Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

CHÂM CỨU VÀ BÁT PHÁP BẢNG BỔ TẢ THEO SÁCH ‘CHÂM CỨU TỤ ANH’ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.85 KB, 17 trang )

CHÂM CỨU VÀ BÁT PHÁP
BẢNG BỔ TẢ THEO SÁCH ‘CHÂM CỨU TỤ ANH’
Kinh

Huyệt
Nguyên
Huyệt Bổ Huyệt Tả
Phế Thái Uyên
(P.9)
Thái Uyên
(P.9)
Xích Trạch
(P.5)
Đại
Trường
Hợp Cốc
(Đtr.4)
Khúc Trì
(Đtr.11)
Nhị Gian
(Đtr.2)
Vị Xung
Dương (Vi.42)
Giải Khê
(Vi.41)
Lệ Đoài
(Vi.45)
Tỳ Thái Bạch
(Ty.3)
Đại Đô
(Ty.2)


Thương
Khâu (Ty.5)
Tâm Thần Môn Thiếu Thần Môn
(Tm.7) Xung (Tm.9) (Tm.7)
Tiểu
Trường
Uyển Cốt
(Ttr.4)
Hậu Khê
(Ttr.3)
Tiểu Hải
(Ttr.8)
Bàng
Quang
Kinh Cốt
(Bq.64)
Chí Âm
(Bq.67)
Thúc Cốt
(Bq.65)
Thận

Thái Khê
(Th.3)
Phục Lưu
(Th.7)
Dũng Tuyền
(Th.1)
Tâm
Bào

Đại Lăng
(Tb.7)
Trung
Xung (Tb.9)
Đại
Lăng(Tb.7)
Tam
Tiêu
Dương Trì
(Ttu.4)
Trung Chử
(Ttu.3)
Thiên Tỉnh
(Ttu.10)
Đởm

Khâu Khư
(Đ.40)
Hiệp Khê
(Đ.43)
Dương Phụ
(Đ.38)
Can Thái Xung
(C.3)
Khúc
Tuyền (C.8)
Hành Gian
(C.2)
BIỂU ĐỒ BỔ TẢ THEO BÁT CƯƠNG
BÁT

CƯƠNG
CHÂM CỨU
Âm Châm sâu, lưu kim hoặc rút kim chậm hoặc cứu
nhiều, châm ít.
Dương

Châm cạn, không lưu kim, hoặc rút kim nhanh,
hoặc châm nhiều cứu ít.
Biểu Châm cạn, hoặc cứu ít.
Lý Châm sâu hoặc cứu nhiều.
Hàn Châm sâu, lưu kim hoặc châm ít, cứu nhiều.
Nhiệt Châm cạn, rút kim nhanh hoặc châm nhiều, cứu ít,
hoặc châm ra máu.
Hư Cứu nhiều, châm ít hoặc không châm
Thực Châm nhiều, cứu ít hoặc không cứu.
Tại Nhật Bản, Yanagiya Sorei (Liễu-Cốc-Tố-Trinh) có đề ra phương
pháp Bổ Tả có cải tiến so với phương pháp Bổ Tả của Kinh Điển như sau:
* Nguyên Tắc:
1- Thực Chứng
· Châm bổ ở đường kinh khắc với đường kinh đang có bệnh thuộc
thực chứng để chuyển kinh khí từ đường kinh khắc sang kinh bệnh.
· Nơi kinh bệnh, châm huyệt mang cùng tên với hành tương ứng với
đường kinh dùng để khắc để có thể nhận kinh khí từ kinh khắc chuyển sang.
· Tả ở đường kinh con (tử) của đường kinh đang bị bệnh để nhận khí
từ kinh bệnh sang kinh con của nó.
· Nơi kinh bệnh, châm ta huyệt cùng mang hành với kinh con của nó
để chuyển khinh khí sang.
Thí dụ: đường kinh Phế đang có bệnh thuộc thực chứng.
+ Phế thuộc Kim, khắc Kim là Hỏa, vì thế chọn huyệt của đường kinh
Tâm (Hỏa). Châm bổ Hỏa huyệt của kinh Tâm là huyệt Thiếu Xung (Tm.8),

để chuyển kinh khí từ Tâm qua Phế. Vì Tâm là Hỏa huyệt, do đó phải chọn
huyệt Hỏa của kinh Phế (mang cùng tên hành), tức là bổ huyệt Ngư Tế
(P.10), để nhận kinh khí từ Tâm chuyển sang.
+ Phế Kim sinh Thận Thủy, vì vậy chọn huyệt ở kinh Thận. Thận
thuộc thủy, vì vậy chọn huyệt Âm Cốc (Thủy huyệt của kinh Thận) để nhận
kinh khí từ Phế chuyển sang. Thận thuộc Thủy do đó phải chọn huyệt Thủy
của kinh Phêtưcs là huyệt Xích Trạch (P.5), để chuyển kinh khí sang kinh
Thận. Các đường kinh khác cũng tương tự như vậy.
2- Hư Chứng
¨ Áp dụng nguyên tắc ‘Hư bổ mẫu’, nơi kinh bệnh, chọn hành sinh ra
hành đang bị bệnh để tăng kinh khí.
¨ Bổ hành cùng tên với hành của kinh mẹ của kinh bị bệnh để chuyển
kinh khí từ mẹ sang con.
¨ Tả kinh tương khắc với kinh bệnh để kinh khắc với kinh đang bệnh
yếu đi không khắc kinh bệnh nữa.
¨ Nơi kinh bệnh, tả huyệt mang tên cùng hành với kinh khắc nó để hỗ
trợ việc rút kinh khí của kinh khắc nó đi cho khỏi bị khắc.
Thí dụ: Cũng kinh Phế bị bệnh nhưng ở thể Hư.
+ Tỳ Thổ sinh Phế Kim vì vậy châm bổ huyệt Thái Bạch (Ty.3) là
huyệt Thổ của đường kinh Tỳ để chuyển kinh khí từ kinh Mẹ (Tỳ) sang kinh
con (Phế).
+ Thổ sinh Kim, nơi kinh bệnh: bổ huyệt Thổ của kinh Phế (cùng tên
hành với kinh Mẹ) tức huyệt Thái Uyên (P.9) để nhận kinh khí từ mẹ chuyển
sang.
+ Hỏa khắc Kim, vì vậy chọn tả huyệt của kinh Tâm là huyệt Thiếu
Phủ (P.8) để Hỏa yếu đi không khắc Kim nữa.
+ Nơi kinh bệnh, chọn huyệt mang tên cùng hành với kinh khắc nó
(hỏa) tức là tả huyệt Ngư Tế (P.10) để ứng với kinh đang khắc, hỗ trợ cho
kinh đang bệnh mạnh lên, chống lại kinh khắc nó. Các đường kinh khác
cũng tương tự như vậy

BIỂU ĐỒ HUYỆT BỔ TẢ THEO LIỄU CỐC TỐ TRINH (Nhật
Bản)
Tạng
Phủ
THỰC CHỨNG HƯ CHỨNG
BỔ TẢ BỔ TẢ
Phế Thiếu
Phủ
Ngư Tế
Âm
Cốc
Xích
Trạch
Thái
Uyên
Thái
Bạch
Thiếu
Phủ
Ngư Tế

Đại
Trường
Dương
Khê
Dương
Thông
Cốc
Nhị
Khúc

Trì
Túc
Dương
Cốc
Dương
Cốc Gian Tam Lý Khê
Vị Lâm
Khấp (Túc)
Hãm
Cốc
Thương
Dương
Lệ
Đoài
Giải
Khê
Dương
Cốc
Khiếu
Âm
Lâm
Khấp
Tỳ Đại
Đôn
Ẩn
Bạch
Kinh
Cừ
Thương
Khâu

Đại Đô
Thiếu
Phủ
Đại
Đôn
Ẩn
Bạch
Tâm Âm
Cốc
Thiếu
Hải
Thần
Môn
Thái
Bạch
Thiếu
Xung
Đại
Đôn
Âm
Cốc
Thiếu
Hải
Tiểu Thông Túc Hậu Tiền
Trường Cốc
Tiền
Cốc
Tam Lý
Tiểu
Hải

Khê
Lâm
Khấp
Cốc
Thông
Cốc
Bàng
Quang
Túc
Tam Lý
Ủy
Trung
Lâm
Khấp
Thúc
Cốt
Chí
Âm
Thương
Dương
Túc
Tam Lý
Ủy
Trung
Thận

Thái
Bạch
Thái
Khê

Đại
Đôn
Dũng
Tuyền
Phục
Lưu
Kinh
Cừ
Thái
Bạch
Thái
Khê
Tâm
Bào
Thông
Cốc
Khúc
Trạch
Túc
Tam Lý
Đại
Lăng
Trung
Xung
Lâm
Khấp
Khúc
Trạch
Thông
Cốc

Tam
Tiêu
Thông
Cốc
Dịch
Môn
Túc
Tam Lý
Thiên
Tỉnh
Trung
Chử
Lâm
Khấp
Dịch
Môn
Thông
Cốc
Đởm

Thương
Dương
Khiếu
Âm (Túc)
Dương
Cốc
Dương
Phụ
Hiệp
Khê

Thông
Cốc
Khiếu
Âm
Thương
Df
Can Kinh
Cừ
Trung
Phong
Thiếu
Phủ
Hành
Gian
Khúc
Tuyền
Âm
Cốc
Kinh
Cừ
Trung
Phong
Trong khi áp dụng nguyên tắc Bổ Tả, có thể xẩy ra 2 trường hợp sau:
. Mẫu Tử Đồng Hư.
. Mẫu Tử Đồng Thực.
Trong trường hợp này, cả 2 tạng đều hư hoặc thực, không thể chuyển
khí trực tiếp cho nhau, vì vậy phải chuyển khí qua 1 Tạng Phủ khác rồi từ đó
mới chuyển đến nơi yêu cầu.
+ Cách nhớ khi chuyển khí:
. Theo nguyên tắc: vật cùng tên thì đảy nhau, khác tên thì hợp nhau.

Như
vậy: Âm đẩy Âm, Dương đẩy Dương, Âm hợp với Dương và Dương
hợp với Âm.
Do đó, trên thực tế, không thể đem (chuyển) khí từ Tạng này sang
Tạng khác hoặc từ Phủ này sang Phủ khác, vì tạng thuộc âm, âm với âm sẽ
khắc nhau, mà phải đem khí từ 1 tạng sang 1 phủ tức là đưa từ âm sang
dương hoặc ngược lại.
. Khi chuyển khí từ Tạng sang Phủ hoặc ngược lại, phải chọn huyệt
mang cùng tên với hành muốn chuyển.
Thí dụ: Mẫu Tử Đồng Hư.
Phế Kim và Tỳ Thổ đều hư. Tỳ Thổ sinh Phế Kim. Tỳ là mẫu (mẹ),
Phế là tử (con). Trường hợp này, muốn bổ Phế Kim, không thể lấy khí từ Tỳ
Thổ chuyển sang để bổ cho Phế Kim được (theo nguyên tắc 'Hư bổ mẫu') vì
Tỳ Thổ cũng ở trạng thái hư như Phế Kim.
Trường hợp này có 2 cách giải quyết:
1- Phải bổ Tỳ Thổ trước, khi Tỳ Thổ mạnh lên rồi, lúc đó mới lấy khí
của Tỳ Thổ qua để bổ cho Phế Kim.
2-Phế Kim hư, Tâm Hoả sẽ vượng (vì Hoả khắc Kim). Nhân cơ hội
Kim suy, Hoả càng lấn mạnh (tương thừa), vì vậy, phải lấy bớt khí từ Tâm
Hoả đem sang Phế Kim. Nhưng khí của Tâm Hoả thuộc âm (tạng thuộc âm),
và khí của Phế kim cũng thuộc âm. Âm với âm đẩy nhau, do đó, không thể
dẫn khí thẳng từ Tâm Hoả sang Phế Kim được, mà phải chuyển khí của Tâm
(tạng) sang Tiểu Trường (phủ - quan hệ Biểu lý với Tâm), bằng cách châm
huyệt Lạc của Tâm là huyệt Thông Lý (Tm.5) và bổ huyệt Nguyên của Tiểu
Trường là huyệt Uyển Cốt (Ttr.4), theo cách áp dụng Nguyên-Lạc huyệt.
Khi đã chuyển khí từ Tâm qua Tiểu Trường rồi, châm hỏa huyệt của Phế
(Ngư Tế - P.10) để thu hút khí của Tiểu Trường (Hoả) chạy sang Vị (Thổ)
và Đại trường (Kim) qua Phế để bồi bổ cho Phế Kim đang bị hư.
b- Mẫu Tử Đồng Thực
Can Mộc và Tâm Hoả đồng thực. Trên nguyên tắc 'Thực tả tử', phải

chuyển khí của Can qua Tâm, nhưng ở đây, Tâm Hoả cũng vượng, nên
không thể chuyển khí từ Can qua Tâm được. Để giải quyết, có 2 cách:
1- Tả Tâm Hoả trước bằng cách chuyển khí của Tâm Hoả sang Tỳ
Thổ theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh. Khi Tâm hoả hết vượng rồi, sẽ
chuyển khí sang Tâm.
2- Can Mộc vượng thì Tỳ Thổ suy vì Can Mộc khắc Tỳ Thổ, vậy phải
chuyển bớt khí của Can Mộc qua Tỳ Thổ. Nhưng khí của Can Mộc thuộc
Âm (Tạng thuộc âm), Tỳ cũng là Tạng, thuộc Âm. Âm với Âm đẩy nhau, do
đó, không thể chuyển thẳng khí từ Can Mộc sang Tỳ Thổ được. Phải chuyển
khí từ Can qua Đởm(Can thuộc tạng = âm, Đởm thuộc phủ = dương) bằng
cách tả huyệt Lạc của Can là huyệt Lãi Câu (C.5) và bổ huyệt Nguyên của
Đởm là huyệt Khâu Khư (Đ.40), theo nguyên tắc phốii hợp Nguyên - Lạc
huyệt. Khi chuyển khí từ Can qua Đởm rồi, châm huyệt Mộc của Tỳ (Ẩn
Bạch - Ty.1) để thu hút khí từ Đởm chạy qua Tiểu Trường (Hoả), Vị (Thổ)
qua Tỳ để Can bớt vượng và Tỳ bớt suy.
Hoặc có thể giải quyết như sau:
Châm bổ huyệt Mộc của kinh Tỳ [Ẩn Bạch] (để đồng hành Mộc của
Can), rồi tả huyệt Lạc của kinh Đởm (Quang Minh - Đ.37) thuộc Dương cho
hợp với Tỳ thuộc Âm. Chuyển khí từ Can sang Đởm, như vậy Can khí qua
Đởm và từ Đởm qua Tỳ, tránh được Can Tỳ khắc nhau.
Trong việc châm bổ ta?, cũng cần nhớ đến yếu tố “Thời” tức là cần
biết lúc nào đáng bổ hoặc ta? như thiên “Ly Hợp Chân Tà Luận” ghi: “Khi
tà khí từ Lạc mạch đi sâu vào kinh mạch, rồi ở luôn trong huyết mạch, bấy
giờ là lúc chính khí và tà khí còn đang tranh nhau, cho nên mạch khí bị bạo
động, lúc nổi lúc chìm, lúc đến lúc đi, tà khí vẫn chưa rõ ở một nơi nào nhất
định. Lúc biết được tà khí vừa đến, phải “án thời” để châm tà khí, đừng cho
nó phát triển. Tuy nhiên không nên châm ta? nhằm lúc tà khí và chính khí
đang xung đột với nhau" (TVấn. 27, 16).
Một phương pháp Bổ Ta? khá độc đáo được ghi trong sách “Châm
Cứu Đại Thành” của Dương - Kế - Châu, dựa theo cảm giác nóng lạnh, tình

trạng bệnh Nhiệt hoặc Hàn mà áp dụng cách châm, gọi là: “Thiêu Sơn
Ho?a” và “Thấu Thiên Lương”.
1- Thiêu Sơn Ho?a: còn gọi là châm nóng, châm bổ: 3 tiến 1 lùi.
Châm qua da xong, đưa kim xuống bộ Thiên, xoay kim 3-5 lần, từ trái sang
phải cho có cảm giác (căng, tức, tê) tiếp tục đưa kim xuống bộ Nhân, cũng
xoay kim 3-5 lần, từ trái sang phải cho có cảm giác. Sau đó rút kim ra, gần
đến da, dừng một chút rồi rút kim ra, bịt lỗ kim lại.
Cách châm này có tác dụng trừ được hàn (lạnh).
Phương pháp này cũng được dùng để trị hư chứng như trong thiên
“Châm Giải ” đã nhắc đến như sau: “Khi nào nhằm trị hư chứng thì dưới
kim phải có nhiệt cảm thì sẽ rút kim” (TVấn. 54, 13).
Điểm đặc biệt ở đây là con số lần xoay kim đều dựa theo số le? (3, 5)
và cách chuyển kim từ trái sang phải tức từ Dương sang Âm. Số le? thuộc
dương ; do đó, cách châm này mang đặc tính dương và cảm giác ấm, nóng
(ấm nóng thuộc dương). Phép châm này tổng hợp các động tác của các loại
kích thích: Từ Tật (châm nhanh), Đề tháp (rút kim lên xuống) Cư?u thất
(theo số 9 hoặc 7), Hô hấp, Khai hạp (đóng, mơ?).
2- Thấu Thiên Lương : còn gọi là châm lạnh, châm ta?, 1 tiến, 3 lùi.
Châm qua da, đưa kim xuống ngay bộ Địa (sâu nhất), xoay kim 2-4 lần, từ
phải sang trái cho có cảm giác, rút kim về đến độ Nhân, xoay kim 2-4 lần từ
phải sang trái cho có cảm giác, rút kim ra gần da, dừng lại một chút rồi rút ra
khỏi da, không bịt lỗ kim ngay.
Cách châm này có tác dụng trừ được nhiệt (nóng).
Phương pháp này cũng được dùng trị chứng Thực, như đã được nhắc
đến trong thiên “Châm Giải ” (như sau: “Khi nhằm trị Thực chứng thì dưới
kim phải có cảm giác mát lạnh thì rút châm” (TVấn. 54, 12).
Điểm đặc biệt ở đây là con số xoay kim, luôn là 2-4, tức là số chẵn (số
chẵn thuộc âm), và xoay kim từ phải sang trái (bên phải thuộc âm). Vì thế,
phương pháp này mang đặc tính âm, dùng để trị nhiệt chứng, thực chứng rất
có hiệu qua?. Phương pháp này tổng hợp các động tác kích thích: Từ tật

(châm nhanh), Đề tháp (nâng lên, đè xuống), Bát lục (theo số 8 hoặc 6), Hô
hấp, Khai Hạp (mơ?, đóng), Bãi (lay kim).
Cách châm “Thiêu Sơn Ho?a” và “Thấu Thiên Lương” có thể thay đổi
ít nhiều tùy thu? thuật, tùy quan điểm của từng người châm nhưng luôn
giống nhau ở điểm căn ba?n là 3 tiến 1 lùi và 3 lùi 1 tiến.
Sách ‘Châm Cứu Đại Thành’ cũng còn nêu lên một số phương pháp
Bổ Ta? khác như cách châm “Âm Trung Ẩn Dương, Dương Trung Ẩn Âm”,
(Âm trong dương, Dương trong âm), Tý Ngọ Đa?o Cậu (Giã cối theo Tý
Ngọ - chiều xung nghịch nhau), Long Hổ Thăng Giáng (Rồng Cọp lên
xuống), Thanh Long Bài Vĩ (Rồng xanh vẫy đuôi), Bạch Hổ Diêu Đầu (Cọp
trắng lắc đầu), Thương Quy Thám Huyệt (Rùa xanh dò tìm hang), Xích
Phụng Nghênh Nguyên (Phượng đo? nghênh suối).
Tuy nhiên những phương pháp này hiện nay ít được sư? dụng, hầu
như chỉ để tham kha?o thêm thôi.

×