khi rút quân khỏi Việt Nam quân Pháp đã phá hoại
nhiều công trình, tài sản quan trọng. Chẳng hạn, khi lực lượng cách
mạng vào tiếp quản Ngân hàng thì chỉ còn 1 triệu đồng tiền Đông
Dương rách nát.
Điều ước quốc tế: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nêu quan điểm
chính thức của mình về các điều ước đang có hiệu lực vào thời điểm kế
thừa với tư cách là một quốc gia vừa mới giành độc lập, đó là trong
Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, có ghi: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm
thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam,

tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp
trên đất nước Việt Nam”.
21
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng từ chối các quyền và nghĩa vụ
của nhà nước phong kiến trước đó vì nó mâu thuẫn với bản chất của nhà
nước mới. Tuy nhiên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn tôn trong các
qui định trong các điều ước về lãnh thổ.

• Sự kế thừa quốc gia sau khi giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước năm 1975 :
Lực lượng cách mạng Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ
cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và sự chi viện của Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc đã tiến hành thành công cuộc cách
mạng xã hội, thay thế chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lên nắm chính
quyền ở Miền Nam Việt Nam. Sau đó ngày 2 tháng 7 năm 1976, Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tự giải tán và
chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra
đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia
Việt Nam thống nhất. Lúc này vấn đề kế thừa cũng được đặt ra cho Việt
Nam.Việt Nam đứng trên quan điểm là không kế thừa bất kỳ điều ước
quốc tế nào do quốc gia đô hộ trước đây hoặc do quốc gia đô hộ dựng
lên, ngoại trừ các điều ước quốc tế có lợi cho quốc gia.
Về lãnh thổ:
Năm 1955, trong một cuộc trưng cầu dân ý, thủ tướng Ngô Đình
Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt
Nam Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa có 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
Như vậy trước tiên Việt Nam cộng hòa kế thừa toàn bộ lãnh thổ từ Quốc
Gia Việt Nam ở miền Nam Việt Nam.
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã kế thừa toàn bộ lãnh thổ miền

nam Việt Nam từ Việt Nam Cộng Hòa và sau đó hợp nhất với Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa. Do vậy CHXHCNN Việt Nam được kế thừa toàn
bộ lãnh thổ từ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam kể từ tháng 11 năm 1975.
22
Trong vấn đề về lãnh thổ chúng tôi đặc biệt chú ý đến vấn đề liên
quan đến vùng biển Việt Nam, một vấn đề đã và đang có nhiều tranh
chấp, đặc biệt là liên quan đến chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngoài các lập luận pháp lý trong pháp luật quốc tế về chủ quyền
lãnh thổ cũng như luật biển quốc tế mà hai bên đã sử dụng đề chứng tỏ
chủ quyền trên hai quần đảo này thì chúng tôi muốn thông qua những
qui định của luật quốc tế về kế thừa quốc gia để phân tích, làm rõ chủ
quyền thực sự của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
• Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
Hoàn cảnh lịch sử bắt đầu từ năm 1909 khi chính quyền tỉnh
Quảng Đông, Trung Hoa cho rằng Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ,
nên đã có hành động khảo sát, chiếm hữu và đã không gặp bất cứ phản
ứng nào của Việt Nam vì Việt Nam lúc bấy giờ đã bị mất chủ quyền
ngoại giao vào tay người Pháp
Sau đó vào năm 1938 và 1939, Nhật đã chiếm Hoàng Sa và
Trường Sa để làm bàn đạp chiếm Đông Dương trước khi bùng nổ thế
chiến thứ hai. Nhưng do thất bại nặng nề nên lúc này quân Pháp vẫn làm
chủ Biển Đông, đồng thời xây dựng chính quyền bù nhìn - quốc gia Việt
Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng, đã thâu hồi và thực thi chủ quyền
nhân danh Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt, tình hình trên thế giới có
nhiều biến động, khiến các nước Trung Quốc, Đài Loan, Philippines
trong bối cảnh chiến tranh lạnh đã vội vã chiếm cứ một số đảo tại Hoàng
Sa và Trường Sa, tranh chấp với Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam dưới
vĩ tuyến 17, được Mỹ bảo trợ.

Đến năm 1974, lợi dụng việc quân đội Mỹ đã rút quân, hải quân
Trung Quốc đã sử dụng vũ lực, loại quân đội của chính quyền Việt Nam
23
Cộng hoà ra khỏi quần đảo Hoàng Sa, và năm 1988, đổ bộ lên một số
hòn đảo của quần đảo Trường Sa.
Như vậy, qua quá trình lịch sử trên đây, chúng ta có thể khẳng định
Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, dựa trên các lý do
sau đây:
Thứ nhất, Trung Quốc không những không đưa ra được những
chứng cớ lịch sử về liên hệ chủ quyền với hai quần đảo mà còn không
đưa ra được dấu vết nào chứng tỏ sự phản đối của Trung Quốc về sự thụ
đắc chủ quyền của các vua chúa Việt Nam trong suốt thế kỷ XVIII và
nhất là thế kỷ XIX khi các triều vua Việt Nam tổ chức việc khai thác có
hệ thống các quần đảo dưới quyền tài phán của mình. Cho tới thời kỳ
Pháp đô hộ Việt Nam, với hiệp ước bảo hộ năm 1884, ta có thể kết luận:
“Việt Nam đã giữ chủ quyền không có cạnh tranh trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với hệ thống pháp lý của thời ấy, suốt
trong gần hai thế kỷ”.
Thứ hai, trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách là quốc gia kế
thừa, rõ ràng Pháp không hề khước từ chủ quyền trên hai quần đảo, tiếp
tục khẳng định quan hệ chủ quyền và phản đối những yêu sách của
Trung Quốc. Sau đó Chính quyền Việt Nam cộng hòa tiếp nối nhà nước
của thực dân Pháp - vốn là đại diện cho triều đình nhà Nguyễn quản lý
liên tục và khai thác Hoàng Sa và Trường Sa. Sau 1975, Chính phủ cách
mạng lâm thời miền Nam Việt Nam kế thừa chủ quyền trên hai quần đảo
này và cũng chưa bao giờ tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc về
Trung Quốc. Năm 1975, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được kế thừa toàn bộ lãnh thổ từ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, trong
đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Như thế, dựa trên thuyết "liên tục quốc gia" thì chủ quyền của Việt

Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa liên tục từ nhiều thế kỷ trước, tính từ
đời chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn, thực dân Pháp cho đến thời
24
Việt Nam cộng hòa, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và hiện nay là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, việc can thiệp bằng vũ lực của Trung Quốc năm 1974 chỉ
mang tính nhất thời và vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của luật quốc
tế. Những hành động chiếm đóng các hải đảo bằng vũ lực là một sự vi
phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc mà Điều 2 đoạn 4 cấm sử
dụng vũ lực để xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia.
Quyết nghị số 2625 ngày 24-10-1970 sau khi đã nhắc lại rằng mọi
sự chiếm hữu đất đai là bất hợp pháp đã quy định: “Mọi quốc gia có
nghĩa vụ phải tránh sử dụng sự đe doạ hoặc sử dụng vũ lực để vi phạm
biên giới quốc tế hiện hữu của một quốc gia khác, như một phương tiện
để giải quyết những tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất
đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”.
• Lập luận của Trung Quốc
Trong quá trình đàm phán để giải quyết tranh chấp, phía Trung
Quốc đã đưa ra một số luận điểm để khẳng định Việt Nam đã “khước từ
chủ quyền” trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó chính là bức
Công hàm của Nguyên cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958
nhân dịp Trung Quốc công bố quyết định ngày 04-9-1958 nới rộng vùng
lãnh hải của họ ra 12 hải lý và chỉ định rõ là quyết định liên quan đến
lãnh hải của lục địa Trung Quốc và tất cả các hải đảo thuộc Trung Quốc
trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa.
Bỏ qua các lí lẽ khác chúng tôi chỉ dựa trên nguyên tắc về kế thừa
quốc gia để giải thích vấn đề này.
Sau Hiệp định Genève, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ
kiểm soát phần lãnh thổ trên vĩ tuyến 17, phần lãnh thổ miền Nam trong
đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó hoàn toàn do chính

quyền Sài Gòn kiểm soát. Đây là trường hợp thông qua một điều ước
quốc tế là Hiệp định Genève, nước Việt Nam tuy là tạm thời nhưng vẫn
được xem là đã tách làm hai. Do đó, áp dụng căn cứ kế thừa quốc gia từ
25

×