Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tìm hiểu thơ thiền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.18 KB, 5 trang )

Tìm hiểu thơ Thiền Việt Nam hiện đại
Thơ Thiền Việt Nam - một bộ phận không thể tách rời của cơ thể, của mái
nhà văn học Việt Nam. Thơ Thiền Việt Nam hiện đại tiếp tục phát triển trên cơ sở
hào quang của thơ Thiền trung đại và môi trường văn hóa hiện đại. Nếu Nho giáo
Bắc và Nam truyền - hình thành trường phái thơ Nho trong một số nước châu Á,
giới hạn thời gian tồn tại là đầu thế kỷ XX; thì thơ Thiền xuất phát từ Ấn Độ định
hình ở Trung Hoa, ngày càng hội nhập vào văn hóa nhân loại (không gian), hiện
đại hóa (thời gian).
Thiền học trong xu thế hiện đại, toàn cầu hóa
Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Thiền học từng bước được giới thiệu ở Phương
Tây. Trong đó phải kể đến công sức của D.T. Suzuki (1870-1966)… Nhiều nhân vật
có tên tuổi của phương Tây đã tiếp xúc văn hóa Thiền với nhiều phương thức,
nhiều cấp độ khác nhau: F.W. Niezthts, S. Kiekegaard, R. Martino, Allen Ginsberg,
C.G. Jung, Erich Fromm, R.H. Blyth, Thomas Erton, J.D. Salinger, Jack Kerouac,
Hubert Benoit, Alan W. Watts, Paul Demieville, Albert Shweitzer, Joseph Goldstein,
Herbert Benson,…
Cơ chế của sự tiếp xúc cơ bản này là sự hội nhập văn hóa và có sự gần gũi của
một số quan điểm triết học phương Tây và văn hóa Phật giáo nói chung. Chính
Hajime Nakamura đã nhận định về hai trung tâm văn hóa triết học: “Ấn Độ và Hy
Lạp đã gặp nhau trong những vấn đề cơ bản”. Một số quan niệm có thể thông cảm
được với nhau qua từng cặp đối sánh (thường hai quan niệm đối sánh tương ứng
có thể có độ sâu rộng khác nhau), ví dụ: “Bản thể luận” tương đối có vẻ gần với
“Chân Như”. “Hiện tượng Luận”, “Tâm Phân Học” thông cảm được với “Duy Thức
Học”. “Quan niệm Hiện Sinh” có thể dùng khái niệm “Hiện tại của thực tại dưới cái
nhìn thiền quán” để diễn tả. Lối “Tự động viết” khá gần với trường hợp “Quán các
Tâm hành” (Quán dòng tư tưởng). Khái niệm Cá biệt thể (Individuation) có thể
được cảm nhận qua “Con người tự tại Phương Đông”. Theo Carl Jung, quá trình cá
nhân hóa - individualization - không phải là chủ nghĩa cá nhân mà là sự mở rộng
của ý thức cá nhân, “hòa nhập giữa ý thức và vô thức, hay nói đúng hơn, sự đồng
hóa cái tôi vào một nhân cách rộng lớn hơn”. Theo E. Fromm, đó “là sự phá vỡ cá
thể và hợp nhất ở tất cả”.


Đặc biệt về phương diện nghệ thuật, Stephen Addiss đã xác định lại sự gần gũi
mang tính chuẩn bị của văn hóa Đông - Tây: “Những trào lưu như trường phái
Biểu hiện, Trừu tượng, Hội họa Hành động và trường phái nghệ thuật Khái niệm
đã có những chuẩn bị cho người phương Tây đến với tính đơn giản gợi cảm của
loại hình hội họa và thư pháp này (nghệ thuật Thiền)”- (Nghệ thuật Zen… tr.20).
Kết quả của sự giao lưu là nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu về
Thiền, các bài thơ Thiền phương Tây: Bài “Nhập thiền” của Allen Ginsberg, bài “Xe
lớn xe nhỏ" của Tom Savage, bài “Đoá hoa” của Tenyson… Ngoài ra, nếu theo
quan điểm cực đoan của R.B. Blyth - thiên về góc độ “thực nghiệm” (Practical) của
Thiền làm tiêu chuẩn, thì ta có thể thấy chất “Thiền” dung dị đó man mác trong
các tác phẩm của Henley, Christ, Macbeth… Điều đó cũng không khác mấy so với
yếu tố thiền trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Ngô Thì Ức, Mạc
Thiên Tích, Lê Quí Đôn, Nguyễn Công Trứ…
Thơ Thiền Việt Nam từng bước đi đến hiện đại
Thơ Thiền đã từng sáng chói vào thời Đường Tống ở Trung Hoa, từ thế kỷ XIII liên
tục về sau ở Nhật, thời Lý - Trần ở nước ta. Nhưng chịu ảnh hưởng của nhiều lớp
sóng văn hóa phương Tây, thơ ThiềnViệt Nam từng bước chuyển mình, hiện đại
hóa, khẳng định tính trường sinh của trường phái.
Thơ Thiền Việt Nam trung đại thuộc về các tác giả - các thiền sư của các thiền
phái: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử… mà đỉnh
cao có thể kể là Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 - 1290). Từ đầu thế kỷ XI- nửa đầu
thế kỷ XIV có thể nói là thời cực thịnh của thơ Thiền Việt Nam. Nhưng đến giữa
thế kỷ XV, trước sự phát triển và xâm lấn của Nho học, Thiền học rút lui về thôn
dã chung sống với Phật giáo dân gian và khối hỗn hợp thiền - Tịnh - Mật. Từ đây,
tác phẩm thơ thiền không nhiều, những bài thơ xuất sắc càng hiếm.
Từ đời Lê đến Nguyễn, hơn năm thế kỷ chỉ tuyển chọn được một số ít thơ Thiền
tiêu biểu. Theo Nguyễn Thanh Hùng (Thơ Thiền Việt Nam - những vấn đề lịch sử
và tư tưởng nghệ thuật - NXB - ĐHQG - H 1998). Đời Lê: Một số ít tác phẩm của
Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Hòang Nam Kim… Đời Mạc: Tác giả Nguyễn Bỉnh
Khiêm… Đời Lê Trung Hưng: Các tác giả Phùng Khắc Khoan, Minh Hành, Minh

Lượng, Nguyên Thiều, Hương Hải, Thạch Liêm, Thủy Nguyệt, Tông Diễn, Chân
Nguyên, Pháp Bảo, Hưng Long, Như Trừng, Liễu Quán, Ngô Thì Ức, Mạc Thiên
Tích, Ninh Tốn, Ngô Thì Nhậm, Tịch Truyền, Đạo Nguyên, Thanh Đàm, Thanh
Nguyên, Phan Huy Ích… Đời Nguyễn: Các tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Phổ Tịnh, Thông Vinh, Minh Giác, Viên Quang…
Đầu thế kỷ XX, các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Trọng Kim… đã có những thiện cảm đáng kể với Thiền học… Kế đó phong trào
Chấn hưng Phật giáo đã lan từ Trung Hoa đến Việt Nam. Nhiều hội Phật giáo được
thành lập… Nhìn chung, đến những năm 1930-1945, ta thấy phong cách thơ Thiền
chưa có cách tân gì đáng kể.
Các bài thơ của thiền sư thế hệ Phổ Huệ (Bình Định), Tịnh Trai (Vĩnh Long), Tâm
Tịnh (Huế), Giác Tiên (Huế), Tâm Minh (Huế), Viên Thành (Huế)… vẫn chưa thấy
dấu hiệu của tính hiện đại. Ta không khó tìm ra những bài hay nhưng về ngôn
ngữ, thể cách… vẫn thuộc hệ hình cũ. Trong thời gian này, thơ ca Việt Nam đã và
đang diễn ra sự tranh chấp giữa Thơ Mới và Thơ Cũ. Thơ Mới đã chiến thắng với
nhiều thành tựu của “Phong trào thơ mới”. Ngay trong bản thân các nhà Thơ Mới,
một số tứ thơ phảng phất hương vị Thiền. “Tình rộng quá đời không biên giới nữa”
(Tình tự - Huy Cận) hay “Cửa thiền một đóng duyên trần dứt” (Bến giác - J. Lei
Ba). Sau năm 1945, nhiều hội, trung tâm Phật giáo được thành lập, chấn hưng.
Báo chí Phật giáo phát triển nhất là ở Trung, Nam. Nhiều thi ca mang âm hưởng
Thiền được đăng trên các tạp chí Viên Âm, Bồ Đề, Từ Quang, Hoằng Pháp, Hải
Triều Âm… Thơ Thiền tiếp xúc với văn hóa phương Tây, tiếp tục phát huy những
kinh nghiệm về mặt kỹ thuật của Thơ Mới.
Ngay cả có trường hợp nhà thơ mới giai đoạn sau chịu ảnh hưởng Thiền như
trường hơp Vũ Hoàng Chương… Các bài thơ: “Tiếng địch chiều thu” (1949), “Xuân
vô ý” (1950), “Mùa xuân cũ” (1950) của Nguyễn Lang ảnh hưởng Thơ Mới khá rõ.
Những năm 60 ở miền Nam, thơ Thiền đã dần dần tiếp cận sinh khí phương Tây
và hiện đại hóa. Song song với nhạc Trịnh Công Sơn là thơ Bùi Giáng, Phạm Thiên
Thư, Phạm Công Thiện…
Thơ Thiền hiện đại đi bên cạnh dòng thơ phản chiến. Trong khi nhà thơ sống trong

không gian mới: “Nhân gian chợt nhớ chợt quên có mình”, “Hư vô một sắc sáng
ngời tâm tư” thì bất chợt “Giật mình tiếng súng xa đưa, Miền quê chẳng có gió
mưa mà buồn” ("Phút giây bên núi” - Giản Chi) (1970).
Cuối thế kỷ XX, Thiền Việt Nam tập trung quanh các thiền sư : Thanh Từ, Duy Lực,
Nguyễn Lang… Các thiền sư này cùng với các thiền sư, thiền sinh, văn nghệ sĩ
khác đã tạo ảnh hưởng cũng như cho ra đời nhiều bài thơ Thiền hiện đại cho đến
đầu thế kỷ XXI.
Một số đặc điểm thơ Thiền Việt Nam hiện đại
Thể cách thơ Thiền Việt Nam hiện đại không còn bó buộc hòan toàn bởi các thể
thơ cổ Trung Hoa, Việt Nam; không nhất thiết có vần đối nghiêm chỉnh như thơ
Thiền trung đại. Phong cách thơ cũng có nhiều thay đổi theo xu thế hiện đại hóa.
Ta vẫn còn gặp một số mô thức truyền thống: thơ bát cú, tứ tuyệt, lục bát (có
biến thể), nhưng nói chung vẫn mang phong cách hiện đại: “Cảm ơn một kiếp làm
người, Cho ta học một nụ cười khai thông” (Cảm ơn cuộc đời - Tiểu Viên). Thơ
Trần Tịnh Yên có những dòng hai chữ vốn được cắt ra từ câu sáu của thơ lục bát,
rơi rụng như những phím nhạc êm dịu:
"Thiền khuya
Hương Bối
Theo dòng”.
(Thiền khuya)
Thể thơ bảy chữ truyền thống được vận dụng, làm mới nhưng đôi khi vẫn sử dụng
âm Hán Việt trong bài thơ “Trúc Lâm Nhật” (Bạch Phát Hài Nhi - Thiền sinh): “Như
hà Phật Pháp hưu tuân vấn, Hỗ phản bích tùng đa cánh đa” (Sao là Phật pháp,
thôi thưa hỏi, Thông biếc lưng đồi có thiếu chi). Thơ vận dụng mỹ học của vô ngôn
như là một trong các phương thức biểu hiện thiền lý. Một số trường hợp vẫn còn
sử dụng tứ thơ cổ như thơ “Trúc Lâm Thiền viện” - (Thanh Trúc - Thiền sinh):
“Mạt hậu giáo nhơn vô nhất pháp, Tùy duyên vô sự tự viên thành…” (Sau rốt dạy
người không một pháp, Tùy duyên vô sự tự viên thành…). Lời thơ như nhắc nhở
sự tồn tại của Thiền học trong huyết mạch của thi ca. Thơ bảy chữ vẫn được sử
dụng nhiều, có khi dùng để tán tụng, để ghi nhận một quá trình phấn đấu đạt đến

đỉnh cao thiền học. Đó là sự bùng vỡ, đột phá: “Bùng vỡ thân tâm, ồ ảo diệu, Vượt
ngoài sanh tử nhẹ mây trôi” (Khuya trên bến Ni Liên - Nguyễn Đức). Thơ bảy chữ
có thể chuyển tải cảm giác mới lạ tuy vẫn còn phảng phất truyền thống nhưng rất
táo bạo và pha lẫn một chút hài hước. Giọng điệu khí phách và âm hưởng Thiền
học thời Lý Trần vẫn được tiếp nối không gián đoạn: “Thân không, tâm trụi vô gia
nghiệp; Giẫm nát càn khôn bặt dấu hài” (Bất khả thuyết - Nguyệt Hạ - Thiền sinh).
Đôi lúc thơ dùng đến tám chữ, âm điệu êm ái nhẹ nhàng nhưng thông thóang và
đầy sức sống: “Kìa khoảnh khắc vi trần sa đại địa, Nhẹ lời ru suối nhạc ánh trăng
khuya” (Khoảnh khắc vi trần - Như Giải.)

Thể thơ văn xuôi cũng thường thấy trong mạch thơ Thiền hiện đại, nó gần với
lối “Tự động viết”: “những con kiến có cánh đã bay đâu mất, bước chân một người
ướt mưa dưới kia lệch nhệch trên sân đất . Không vui, không buồn, không yêu,
không ghét …” (“Mặt trời không bao giờ có thật” - Phạm Công Thiện). Ngôn ngữ
thơ có sự chen vào của những khái niệm chưa từng có ở truyền thống mà tồn tại
trong văn hóa phương Tây. Bài thơ của Minh Trang dùng nhiều chất liệu ngôn ngữ
truyền thống:
"Về xem trăng ngả màu thiền
Nhịp chài vô thức động miền tịch hư
Nguyệt tà vẽ bóng chân như
Tình em lá nõn về từ mùa xuân"
Nhưng bài thơ này mang tựa đề: “Mái chèo vô thức”. “Vô thức” thuộc về trường
phái Tâm phân học, được dùng dể chuyên chở cảm giác của Từ Thức - một Từ
Thức mới. Cảm giác đó tương tự cảm nhận thanh thóat của Thiền định.
Có lúc những khái niệm thông dụng trong thơ Thiền truyền thống vẫn còn sử dụng
một cách mới mẻ:
"Tâm không - diệu dụng
Bất lập nhị nguyên
Duyên lành tỏa khắp
Rong chơi cõi Thiền".

(“Trà Thiền”- Tuệ Thiền)
Khái niệm Tâm không, Diệu dụng, Duyên… Là những khái niệm truyền thống, tuy
nhiên “Nhị nguyên” đã là một khái niệm mới… Thơ Thiền hiện đại lưu giữ những
câu thơ trung đại xen lẫn với ngôn ngữ hiện đại, nhịp điệu hiện đại, vì vậy có khi
không khí cổ kính vẫn còn trong môi trường hiện đại và cả đương đại:
"Tập thành vô tận vô ngần hướng
Vô ý vô tâm tạc mộng trường”.
(“Một bóng siêu nhân”- Bùi Giáng).
Thơ Thiền truyền thống chủ yếu tả cái tôi trữ tình trực tiếp, Thơ hiện đại có khi
xuất hiện nhân vật thứ hai, chủ thể phân ra thành Chủ thể - Đối tượng, Người với
Ta. Khi chia tay với Thiền sư Thanh Từ, Thiền sư Nguyễn Lang đề lên vách Thiền
Duyệt thất: “Tan biến dòng sanh tử, Duy còn người với ta”.
Nhân vật “Em” Xuất hiện giữa mơ màng giữa “bụi đỏ”, “phù vân” để cho: “Anh
theo lối cỏ ngàn xưa ấy, Khuất giữa phù vân, khuất tuổi tên” (Theo dấu mục đồng
- Nguyễn Văn Anh). Đọc bài thơ ta có cảm giác như cùng đi một đoạn đường trong
Thập mục ngưu đồ. Phải chăng “Em” là “Ta” không ngụy trang. Em có thể là tinh
túy, là chân như, cùng Tôi trong sự thẩm thấu tương nhập: “Tôi biết là em còn đó,
vì tôi còn đây… Diệu hữu ca lời chân không mầu nhiệm” (“Vòng tay nhận thức” -
Nguyễn Lang). Thơ Thiền hệ hình mới không ngại nói đến tình yêu, nói đến người
em của tình yêu. “Ta yêu người ngây dại, Yêu người là yêu tôi” (“Rớt rơi” - Nguyễn
Hoàng Kiên Nhật). Tình yêu ở đây mãnh liệt, chủ thể và đối tượng là một. Nó có
sự cách tân từ tục ngữ Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”. Nói đến
kỷ niệm đầu: “Dường như môi của non ngàn, Đặt lên vạn đại nụ hôn ban đầu”
(Pháp Hoa - Miên Long). Phong cách đó không thể có trong thơ Thiền trung đại.
Hình bóng “Em” như gần như xa: “Em từ rửa mặt chân như, Nghiêng soi hạt nước
mời hư không về” (Đoạn trường vô thanh - Phạm Thiên Thư). Thơ thiền hiện đại
cũng không e ngại Phiền muộn, Khổ đau (phiền não). Khía cạnh này tuy gần với
dòng thơ phản chiến đô thị, nhưng nó khác với mô hình này.
"Phải chăng còn tiếng đàn xưa vọng
Réo rắt luân hồi ở cõi sau

Mong ta hóa kiếp làm mây trắng
Bay giữa tầng cao thóat nẻo sầu”.
(Mộng chiều thu - Lê Trọng Minh)
Trong muôn vạn bài thơ Thiền hiện đại do nhiều tác giả “mười phương”, không
phân biệt thành phần, nghề nghiệp,… nên khó lấy thước đo về chất lượng nghệ
thuật, hoặc thước đo về trình độ nhận thức Thiền để thẩm định. Có thể sự phức
tạp đó một phần do thơ Thiền có phương thức sáng tác riêng, tương đối độc lập.
Nếu lấy tiêu chuẩn nghệ thuật thông thường để thẩm định thì có thể ta đánh giá
cao những bài thơ của các thiền giả tài tử, chưa thật sâu sắc về Thiền. Ngược lại,
nếu lấy cuộc đời tác giả và kinh nghiệm thiền để thẩm định thì có khi những thiền
sư thật sự không chú trọng mấy tới cái đẹp hoa mỹ.
Hiện trạng phức tạp trong thẩm định có thể bớt đi nếu ta xếp nội dung thơ vào hai
loại: Một loại xuất phát từ cái đẹp bản chất, Thể, Tánh,… đi đến cái đẹp hiện
tượng (Tướng, Dụng…). Một loại đi ngược lại từ cái đẹp hiện tượng… đến cái đẹp
bản chất… Hai loại này thẩm thấu vào nhau, cùng tồn tại cho nhau. Có thể nói thơ
thiền hiện đại biểu hiện cho một thực tại, có thực tại bị chia cắt nhưng có thực tại
không bị chia cắt. Thơ thiền đem lại cho người đọc những cảm giác không giống
nhau ở mỗi nguời, nhưng thông thường khuynh hướng chung là đem lại sự thoải
mái nhẹ nhàng…
Sự khác nhau chủ yếu ở hai loại hình thơ Thiền - trung và hiện đại chủ yếu là sự
khác nhau của hai hình thái quan niệm và hai phương thức tư duy. Từ cùng một
cội nguồn tư tưởng, thơ Thiền trung đại có hệ thống quan niệm và phương thức tư
duy cổ mang nặng ảnh hưởng Trung Hoa; thơ Thiền hiện đại có quan niệm và
phương thức tư duy thơ mới - hiện đại, gần với phương thức tư duy của dân tộc,
nhưng ít nhiều chịu ảnh hưởng vào những quan niệm về giá trị và ngôn ngữ
phương Tây… Mỗi hình thức thơ Thiền mang đến người đọc một thú vị riêng. Thơ
Thiền hiện đại có sự tổ chức ngôn ngữ thoải mái; ít thành ngữ, điển tích, Phật tích.
Cảm giác thanh thản là cảm giác thường gặp trong thơ Thiền, đó là tác dụng của
cái vô dụng trong thơ…
Huỳnh Quán Chi

×