Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chính sách dân số của Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.43 KB, 17 trang )

CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CỦA TRUNG QUỐC
1.CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
1.1 Quan niệm về dân số
Có nhiều khái niệm liên quan đến vấn đề dân số, tùy theo quan điểm tiếp
cận. Sau đây là một số khái niệm :
+ Chính sách dân số là những biện pháp, pháp chế các chương trình
quản lí và các hoạt động khác của chính phủ nhằm mục tiêu thay đổi hay sửa
đổi các xu hướng dân số hiện hành vì tiến bộ xã hội
+ Chính sách dân số là những giải pháp các chương trình nhằm đạt
được mục tiêu về dân số, kinh tế xã hội, chính trị và các mục tiêu khác
thông qua các biến dân số: quy mô, tốc độ gia tăng dân số, phân bố dân cư,
và các đặc trưng nhân khẩu khác.
+ Chính sách dân số là sự nổ lực có suy tính của chính phủ nhằm tác
động đến 3 biến dân số: sinh, tử, chuyển cư.
+ Chính sách dân số bao gồm những luật phối hợp với nhau nhằm đạt
được các mục tiêu của dân số học.
Như vậy các định nghĩa trên đều có đặc điểm chung:
+ Được chính phủ đưa ra dưới dạng quan điểm, lập trường hay các
đạo luật.
+ Chính sách dân số phải bao gồm các sự kiện lien quan đến dân số:
sinh, tử, chuyển cư
+ Có các mục tiêu, kết quả cần đạt tới, có biện pháp chương trình
nhằm thay đổi các sự kiện dân số.
1.2 Phân loại chính sách dân số
Tùy theo đặc điểm, tình hình dân số mà mỗi quốc gia tự quyết định,
đưa ra những chính sách dân số cho phù hợp. Có hai loại chính sách dân số
chủ yếu là:
a. Chính sách khuyến khích sinh
Khuyến khích các cặp vợ chồng sinh nhiều con để tăng tốc độ gia tăng
dân số. Chính sách này xuất hiện rất sớm, từ thời Ai Cập cổ đại. Đặc biệt sau
chiến tranh thế giới thứ hai, sau khi quy mô dân số châu Âu bị giảm đia rất


nhiều. hiện nay chính sách này phổ biến ở các nước có dân số già như Nhật
Bản, Pháp, Đức, Thụy Điển….
Ngay cả việt nam cũng có thời kì này, đó là vào những năm chiến tranh
chống Pháp, Mĩ đặc biệt là sau nạn đói năm 1945.
Theo Thomlison có 3 biện pháp để khuyến khích sinh có hiệu quả:
+ Tăng cường, khuyến khích sinh bằng cách giảm hoặc loại trừ các
nghĩa vụ khi sinh con.
1
+ Ở một số quốc gia cần tặng thưởng hoặc cấp bằng khen cho những
cặp vợ chồng sinh con
+ Giảm nhẹ dư luận đối với các bà mẹ sinh con ngoài giá thú
b. Chính sách giảm sinh
Hạn chế mức sinh nhằm đạt được các mục tiêu dân số như mong muốn. có
hai loại
* Gián tiếp: cấp học bổng cho con em của những cặp vợ chồng ít con, trả
tiền cho những người giảm sinh, phạt tiền đối với những cặp vợ chồng sinh
con thứ ba, giảm thời gian nghỉ sinh đối với những phụ nữ sinh con thứ ba.
* chính sách trực tiếp: phát triển và cung cấp các dịch vụ tránh thai, tăng tuổi
kết hôn.
Ngoài các biện pháp trên có thể sử dụng một số biện pháp hỗ trợ khác:
nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội, trong gia đình, thực hiện
quyền bình đẳng giới. phát triển kinh tế làm thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội từ
đó đó làm thay đổi cơ cấu gia đình.
c. Các chính sách tác động giảm mức tử vong
+ Thực hiện các chương trình đưa dịch bệnh ra khỏi cộng đồng.
+ Thực hiện biện pháp nâng cao sức khỏe của người dân, tăng mức
thu nhập, cải thiện đời sống.
+ Cải thiện điều kiện y tế, tăng sức khỏe cộng đồng, đối tượng cần
chú ý là trẻ em dưới 1 tuổi.
+ Loại trừ những rủi ro trong đời sống sản xuất.

d. Chính sách tác động đến di dân
Gồm di dân trong nước và di dân quốc tế.
2. NHIỆM VỤ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
Là bộ phận hữu cơ của các chính sách kinh tế xã hội, chính sách dân số có
những mục tiêu sau:
- Nhiệm vụ chủ yếu của chính sách dân số là điều tiết sự phát triển
dân số hợp lí, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội thông qua
việc điều tiết mức sinh để của dân cư.
- Bằng nhiều phương tiện và biện pháp khác nhau, chính sách dân số
có nhiệm vụ điều chỉnh quá trình di cư, nhập cư, bảo đảm sự phân bố dân
cư, lao động hợp lí, phù hợp với đặc điểm, điều kiện, tình hình phân bố lực
lượng sản xuất từng vùng, từng khu vực, thực hiện quá trình phân bố lại dân
cư, lao động nhằm khai thcas triệt để và có hiệu quả cao các tiềm năng của
đất nước, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng nhanh năng suất
lao động và hiệu quả sản xuất xã hội, không ngừng nâng cao mức sống dân
cư.
2
- Cùng với các chính sách kinh tế- xã hội, chính sách dân số phải có
nhiệm vụ góp phần quan tâm đầy đủ hơn đối với các bà mẹ, trẻ em và người
già tạo ra những điều kiện tối ưu cần thiết để củng cố gia đình. Tác động có
hiệu quả nhằm nâng cao sức khỏe, giảm bệnh tật, giảm tỉ lệ tử vong, nâng
cao tuổi thọ của dân cư.
- Phối hợp với nhiều chính sách và biện pháp khác nhau, chính sách
dân số phải có nhiệm vụ tác động nâng cao không ngừng trình độ văn hóa,
giáo dục, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho dân cư, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của con người một cách toàn diện.
3. ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ KINH TẾ XÃ HỘI TRUNG QUỐC
Trung quốc hiện nay là nước có số dân lớn nhất thế giới hơn 1,3 triệu
người chiếm 20 % dân số của thế giới. theo những số liệu thống kê thì vào
giữa thế kỉ XVIII( 1764) dân số của Trung Quốc mới có 210 triệu người.

gần 100 năm sau, vào giữa thế kỉ XIX ( 1840) con số đó đã tăng lên gấp đôi:
410 triệu người nhưng đến cuối thế kỉ XX thì dân số của Trung Quốc đã
vượt lên con số 1 tỷ.
DÂN SỐ TRUNG QUỐC TỪ 1950 ĐẾN 2005
Đơn vị: triệu người.
1950 1960 1970 1980 1990 2000 2002 2004 2005
500 651 776 950 1.143 1.262,5 1.283 1.300,
1
1.300,6
Mật độ dân số trung bình là 135 ng/km
2
nhưng phân bố trên lãnh thổ
rất không đồng đều. Ở những vùng có địa hình núi và cao nguyên phía Tây (
66% lãnh thổ), dân cư rất thưa thớt ( chỉ chiếm có 33%). Trong khi đó ở
những vùng địa hình thấp phía Đông ( 34% lãnh thổ) lại có tới 67% dân số
cả nước.
Ngay ở trong các miền núi và cao nguyên cũng có sự phân bố không
đều. + Ở Tây Tạng: 1,8 ng/km
2
+ Thanh Hải: 6ng/km
2
+ Tân Cương: 9ng/km
2
+ Vân Nam: 94ng/ km
2
+ Tứ Xuyên và Quý Châu lên tới 180 ng/km
2
Và nơi đông dân cư nhất là các bình nguyên Hoa Bắc, Hoa Trung ( trên
600ng/km
2

) và hoa nam ( 400 ng/km
2
). Đặc biệt đông đúc nhất là các thành
phố lớn: Thượng Hải 2118ng/ km
2
, Bắc Kinh, Thiên Tân.
Trung Quốc là nước có số dân di cư ra nước ngoài nhiều nhất trên thế
giới. họ có mặt hầu hết ở mọi quốc gia nhưng nhiều nhất là khu vực Đông
Nam Á. Hiện nay Trung Quốc có hơn 40 triệu người hoa sinh sống ở nước
3
ngoài, phần lớn họ đi từ các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến. đa số họ là
nguwoif thành công và chiếm lĩnh một số ngành chủ chốt nơi mà họ cư trú.
Đây chính là động lực không nhỏ giúp nền kinh tế Trung Quốc thành công.
Hiện nay do chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nên dòng người từ nước
ngoài và người nước ngoài vào Trung Quốc nhiều hơn đi.
Trung Quốc là một quốc gia đa dân tộc: 56 dân tộc. dân tộc hán có số
người đông nhất chiếm 94% dân số. Mỗi dân tộc mang những nét văn hóa
riêng, kinh nghiệm sản xuất và phương thức sản xuất khác nhau, điều đó tạo
cho Trung Quốc có một nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc dân tộc.
Tỉ lệ dân thành thị là 42% dân số, Trung Quốc có 700 thành phố,
nhiều thành phố trên một triệu dân: Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiên Tân,
Thanh Đảo, Quảng Châu…và 20.600 thành phố nhỏ với tổng số dân ở thành
phố là 520 triệu người.
CẤU TRÚC DÂN SỐ TRUNG QUỐC NĂM 2005
Chỉ số Số liệu vào cuối năm
( vạn người)
Tỉ lệ ( % )
Dân số cả nước 130.756 100
Thành thị
Nông thôn

56.212
74.544
43
57
Nam giới
Nữ giới
67.375
63.381
51,5
48,5
0- 14 tuổi
15- 64 tuổi
65 tuổi trở lên
26.504
954.197
10.055
20,3
72
7,7
4. MỤC TIÊU DÂN SỐ CỦA TRUNG QUỐC
a. Hợp lý về quy mô dân số
Trung Quốc phấn đấu đạt mục tiêu trung hạn từ nay đến năm 2030 ổn
định quy mô dân số ở mức 1,5 tỉ người; Thành phố Nam Kinh tỉ suất sinh là
1,1. Các thành phố hiện đại ở Trung Quốc như Thượng Hải, Thẩm Quyến, tỉ
suất sinh chỉ từ 0,8 đến 1,3 con. Duy trì tỉ suất sinh 1,8 con là một thách thức
lớn của Trung Quốc và chủ yếu phải nhờ sự “điều hoà” từ các tỉnh miền Tây
vì khu vực miền Tây sinh đẻ nhiều hơn khu vực miền Đông.
b. Hợp lý về phân bố dân cư
c. Nâng cao chất lượng dân sốd4. Cân bằng giới tính khi sinh
4

e. Chăm sóc tốt người cao tuổi
5. CÁC CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CỦA TRUNG QUỐC
Độ lớn của dân số nước này không chỉ có những tác động liên
quan đến Trung Quốc mà đến cả thế giới nói chung. Chính sách dân số của
Trung Quốc trong hơn 25 năm qua đã góp phần làm cân bằng sự phát triển,
kéo dài tiến trình dẫn đến mốc giới hạn này thêm được 4 năm. Và nếu không
có sự đóng góp của chính sách một con, dân số thế giới đã có thể tăng lên
đến mức 6 tỷ người chỉ không lâu sau khi loài người bước sang thế kỷ 21.
Theo sự phân tích của các chuyên gia, nếu không có sự can thiệp của Chính
phủ, thì hiện nay dân số Trung Quốc đã có thể vượt quá 1,5 tỷ người. Sự gia
tăng dân số dẫn đến ngày càng vắt kiệt nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và
điều này không chỉ là mối quan tâm của Trung Quốc mà còn của cả thế giới.
Để giải quyết vấn đề này, Hội nghị Quốc tế về Dân số tại Cairo năm
1994 đã đưa ra ý tưởng thực hiện các chính sách về dân số để làm sao cho có
thể duy trì một sự cân bằng giữa sự tăng trưởng dân số thế giới với sự phát
triển kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường.
Dân số Trung Quốc đã tăng mạnh trong giai đoạn những năm 1960 và
1970. Từ năm 1964 đến năm 1974, số công dân của nước này đã tăng với
một con số gây sửng sốt: 300 triệu người. Điều này gây ra những khó khăn
nghiêm trọng bởi sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước không thể đáp
ứng nổi cho số lượng người gia tăng nhanh như vậy. Và nếu tốc độ gia tăng
này không bị kiềm chế, một sự bùng nổ dân số sẽ làm tổn hại đến nền thịnh
vượng của nhiều thế hệ tương lai sau này.
Chính vì vậy mà Trung quốc đã đưa ra rất nhiều chính sách để phát
huy thế mạnh cũng như những hạn chế do dân số đem lại.
5.1. Chính sách một con
Ngay sau khi thành lập nước năm 1949, bộ y tế Trung Quốc đã có cố
gắng giám sát sự gia tăng dân số nhưng cố gắng này chỉ tác động đến số số
sinh. Đầu thập niên 60, tại cuộc vận động đầu tiên, Trung Quốc đã đặt ván
đề hôn nhân muộn (cưới muộn). Năm 1964, ở trung ương và một số địa

phương thành lập văn phòng kiểm soát dân số ( kế hoạch hóa gia đình). Đến
cuộc vận động thứ hai, giai đoạn 1963- 1966 ở thành phố tỉ suất sinh đã
giảm một nữa.
Trong những năm 1972-1973, Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhấn
mạnh việc giám sát dân số, thành lập nhóm công tác trong hội đồng nhà
5
nước. Năm 1973 Mao Trạch Đông đã kí thảo thuận giám sát gia tăng dân số,
thỏa thuận này tiếp tục có giá trị sau khi cả Mao Trạch Đông chết ( 1976).
Giữa thập niên 70 của thế kỉ XX, quy định quy mô gia đình tối đa ở
thành phố là 2 con, ở nông thôn là 3-4 con. Lo ngại trước “làn sóng” sinh đẻ
này, Trung Quốc đưa ra chính sách “một cặp vợ chồng chỉ sinh một con”.
Năm 1984, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra chỉ thị, nêu rõ quan
điểm “ mở cửa nhỏ, đóng cửa lớn”. Các cặp vợ chồng ở nông thôn, nếu sinh
con đầu lòng là gái thì được sinh con thứ 2. Còn ở thành thị mỗi cặp vợ
chồng chỉ được sinh duy nhất một con. Các dân tộc ít người được sinh thêm
con thứ hai hay con thứ ba theo quy định cụ thể.
Chính sách kiểm soát quy mô dân số ở Trung Quốc từ đó đến nay
được thực hiện hết sức nghiêm ngặt, với những quy định chặt chẽ và vận
dụng linh hoạt ở từng địa phương. Hiện nay hầu hết dân cư ở đô thị Trung
Quốc thực hiện chính sách một cặp vợ chồng chỉ sinh một con duy nhất. Các
khu tự trị như Tân Cương được sinh từ 2- 3 con. Riêng Tây Tạng không hạn
chế số con. Đối với các dân tộc thiểu số có số dân dưới 10 triệu người, mỗi
cặp vợ chồng được
sinh từ 2- 3 con.
Mỗi tỉnh ở Trung
Quốc có điều lệ
riêng về sinh đẻ có
kế hoạch. Có tỉnh áp
dụng: Nếu một
trong hai người là

con một thì cặp vợ
chồng đó được sinh
con thứ hai chính
sách mỗi gia đình
chỉ có một con được
thực hiện cho 1,2 tỉ
dân đến năm 2000.
người ta nhận thấy rằng 4 mục tiêu hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ rất ít giá
trị nếu việc gia tăng dân số không được kiểm soát nên chính sách này vẫn
duy trì đến nay.
Chính sách này tác động đến mức sinh rõ rệt và đem lại hiệu quả thiết
thực nhưng đã để lại nhiều hậu quả lớn.
5.2 Xử lí nghiêm những trường hợp vi phạm chính sách dân số
6
Tại Phúc Kiến, với những gia đình vi phạm chính sách dân số sẽ phải
nộp một khoản tiền gọi là “Trưng thu xã hội phụ dưỡng phí”. Đây là số tiền
để sau này chăm sóc cho đứa trẻ được học hành (bởi hiện nay Trung Quốc
đã phổ cập giáo dục hệ 9 năm miễn phí). Mức trưng thu bằng 3 lần thu nhập
bình quân đầu người ở địa phương ấy trong năm trước đó (trước khi xảy ra
hành vi sinh sản không đúng quy định). Mức thu tính cả hai vợ chồng. Với
những gia đình giàu có, sẽ phạt theo mức thu nhập thực tế.
Ví dụ như: Bà Mai ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc có bốn người con
và chỉ con út là trai. Tháng 4-2007, cán bộ kế hoạch hóa gia đình đến nhà bà.
“Tôi từ chối tiếp và đóng cửa lại, nhưng họ đã phá cửa vào nhà”. Bà bị phạt
lần thứ hai với mức 1.500 nhân dân tệ, sau khi bị phạt 200 nhân dân tệ năm
2006. Chồng bà làm việc tại một xưởng gạch và hai vợ chồng bà chỉ kiếm
được mỗi năm khoảng 3.000 nhân dân tệ.
Ngoài việc phạt tiền, những người thực hiện hành vi giúp thai phụ
siêu âm xác định giới tính thai nhi còn bị tịch thu phương tiện Nếu là viên
chức nhà nước sẽ bị cách chức, khai trừ. Vi phạm quá 3 lần sẽ bị khởi tố

hình sự.
Năm 2007 có 40 bác sĩ bị phát giác. Ngoài việc bị đuổi việc, phạt
hành chính, các bác sĩ này còn bị đăng tên, chụp ảnh công bố rộng rãi trên
các phương tiện báo chí truyền thông.
Khi người thầy thuốc thực hiện nạo phá thai, phải có 2 lý do: Thứ nhất
là lý do y tế và thứ 2 là vi phạm chính sách dân số (có xác nhận của cơ quan
dân số) và chỉ cho phép nạo phá thai dưới 14 tuần. Đối với những trường
hợp nạo phá thai vì lý do giới tính, khi bị phát hiện thì người phụ nữ (ở nông
thôn) 5 năm sau mới được sinh nở lần thứ hai.
Với biện pháp này, Trung Quốc đang dần dần khắc phục việc phá thai khi
biết là con gái, dẫn đến sự mất cân bằng giới tính trầm trọng hiện nay của
dân số Trung Quốc.
5.3 Chính sách khen thưởng
Trung Quốc áp dụng nhiều biện pháp như gắn các lợi ích xã hội, lợi
ích kinh tế với việc khuyến khích người dân sinh con gái như phân đất, cải
tạo nhà ở nông thôn, ưu tiên quyền lợi trong học hành, phụ cấp cho cha
mẹ Thưởng tiền cho ai báo tin về những hành vi vi phạm.
Trung Quốcđã áp dụng nhiều chính sách ưu tiên trẻ em gái, học sinh
nữ, nâng cao vị thế của phụ nữ .
7
Các đôi vợ chồng một con nhiều lợi ích thiết thực như: tiền thưởng,
qũy hưu trí và một hệ thống an sinh xã hội tốt hơn.
Nông dân, những người vốn thích con trai hơn con gái, sẽ được hưởng
những chính sách ưu đãi về nhà ở nếu họ thực hiện chính sách một con.
Ngoài ra, họ còn nhận được những thuận lợi khi tìm kiếm việc làm.
Từ 2007, các bậc cha mẹ trên 60 tuổi mà chỉ có một con, hay hai con
gái, sẽ được hưởng trợ cấp 600 Nhân dân tệ, tức khoảng 76 đôla Mỹ, một
năm. Số tiền này tương đương 1/5 thu nhập bình quân cả năm của một nông
dân Trung Quốc.
Hiện nay chính quyền trung ương đang tiến hành một chương trình thí

điểm ở các vùng nông thôn Trung Quốc, trong đó trợ cấp cho mỗi gia đình
có cha mẹ trên 60 tuổi nhưng vẫn chỉ có một con hoặc có 2 con gái là 50
NDT (6 USD) một tháng. Số tiền này nhằm làm giảm bớt nhu cầu có nhiều
con, do những người dân ở các vùng nông thôn thường có xu hướng muốn
có thêm nhiều con để sau này chúng phụng dưỡng cha mẹ già.
5.4 Chính sách đổi hướng và đầu tư cho công tác dân số
Có thể chia làm 3 tầng nấc trong dịch vụ KHHGĐ như sau:
Mức 1: Cung cấp dịch vụ KHHGĐ đơn thuần như đơn thuốc, phẫu
thuật, nạo phá thai, cấp phát thuốc tránh thai, bao cao su
Mức 2: Tổ chức tuyên truyền, giáo dục và đào tạo cán bộ; thông tin tư
vấn bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chữa trị vô sinh và các bệnh lây nhiễm
qua đường tình dục; nâng cao sức khỏe sinh sản cho toàn dân.
Mức 3 (áp dụng từ năm 2006): Thử nghiệm bước đầu tại 2 tỉnh dịch
vụ KHHGĐ tổng hợp. Lấy gia đình làm đơn vị cơ bản. Ngoài các dịch vụ
như mức 2, bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc người già, đặc biệt quan tâm
những người thực hiện chính sách con một nay đã bắt đầu vào tuổi già. Dự
kiến đến năm 2010, mức 3 này sẽ được áp dụng trong toàn quốc.
Mô hình dịch vụ DS - KHHGĐ đi từ hình thức đơn giản như phòng
tránh thai đến mức cao hơn như khống chế mức sinh, nâng cao chất lượng
dân số, chăm sóc sức khỏe toàn dân, tiến tới tổ chức các dịch vụ tổng hợp
chăm sóc sức khỏe gia đình.
8
Hệ thống tổ chức DS – KHHGĐ từ Trung ương đến xã phường, tổ
dân cư, thôn bản ở Trung Quốc là bộ máy quản lý nhà nước khổng lồ với 1,2
triệu cán bộ công chức; 6 triệu người trực tiếp làm công tác dân số (cả cán
bộ trong biên chế nhà nước và ký
hợp đồng lao động); Nếu tính cả
đội ngũ cộng tác viên, cả nước có
94 triệu người tham gia hoạt động
này. Mạng lưới hoạt động trong

lĩnh vực dân số có mặt trên 92%
diện tích đất nước và dịch vụ DS –
KHHGĐ bao phủ 80% lãnh thổ
Trung Quốc. Trong thời gian bùng
nổ dịch SARS ở Trung Quốc, chỉ
có mạng lưới DS – KHHGĐ là
nắm được sâu sát toàn bộ tình hình
dân cư, trong khi lực lượng công
an và hệ thống các bộ, ngành, đoàn
thể khác không thể nào nắm được.
Cũng chính vì vậy mà mạng
lưới DS – KHHGĐ đã trở thành bộ
máy kiểm soát hữu hiệu nhất các
biến động dân số ở Trung Quốc trong tình hình nóng bỏng hiện nay.
Cung cấp dịch vụ KHHGĐ miễn
phí.
5.5 Chính sách đối với số dân di động:
Ngày 1/5/2009 Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã ký ban hành
Điều lệ sinh đẻ có kế hoạch đối với dân số di dộng . Trọng tâm Điều lệ quy
định rõ các vấn đề quản lý và dịch vụ đối với các đối tượng này. Để quản lý
dữ liệu về nhân khẩu và dịch vụ KHHGĐ, Trung Quốc quy định theo dõi rất
chặt chẽ các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ. Khi đi ra khỏi địa phương mình
đăng ký cư trú, phải mang theo chứng minh nhân dân và xác nhận của địa
phương và tình trạng hôn nhân (chồng, con), các chế độ DS – KHHGĐ đã
được thụ hưởng? Ở thành phố, người di cư được quản lý nghiêm ngặt thông
qua các nhà chủ cho thuê phòng trọ. Người cho thuê nhà phải chịu trách
nhiệm trước cơ quan công an và chính quyền địa phương về các đối tượng
thuê phòng như đăng ký tạm trú, trình báo các giấy tờ liên quan đến tình
9
trạng hôn nhân. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, 3 tháng một lần phải đến cơ

quan dịch vụ KHHGĐ khám và tiếp nhận các dịch vụ KHHGĐ.
5.6 Chính sách: “3 có”, “4 đồng” và “1 cơ bản”, “ 3 nhất thể hoá” trong
quản lý dân số di động
- 3 có: Có cơ quan quản lý; Có nhân lực quản lý; Có tài chính để quản lý.
4 đồng: Đồng chính sách quản lý; Đồng dịch vụ KHHGĐ; Đồng chế độ giáo
dục; Đồng kiểm tra kiểm soát. 1 cơ bản: Cơ bản thiết lập các cơ sở pháp lý
quản lý người nhập cư. 3 nhất thể hoá: Thông tin hoá; Quy chuẩn hoá; Pháp
trị hoá, cụ thể là:
- Thông tin hoá: Là mạng lưới kết nối thông tin về dữ liệu người nhập cư
ở nơi thường trú với nơi cư trú, nhằm tổ chức dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
sinh sản tốt hơn; tránh tình trạng sinh thêm con ngoài quy định trong quá
trình di chuyển.
- Quy chuẩn hoá: Là quy chuẩn mạng thông tin; quy chuẩn cách quản lý;
quy chuẩn đội ngũ cán bộ; quy chuẩn cách thức phục vụ người dân; quy
chuẩn hoá các hoạt động nghề nghiệp để người di cư không có cơ hội vi
phạm pháp luật.
- Pháp trị hoá: Tất cả mọi hoạt động xã hội đều thực thi trên cơ sở các
quy phạm pháp luật. Mặc dù có luật chung nhưng mỗi tỉnh lại có một điều lệ
khác nhau. Làm sao để điều lệ không mâu thuẫn với luật mà vẫn thích hợp
với tình hình thực tế địa phương.
5.7 Các chính sách khác
Thứ nhất Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện chính sách “Bốn không đổi”: Dân số là Quốc
sách; người đứng đầu (bí thư, chủ tịch địa phương) phải chịu trách nhiệm chính về công tác dân số; tổ chức
bộ máy không thay đổi; luôn sáng tạo trong hình thức tổ chức công tác dân số. Bên cạnh đó, mặc dù
Trung Quốc cải cách, sáp nhập các
bộ, ngành rất nhiều, nhưng bộ máy
làm công tác dân số không thay đổi.
Chế độ đãi ngộ với những người làm
công tác dân số của họ cũng rất cao.
Thứ hai là, tuyên truyền giáo dục về bình

đẳng nam, nữ; giáo dục
Tại Trung tâm chăm sóc người cao
tuổi
về biện pháp tránh thai; giáo dục về
chính sách của Đảng và Nhà nước,
10
trong đó có những chính sách ưu tiên, ưu đãi để người dân biết và đòi hỏi về
quyền lợi của mình; giáo dục về hôn nhân và sinh đẻ.
Thứ ba là, cung cấp dịch vụ chu đáo và tổng hợp.
Thứ tư là, quan tâm ích lợi của việc sinh đẻ. Trong giải pháp này có 5 chính sách cụ thể. Một là
“làm giàu”. Với những cặp vợ chồng thực hiện đúng chính sách dân số sẽ được ưu tiên vay vốn, phát triển
kinh tế, được nhà nước ưu tiên mua các sản phẩm làm ra. Hai là “an cư”. Nhà nước ưu tiên cho vay tiền
mua, xây nhà. Nếu bị thu hồi đất phục vụ dự án, gia đình nào có 1 con gái sẽ được tính thêm 1 suất đền bù;
ở một số huyện của Phúc Kiến, nhà nước đã xây nhà miễn phí cho những hộ chỉ có 1 hoặc 2 con gái.
Ba là “thành tài”. Hiện ở Trung Quốc, các gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con gái, khi thi
vào cấp III thì được cộng điểm, vào đại học thì được miễn học phí.
Thứ năm là “đảm bảo”. Với những gia đình có 1 – 2 con gái ở nông thôn sẽ được hưởng chế độ bảo
hiểm y tế ưu đãi (các huyện nghèo được miễn phí 100%). Cha mẹ sinh con gái mỗi tháng 80 tệ/người
(khoảng hơn 200.000VND).
Thứ sáu là “tình thương”. Cán bộ công chức tại địa bàn từ cấp phó phòng trở lên phải giúp đỡ gia
đình có con gái ở nông thôn bằng cách nhận các cháu làm con nuôi.
Trung Quốc đã áp dụng chính sách dân số không phải với tất cả các
vùng đều như nhau mà áp dụng riêng cho từng hoàn cảnh. Ngay từ khi bắt
đầu, các nhóm dân tộc thiểu số và người Tibet với dân số không tới 10
triệu người không bị bắt buộc phải tuân theo chính sách kế hoạch hóa gia
đình.
Hiện Trung quốc áp dụng chính sách “một con rưỡi”. Tức là ở thành
phố chỉ được sinh 1 con, ở nông thôn nếu con đầu là gái thì được sinh con
thứ hai, nếu là con trai thì thôi. Một số thành phố hiện nay ở Trung Quốc
đã bắt đầu cho phép sinh con thứ hai tùy thuộc vào từng hoàn cảnh nhất

định với mục đích là để giảm nhẹ áp lực của một xã hội già hóa trong
tương lai. Chính phủ ở Bắc kinh đã áp dụng chính sách này sau nhiều thập
niên dân số tăng mạnh dưới thời Mao Trạch Đông, dựa theo chủ trương gọi
là ‘người đông dễ làm việc’
Như vậy chính sách dân số của Trung Quốc đã chuyển hướng trọng
tâm từ chỗ chỉ chú trọng vào con số sang việc tìm ra các phương thức để
nâng cao đời sống và nhận thức của những người dân, đây cũng là chủ
trương của Hội nghị Dân số Cairo. Kết quả là nhận thức về chính sách này
trongcông chúng đã dần dần tăng lên.
Ngoài ra Trung quốc còn phát triển kinh tế nong thôn theo hướng
công nghiệp hóa nông thôn, xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp nâng cao
đời sống, từ đó làm thay đổi quy mô gia đình nhỏ hơn, tác dụng tăng tuổi
két hôn ở phụ nữ và nam giới, nâng cao mức độ nhận về luật dân số của đất
nước.
11
Giới chức Trung Quốc (26/5/
2009) đã tuyên bố, chính sách 1 con của
nước này sẽ không được áp dụng đối với
các gia đình mà đứa con duy nhất của họ
đã chết, bị thương nặng hay trở thành tàn
tật sau trận động đất khủng khiếp hôm
12/5 vừa qua. Các gia đình này có thể
được cấp một giấy chứng nhận để cho
phép họ có thể có một đứa trẻ khác, Uỷ
ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình tại
Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên cho biết.
4. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
4.1Tác động tích cực
Trong vòng 5 năm qua, Trung Quốc đã thành công trong việc giảm tỷ
lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên từ 14,3 phần ngàn và 7,58 phần

ngàn năm 2000 xuống còn 12,29 phần ngàn và 5,87 phần ngàn năm 2004.
Ví dụ Năm 2005 số người sinh ra là 16,17 triệu người, tỉ suất sinh là
12,4 Ê, số người chết là 8,49 triệu người, tỉ suất tử là 6,51 Ê; tỉ suất gia tăng
tự nhiên là 0,59
Các chuyên gia dân số học ở Trung quốc cho rằng chính sách một con đã
mang lại kết quả rất tốt đẹp –đó là dân số cả nước hiện nay chỉ ở mức 1 tỉ
300 triệu người, thay vì 1 tỉ 700 triệu người nếu không áp dụng chính sách
một con. Theo tường thuật hôm 17 tháng 9 của Tân hoa xã, Trung Quốc hiện
là một trong những nước có sinh suất thấp nhất thế giới – mỗi cặp vợ chồng
bình quân có 1,5 con, thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 5,8 của 30 năm trước.
So với Việt Nam tỉ suất sinh của Trung Quốc đạt 5,92%o (Việt Nam là
17,2%o). Tổng tỉ suất sinh của Trung quốc là 1,5 con, của chúng ta là 2,08
con (số liệu đến năm 2008). Như vậy, Trung Quốc đã đạt dưới mức sinh
thay thế.
Chính sách một con cũng đang thay đổi quan niệm về chữ hiếu. Trước
đây đa số người già Trung Quốc thích được con cháu chăm sóc tại nhà và
những người đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão thường bị xem là bất hiếu.
Nhưng hiện nay nhiều người con một buộc phải chọn giải pháp đưa cha mẹ
vào viện dưỡng lão do không đủ thời gian phụng dưỡng mẹ cha.
4.2.Tác động tiêu cực
12
Nhiều chuyên gia y tế, xã hội và kinh tế ở Trung quốc, cũng như ở các
nước khác, nói rằng chính sách một con đã mang lại nhiều vấn đề xã hội
nghiêm trọng:
a. Nạn phá thai
Những vụ cưỡng bách phá thai hoặc triệt sản xảy ra rất thường xuyên,
đặc biệt là ở vùng nông thôn, nơi mà nhiều viên chức đã áp dụng những biện
pháp quá khích và tàn nhẫn để đạt được chỉ tiêu kế hoạch hóa gia đình. Tin
tức báo chí cho biết: hồi trung tuần tháng 9 vừa qua, giới hữu trách tỉnh Sơn
Đông đã bắt giữ và cách chức nhiều viên chức của thành phố Lâm Yi vì

những người này đã có những hành vi bất hợp pháp như đánh đập, bắt bớ
trái phép, và cưỡng bách triệt sản trong khi thực hiện công tác kế hoạch
hóa gia đình. Theo ước tính của ông Trình Quang Thành, một người mù
chuyên tranh đấu cho quyền lợi của dân nghèo và đang bị giam lỏng, chỉ
riêng ở huyện Lâm Yi đã có 120 ngàn người là nạn nhân của những vụ
cưỡng bách phá thai hoặc triệt sản.
Ví dụ như: . Chị Yu Lian, 28 tuổi có hai con, sống tại một làng nhỏ
thuộc huyện Bobai, tỉnh Quảng Tây. “Mùa xuân năm 2007, khi đang đi dạo
trên đường, tôi bị đưa đến bệnh viện để triệt sản”. Sau hai giờ, chị được cho
về nhà với 300 nhân dân tệ bồi dưỡng. Cán bộ tỉnh Quảng Tây thi hành lệnh
của chính phủ trung ương lấy cớ khám phụ khoa sẽ phát hiện, phạt tiền và
buộc phá thai.
b. Mất cân bằng giới tính
Tương tự như nhiều nước khác ở Á châu, vấn đề nối dõi tông đường
và quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn khá phổ biến ở Trung quốc. Vì
vậy, chính sách một con đã mang lại một hậu quả vô cùng tàn khốc là có rất
nhiều phụ nữ Trung quốc đã phá thai khi biết được họ sắp sinh con gái.
Trong những năm gần đây, giới hữu trách Bắc kinh đã áp dụng lệnh cấm xét
nghiệm phái tính của thai nhi để tìm cách ngăn chận tệ nạn này, nhưng theo
các nhà quan sát, biện pháp này không mang lại hiệu quả nào. Gia đình từ bỏ
bé gái sau khi sinh ra. Các trại cô nhi mà chúng tôi đến thăm thường có đến
90% là trẻ gái. Việc trọng nam khinh nữ cũng là một nguyên nhân ít con gái.
Việc giết trẻ gái sơ sinh cũng còn xảy ra nơi này nơi nọ.
Theo các số liệu của chính phủ Trung quốc, tỉ lệ bé trai – bé gái hiện
nay là 117 – 100, cao hơn nhiều so với tỉ lệ bình quân của thế giới là 100 –
105. Các chuyên gia cho rằng tình trạng mất quân bình giới tính này sẽ
13
mang lại những hậu quả cực kỳ nguy hiểm về mặt xã hội, bởi vì trong những
năm tới đây sẽ có vô số thanh niên Trung quốc không tìm được người phối
ngẫu.

c. Dân số đang có nguy cơ già hóa:
Hiện nay, số lượng những người già trên 60 tuổi ở Trung Quốc chiếm
khoảng 11% trong 1.3 tỷ dân số toàn quốc. Với đà gia tăng này, vào năm
2050, số lượng những người già trên 60 tuổi ở Trung Quốc sẽ chiếm 31%
tổng dân số toàn quốc. Theo báo cáo của Boston Globe vào ngày 2 tháng
Giêng năm 2007, tại Trung Quốc, số lượng người già trên 60 tuổi gia tăng
trên 6 triệu người mỗi năm. Trong lúc đó, các Viện Dưỡng Lão ở Trung
Quốc chỉ đủ sức chứa khoảng 1.5 triệu người.
Hơn nữa, hầu hết các người già ở Trung Quốc đang trong tình trạng
nghèo nàn, có rất ít tiền tiết kiệm, hoặc thiếu nơi cư ngụ. Trong lúc đó, khả
năng của Nhà Nước Trung Quốc để lo lắng các dịch vụ chăm sóc phục vụ
hay trợ cấp cho những người già này cũng rất đáng nghi ngờ. Tờ
Washington Post cũng báo cáo vào ngày 22 tháng 12 năm 2006 cho biết
rằng, hiện nay số người già tại Trung Quốc gia tăng rất nhanh, có rất nhiều
trường hợp cha mẹ già bị con cái bỏ rơi tại các bệnh viện mà không ai chăm
sóc, và cũng có nhiều trường hợp cha mẹ đâm đơn kiện cáo con cái bỏ rơi
không chăm lo nuôi dưỡng.
d. các hậu quả đối với trẻ em:
- Nạn béo phì: Thống kê toàn quốc về thể
chất và sức khỏe trẻ em trong độ tuổi đến
trường của Trung Quốc cho thấy: số trẻ
béo phì trong độ tuổi 7-18 tăng gấp 4 lần,
số trẻ thừa cân tăng gấp 28 lần trong 15
năm, từ 1985 đến 2000. Các nhà khoa
học cho biết hầu hết trẻ béo phì sẽ tiếp
tục duy trì tình trạng béo phì đến khi
trưởng thành, 70% trẻ dư cân tiếp tục dư
cân hoặc chuyển sang mức trầm trọng hơn là béo phì khi thành người lớn.
- Trẻ em Trung Quốc bị "bán" vì kế hoạch hóa gia đình Hàng chục bé gái ở
phía nam Trung Quốc bị bán ra nước ngoài vì bố mẹ không thể nộp phạt do

vi phạm Luật kế hoạch hóa gia đình.
14
Một cuộc điều tra của hãng Southern Metropolis News cho thấy
khoảng 80 cháu gái ở một tỉnh đã được bán cho người nước ngoài với giá
khoảng 3000 USD.
Những đứa trẻ này bị bán đi do bố mẹ chúng không thể chi trả số tiền
phạt quá cao vì sinh nhiều con.
Nạn bắt cóc trẻ em và buôn
bán trẻ em: Một đôi vợ chồng Côn
Minh, tỉnh Vân Nam đang đi chầm
chậm trên đường, tay cầm mấy tờ
apphich, mặt lộ vẻ buồn bã. Ông
Wang Weimin và vợ Luo Wuyan đã
mất con gái tên Ai Tiểu Hoa. Bà mẹ
vừa khóc vừa kể: “Con tôi bị bắt cóc
cách đây bốn ngày trong vườn trẻ
quận Fude”. Bà dán tờ apphich tìm
con dưới một tờ khác của một người
tìm con trai mất tích. Dán tờ rơi tìm con:
Nhiều gia đình không ngần ngại mua một bé trai thay vì mang thai sau
khi đã sinh con gái đầu lòng. Họ sợ sẽ
sinh con gái nữa và phải nộp phạt. Nhưng
không chỉ các bé trai bị bán, trẻ gái cũng
bị bắt cóc để bán cho các gia đình muốn
kiếm vợ tương lai cho con trai họ. Tập tục
này gọi là Tong Yang Xi, nghĩa là “bạn
đời cho con trai”. Giá một bé gái từ 1.900-
4.845 nhân dân tệ. Giá con trai cao gấp
bốn lần.
Thông tin về những em bé bị bắt cóc

được nhà chức trách in trên các quân bài để tìm kiếm.
Hội Cha mẹ mất con quy tụ các gia đình ở 14 tỉnh Trung Quốc, ước
tính khoảng 40.000 trẻ em bị bắt cóc mỗi năm. Còn theo UNICEF ở Trung
Quốc, có hơn 10.000 phụ nữ và trẻ em bị bắt cóc mỗi năm.
e. Các vấn nạn khác
15
- Một khủng hoảng khác sẽ xảy ra đối với Trung Quốc là sẽ có nhiều
nhà máy sẽ quyết định di chuyển đến các quốc gia khác, như Ấn Ðộ , để
tìm những nơi có nhiều công nhân trẻ trung hơn.
- Đến nay, nhóm con một đầu tiên đã đến tuổi tìm việc, lập gia đình và
dần trở thành lực lượng chính thúc đẩy sự phát triển xã hội, kinh tế của
Trung Quốc. Thế nhưng không phải ai cũng được trang bị đủ bản lĩnh vào
đời. Một số lớn con một thường không chịu được khó khăn trong học hành
cũng như công việc và đời sống riêng tư. Ở nhà được cung phụng cưng
chiều nên khi vào đại học, ở ký túc xá, nhiều người thiếu khả năng sinh sống
độc lập. Việc giao tiếp với bạn học, giáo viên cũng trở nên khó khăn với các
sinh viên này. Do được yêu thương ở nhà nên những người con một này
không chịu đựng được việc “không được yêu thương ở ngoài gia đình”. Khó
khăn tiếp tục đeo bám họ khi tìm việc và bước vào thế giới nghề nghiệp.
Thậm chí gần đây có công ty ở Trung Quốc thông báo nêu rõ yêu cầu không
tuyển nhân viên là con một.
- Nạn bắt cóc phụ nữ và mua vợ : Với chính sách gia đình một con, sự
phân biệt đối xử với con gái càng tăng và chính sách gia đình một con đã trở
thành chính sách con trai duy nhất, với hậu quả là hiện nay Trung Quốc
thiếu tới 40 triệu phụ nữ.
Nông dân Trung Quốc rất khó tìm được người vợ chấp nhận cuộc
sống khó nhọc của mình. Để tìm vợ, một nông dân cần phải có tiền để một
gia đình nào đó nhượng con gái họ cho mình. Đó gọi là của hồi môn. Ở một
số tỉnh như Hà Bắc, nhiều đàn ông phải đi mua vợ. Họ phải đến một tỉnh
khác, nơi buôn bán phụ nữ bị bắt cóc hoặc ra nước ngoài (Việt Nam,

Campuchia, Lào ). Tại những nơi đó họ có thể kiếm vợ ở tầng lớp nghèo.
Việc buôn bán phụ nữ về làm vợ đã ra đời như thế tại Trung Quốc. Ước tính
mỗi năm có 10.000-50.000 phụ nữ bị bán tại Trung Quốc. Hiện 90% những
người độc thân trên 30 tuổi của Trung Quốc là đàn ông
5. NHỮNG BÀN LUẬN XUNG QUANH CHÍNH SÁCH MỘT CON
CỦA TRUNG QUỐC
Chính sách một con mang lại những hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng rất
nhiều vấn đề vô vùng khó khăn như thế, nhưng chính phủ Trung quốc không
16
hề có ý định thay đổi chính sách này. Trong cuộc hội thảo mới đây ở tỉnh
Sơn Đông, người đứng đầu Ủy ban Quốc gia về Dân số và Kế hoạch hóa gia
đình Trung quốc, ông Trương Duy Khánh, nói rằng: sinh suất hiện nay ở
Trung quốc tuy thấp nhưng không ổn định, và cần phải tiếp tục áp dụng
chính sách một con để đạt chi tiêu là giữ cho dân số ở dưới mức 1 tỉ 400
triệu vào năm 2010. Các nhà lãnh đạo ở Bắc kinh cho rằng ổn định xã hội và
tăng trưởng kinh tế sẽ bị phương hại nếu không đạt được chỉ tiêu đó.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng sự tăng trưởng nhanh chóng của
kinh tế Trung Quốc đã khiến cho chính sách một con trở thành không cần
thiết. Giáo sư Therese Hesketh nói rằng khi điều kiện kinh tế ở Trung quốc
được cải thiện thì phần lớn dân chúng sẽ tự động sinh con ít đi, tương tự như
xu thế ở các quốc gia khác ở Á châu trong mấy mươi năm qua.
Giáo sư Therese Hesketh: “ Theo tôi, cho dù chính sách này được hủy bỏ
ngay từ ngày mai thì tình trạng bùng nổ dân số cũng không xảy ra vì dân
chúng sẽ không điên khùng đến độ muốn có 5, 6 đứa con. Nếu chính phủ
tuyên bố rằng họ sẽ thôi không trừng phạt những gia đình có hai đứa con, thì
điều này không hẳn là sẽ có hàng trăm ngàn, hoặc hàng triệu người muốn có
3 đứa con.
Giờ đây ở Trung quốc hầu hết dân chúng ai cũng biết rằng nếu muốn giàu
có, muốn cho con cái có được một đời sống tốt đẹp hơn thì không nên có
đông con. Ngay cả ở những vùng thôn quê cũng vậy, dân chúng Ngày 12

tháng 7 năm 2006, các viên chức chính phủ Trung Quốc cho biết, họ đang
cứu xét để có thể sửa đổi chính sách "chỉ một đứa con". Báo cáo cũng cho
biết, Viện nghiên cứu quốc gia về Kế Hoạch Hóa Gia Ðình cũng đang đặt lại
vấn đề để ngăn chận những khủng hoảng phá thai để chỉ lựa chọn con trai.
Ðã có một đề nghị sẽ xử phạt tù cho những ai phá thai chỉ với mục đích lựa
chọn con trai mà thôi. Tuy vậy, vào ngày 28 tháng 12 năm 2006, Thủ Tướng
Trung Quốc, Ôn Gia Bảo (Wen jia-bao), tuyên bố rằng chính phủ vẫn không
có chương trình thay đổi chính sách "chỉ có một con".
.
17

×