Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

20 Nữ nhân Trung Quốc - Tiểu Thanh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.58 KB, 11 trang )

Bùi Hạnh Cẩn
20 Nữ nhân Trung Quốc
- 14 -
Tiểu Thanh

Nàng chính tên là Huyền, họ Phùng, nhưng vì lấy lẽ họ Phùng,
nên đổi là gọi là Tiểu Thanh.

Tiểu Thanh vốn quê Quảng Lăng, từ nhỏ đã kiều diễm thông
minh khác thường. Năm lên mười đang chơi ở ngõ, chợt có một
bà sư già từ thành Phù Dung tới Châu Dương đi ngang qua đấy,
nhìn thấy cô bé Tiểu Thanh, bất giác kinh ngạc nói với người
nhà họ Phùng:
- Con cái nhà ai thế này! Sắc sảo xinh đẹp thì khỏi phải nói. Tiếc
một điều bạc mệnh quá. Nếu gia đình bằng lòng cho đi với tôi,
có thể sống được ngoài ba chục tuổi.
Người nhà bực mình nói:
- Nếu chỉ cần sống đến ba chục tuổi thì ai chẳng làm được, cần gì
một vị sư già như bà?
Bà sư ôn tồn nói:
- Mọi người không tin tôi thì tùy, những xin đừng cho cháu học
chữ nghĩa.
Người nhà cười bảo:
- Ở đời bao nhiêu người đọc sách viết thơ, chả nhẽ họ cũng đoản
mệnh cả sao?

Vị sư già biết không khuyên được bèn đi ngay.

Lúc ấy, ở Quảng Lăng, phụ nữ đều ham biết chữ thạo nghề. Mẹ
Tiểu Thanh vốn là nữ nghệ nhân có nhiều người theo học. Tiểu
Thanh thường theo mẹ đi tới các gia đình. Vẻ xinh đẹp, tà ứng


đối của nàng làm cho nhiều người khâm phục. Năm mười sáu
tuổi lấy Phùng Sinh. Phùng Sinh là công tử giàu sang ham mê
người đẹp, nhưng vợ cả lại rất ghen. Đồng ý cho chàn được lấy
thiếp, nhưng không được ở gần. một tháng chỉ được gặp nhau hai
lần. Khi Phùng đến Quảng Lăng, nghe tiếng Tiểu Thanh, trong
lòng mê mẩn ngay, nhờ người hỏi giúp. Mẹ nàng ham vàng bạc
nhiều, nên nhận lời gả. Tiểu Thanh biết chuyện, nước mắt giàn
giụa nói với mẹ:
- Lấy chồng xa xôi ngàn dặm thế này, thì mẹ con ta lúc sống
cũng không mong gặp nhau. Quả là bạc mệnh thật.
Phùng Sinh theo lời vợ cả, vội vàng đưa Tiểu Thanh về nhà. Vợ
cả thấy nàng quá xinh đẹp, nên càng ghen tức. Tiểu Thanh cố ý
phục tùng ngoan ngoãn, thì vợ cả lại càng cho là nàng có âm
mưu xấu xa. Thế là cấm chỉ không cho chồng được nói chuyện
riêng với Tiểu Thanh. Đồ son phấn của nàng bị vứt bỏ hết, sách
vở cảu nàng cũng bị đem đốt.
Họ Phùng không biết làm thế nào, đến nhờ cầu cứu người bà con
là Dương phu nhân, nhờ đến khuyên giải hộ. Dương phu nhân
tới nơi, biết là bậc hiền nữ, song không tài nào làm vơi bớt nỗi
ghen tuông của vợ cả. Dương phu nhân bèn rủ người vợ cả đi
xem hội. Người vợ cả bắt Tiểu Thanh đi theo. Khi lễ pho tượng
Đại sĩ, vợ cả hỏi Tiểu Thanh:
- Tại sao trong chùa nhiều tượng phật, mà người ta lại lễ pho
tượng này nhiều hơn?
Tiểu Thanh thưa:
- Vì đức phật ấy trông rất nhân từ hiền lành.
Vợ cả cho Tiểu Thanh là có ý nói châm chọc mình, bèn cười
nhạt rồi bảo:
- Thôi được, thế ta cũng sẽ từ bi với mi, mi có bằng lòng không?
Dương phu nhân thừa dịp này nói với vợ cả:

- Nhà chị cũng có một ngôi chùa trên đảo Mai, sao không cho
Tiểu Thanh ra đó ở, để đỡ cảnh chướng tai gai mắt hàng ngày?
Người vợ cả thuận ý làm theo.
Khi về tới nhà trông thấy Phùng Sinh, Tiểu Thanh toan lánh mặt.
Mụ cả sẵng giọng:
- Đây là nhà của ta, mi không lánh đi được chỗ nào. Ta có một
nơi rất hợp với mi là đảo Mai, cảnh vật tĩnh mịch, rất hợp với
tính tìnhcảu mi. Ta sẽ cho mi ra đó, ví như công tử có thỉnh
thoang ra đó thì cũng không làm vướng mắt ta. Nhưng có ba điều
mi phải làm theo. một là không có lệnh của ta thì công tử có đến
cũng không được gặp mặt. hai là không có lệnh của ta mà công
tử có thư từ đến cũng không được nhận. Ba là muốn gửi thư từ gì
cho công tử phải để ta xem trước. Không giữ đúng thế thì đừng
có trách ta.

Tiểu Thanh vâng dạ, nhận hết. Có lần Dương phu nhân khuyên
nàng bỏ đi, và bà sẽ tìm cách giúp đỡ. Tiểu Thanh cảm ơn và từ
chối. Rồi nàng kể chuyện vị lão sư xem bói khi còn nhỏ cho
Dương phu nhân nghe. Nàng nói:
- Số mệnh đã định sẵn rồi.
Dương phu nhân đành chịu, chỉ dặn nàng có cần gì cứ gọi bà, và
bà cho Tiểu Thanh mượn sách để tiêu sầu. Lần đó hai người giàn
giụa nước mắt chia tay nhau.
Ở Dư Mai(đảo Mai) có lần đọc chuyện "Mẫu đơn đình" do bà
Dương cho mượn, Tiểu Thanh viết bốn câu thơ như sau:

Lãnh ngữ u song bất khả thính
Khiêu lăng nhần khán Mẫu đơn đình
Nhân gian diệc hữu thương vu ngã
Bất độc thương tâm thị Tiểu Thanh.


Tạm dịch:
Lời lạnh song sâu chẳng được rành
Khêu đèn buồn đọc mẫu đơn đình
Cõi đời cũng có người oan trái
Chả cứ đau lòng một Tiểu Thanh.

Từ đó, mỗi khi u uất, nàng lại giải sầu bằng thơ văn. Có lần nàng
viết một bài từ có tên là "tiên trên trời" như sau:

Văn Cơ viễn giá Chiêu Quân tái
Tiểu Thanh tục phong lưu thái
Dã khuy nhất trận hắc cường phong
Hỏa luân hạ
Trừu thân khoái
Đơn đơn lánh lánh thanh lương giới
Nguyên bất thị uyên nhất phái
Hữu toán tố tương tư nhất khai
Tự tư tự giải thương lường
Tâm khả tại
Hồn khả tại
Trước sam hạn nẫm quần song đới

Tạm dịch:
Văn Cơ lấy chồng xa
Chiêu Quân ra cửa ải
Món nợ phong lưu Tiểu Thanh giờ mắc lại
một lần giông bão trời tối tăm
Vòng xe lửa hồng
Cố thoát ra nổi

Ngày đêm quạnh hiu cùng trơ trọi
Vốn không uyên ương duyên mất mối
Thôi đừng tương tư cho khổ nỗi
Tự suy, tự nghĩ, tự lo toan
Tâm còn mãi?
Hồn còn mãi?
Khoác vạt áo dài thắt chặt dải

Mỗi khi viết thư từ, nàng thường gửi cho Dương phu nhân,
nhưng sau này Dương phu nhân cũng theo chồng đến làm quan ở
nơi xa xôi, từ đó hai người không còn trao đổi văn chương nữa.

Nàng có tự vẽ một bức tranh, và vẽ vào quạt. Nhưng cất rất kín,
không cho ai xem. Cứ chiều tối mờ, ra bờ hồ ngồi, lẩm nhẩm
một mình…và lại viết một bài thơ.

Có một bài thơ như sau:

Tân trang cảnh dữ họa đồ tranh
Tự tại Chiêu Dương đệ kỷ danh
Sấu ảnh tự lân xuân thủy chiếu
Kham tu lân ngã ngã lân khanh

Tạm dịch:
Vẻ xinh xinh đẹp khó chia rành
Hẳn chốn Chiêu Dương chỗ đã đành
Soi nước xuân thương gầy vóc dáng
Thương nhau đây đấy vẫn ta mình

Từ đấy uất ức thành bệnh, như vậy hơn một năm, càng ốm nặng

hơn. Người vợ cả nghe tin mừng rỡ, cho mời thầy lang đến xem
mạch, cho con hầu mang thuốc tới. Tiểu Thanh cảm ơn, rồi hắt
thuốc đi, cười nói một mình:
- Ta vốn không thiết sống, cũng nên đem tấm thân trong trắng về
cõi phật…Cần gì đến thuốc thang của nhà ngươi?

Khi biết bệnh tình khó qua, nàng viết cho Dương phu nhân một
bức thư.

Viết xong thì bệnh càng nặng, không cơm cháo gì, mỗi ngày chỉ
uống một chén nước lê. Nhưng đầu tóc, quần áo không hề bù rối,
nhếch nhác.

Một hôm nàng nói với bà già giúp việc nhờ nói với chồng tìm
một người thợ vẽ giỏi, nhờ vẽ cho một bức chân dung. Vì không
nhân dịp này lưu lại chút hình dung, thì không còn lúc nào nữa.

Họa sĩ tới, vẽ xong, nàng ngắm một lúc rồi nói:
- Chỉ mới đúng hình ngoài, nhưng chưa tả được cái "thần", nhờ
thầy vẽ giùm bức thứ hai.
Họa sĩ lại vẽ bức khác. Tiểu Thanh xem xong lại nói:
- "Thần" đã có, song chưa sống động. Điều đó chắc do tôi hẳn
còn chưa tự nhiên.

Nói rồi nàng cùng bà già sắp xếp dọn dẹp và sửa soạn quần
áo,cười nói thoải mái. Họa sĩ vẽ xong, Tiểu Thanh nhìn rồi vui
cười nói:
- Bây giờ thì đạt rồi! Cám ơn thầy.

Họa sĩ đi rồi, nàng nâng bức tranh đó lên đầu giường, rồi rót

rượu thắp hương, tự khấn vái:
- Tiểu Thanh! Tiểu Thanh! Duyên phận nhà ngươi cũng thế sao?

Nói xong khóc ngất. Bà bõ lay mãi mới tỉnh. Nàng bèn lấy một
phong thư nhờ bà bõ chuyển cho Dương phu nhân, sau đó chỉ
bức tranh và dặn: "Bức tranh mày nhờ bà cố giữ gìn cho thật tốt.
Cháu có ít đồ nữ trang, xin tặng lại cho các chị nhà bà".

Khi mất, Tiểu Thanh mới một8 tuổi. Công tử họ Phùng được tin,
lảo đảo đi tới, nhìn thấy bức tranh trông giống như người còn
sống, chỉ không nói cười mà thôi. Họ Phùng gào lên thổ hơn đấu
huyết…Lục cuốn thơ văn, đọc ra một bài gửu Dương phu nhân
như sau:

Bách kết hồi trường tả lệ ngân
Trùng lai duy hữu cựu chu môn
Tịch dương nhất phiến đào hoa ảnh
Tri thị đình đình Thiển nữ hồn

Tạm dịch:
Trăm khúc vò tơ lệ đổ dồn
Lại về chỉ chốn cổng sơn son
Ánh chiều một mảnh hoa đào bóng
Gái Thiển rành đây vẫn còn hồn
.
Xem xong công tử họ Phùng gào to:
- Ta phụ nàng rồi! Ta phụ nàng rồi!

Người vợ cả biết chuyện, tức uất sai tìm bức tranh (thứ nhất) đốt
ngay, lại bắt chồng đưa cuốn thi tập của Tiểu Thanh để đem hủy

đi.

May còn bức tranh thứ hai và một số bài thơ gửi bà bõ già thì
còn được chín bài bốn câu, trong đó có thơ gửi Dương phu nhân.
Sau này một người bạn của họ Phùng là Lưu Vô Mộng tới đảo
Mai, thấy bên cửa sổ Tiểu Thanh năm trước còn sót lại ba dòng
trong bài từ "Làng Nam". Có người còn cho là hay hơn những
câu của bà Lý Di An.

Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam từng viết bài thơ "Đọc truyện
Tiểu Thanh", trong đó có mấy câu như:

Hồ tây vườn thắm hóa gò trơ
Thương viếng bên song sách mấy tờ
Son phấn có thần đau chuyện khuất
Văn chương không mệnh nửa thành tro.


×