Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT BẢO TRÌ VÀ ĐỘ TIN CẬY TẠI TẬP ĐOÀN HOA SEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.02 KB, 34 trang )

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT BẢO
TRÌ VÀ ĐỘ TIN CẬY TẠI TẬP
ĐOÀN HOA SEN
TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
HVTH : NHÓM 2
LỚP : Đêm 3 – K22
GVHD : PGS.TS HỒ TIẾN DŨNG
DANH SÁCH NHÓM
1. Nguyễn Hoàng
2. Nguyễn Quang Hùng
3. Nguyễn Thị Huỳnh Mi
4. Phan Thanh Trí Tâm
5. Nguyễn Hữu Phú Thiện
6. Nguyễn Thị Thanh Thùy
7. Nguyễn Phước Tuấn
8. Trần Quốc Việt
Trang 2
MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: 5
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ĐỘ TIN CẬY VÀ BẢO TRÌ 5
1.1 ĐỘ TIN CẬY 5
1.1.1 Phương pháp xác định độ tin cậy của toàn hệ thống 5
1.1.2 Các biện pháp nâng cao độ tin cậy 8
1.2 BẢO TRÌ 9
1.2.1 Bảo trì phòng ngừa 10
1.2.2 Bảo trì sửa chữa 14


1.3 CÁC HỆ THỐNG CHUYÊN MÔN ĐƯỢC ÁP DỤNG DỂ BẢO TRÌ 22
1.4 THẨM ĐỊNH SỰ TIN CẬY VÀ BẢO TRÌ 22
1.5 PHÂN BIỆT BẢO TRÌ VÀ BẢO HÀNH 23
CHƯƠNG II: 24
TÌNH HÌNH THỰC TẾ TẠI TẬP ĐOÀN HOA SEN 24
2.1 VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ TẬP ĐOÀN HOA SEN 24
2.2 TÌNH HÌNH BẢO TRÌ CỦA TẬP ĐOÀN HOA SEN 25
2.2.1 Kế hoạch bảo dưỡng máy móc 26
2.2.3 Biện pháp nâng cao hiệu quả bảo trì và độ tin cậy 30
CÂU HỎI THẢO LUẬN 32
LỜI KẾT 34
Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình quản trị điều hành và sản xuất của doanh nghiệp, độ tin cậy là
một trong những nhân tố quan trọng và bảo trì là một trong những khâu quan trọng của
quản trị sản xuất. Sự thất bại hệ thống là nguyên nhân của các kết quả không mong
đợi. Nhằm ngăn ngừa các kết quả không mong đợi của thất bại hệ thống, điều đó yêu
cầu doanh nghiệp phải căn cứ vào độ tin cậy của máy móc thiết bị để tính toán và lựa
chọn phương án bảo trì thích hợp, tối ưu hóa được tổng chi phí, đem lại hiệu quả cao
nhất cho doanh nghiệp.
Trong nội dung của bài với lý thuyết về độ tin cậy và bảo trì, áp dụng thực tế tình
hình bảo trì tại Tập Đoàn Hoa Sen, bài tiểu luận đề cập nội dung về kế hoạch bảo trì,
đồng thời có thể phân tích đánh giá các phương án bảo trì.
QTKD K22 Đêm 3 - Nhóm 2
Trang 4
CHƯƠNG I:
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ĐỘ TIN CẬY VÀ BẢO TRÌ
1.1 ĐỘ TIN CẬY
1.1.1 Phương pháp xác định độ tin cậy của toàn hệ thống
Hệ thống điều hành sản xuất bao gồm một chuỗi các thành phần có mốì quan hệ

riêng biệt nhau, cho mỗi thành phần thực hiện một công việc cụ thể. Nếu có bất kỳ một
trong các thành phần bị hỏng với bất kỳ lý do gì thì toàn bộ hệ thống có thể hỏng theo,
ví dụ như một động cơ ô tô hoặc một dây chuyền xay xát.
Các sự cố hư hỏng xảy ra có liên quan đến độ tin cậy. Theo tính toán cho thấy rằng
một hệ thống có n=50 bộ phận liên quan nhau và mỗi một bộ phận có độ tin cậy
99,5%, thì toàn bộ hệ thông đó sẽ có độ tin cậy là 78%. Nếu một hệ thống hoặc máy
móc có 100 bộ phận liên quan nhau và mỗi một bộ phận có độ tin cậy 99,5% thì toàn
bộ hệ thống hoặc máy móc đó có độ tin cậy là chỉ khoảng 60%.
Mối quan hệ này được biểu diễn qua biểu đồ sau đây:
Trang 5
Biểu đồ 1.1: Độ tin cậy của toàn hệ thống là tổng hợp chức năng của số lượng các
thành phần và độ tin cậy cấu thành của các thành phần trong dây chuỵền
.
Cũng từ biểu đồ 1.1 chúng ta cũng nhận thấy rằng nếu con số các bộ phận trong
một chuỗi càng nhiều (như được biểu hiện qua các đường cong có tên n=50, n=100,
n=200 ) thì sự tin cậy của toàn bộ hệ thống sẽ giảm xuống rất nhanh (như được chứng
minh bởi thước đo trên trục thẳng đứng).
Để đo lường sự tin cậy của hệ thống trong từng bộ phận hoặc thành phần riêng biệt
có tỷ lệ tin cậy duy nhất của chính nó, chúng ta không thể sử dụng đường cong sự tin
cậy. Phương pháp tính toán độ tin cậy của hệ thống (R
s
) bao gồm tích số của các độ tin
cậy riêng là như sau:
R
S
= R
1
X R
2
X R

3
X X R
n
Trong đó: R
1
là độ tin cậy của thành phần 1
R
2
là độ tin cậy của thành phần 2
Phương trình này cho thấy độ tin cậy của một bộ phận riêng lẻ không phụ thuộc
vào độ tin cậy của các bộ phận khác (có nghĩa là các bộ phận này độc lập nhau). Thêm
vào đó, trong phương trình này như trong hầu hết các yếu tố đều liên quan đến độ tin
cậy, các độ tin cậy được thể hiện như các xác suất xảy ra. Độ tin cậy A. 90 có nghĩa là
đơn vị này sẽ hoạt động dự kiến là 90% thời gian. Nó cũng nghĩa là sẽ có độ hư hỏng
là 1 - 0,90 = 0,10 tức 10% thời gian.
Chúng ta có thể sử dụng công thức này để đánh giá độ tin cậy của một sản phẩm,
như ví dụ 1 như sau:
Ví dụ 1: Công ty Điện Tử Biên Hoà sản xuất công tắc phản hồi điện tử gồm có 3
thành phần được cài đặt trong dây chuyền như sau:
R
1
R
2
R
3
0,90 0,80 0,99
Nếu các độ tin cậy riêng lẻ là 0,90; 0,80; 0,99 thì độ tin cậy của công tắc phản hồi
sẽ là: R
s
= R1 x R2 x R3 = 0,90 X 0,80 X 0,99 = 0,713 hay 71,3%.

Trang 6
Độ tin cậy thành phần thường là một số lượng chỉ định hoặc thiết kế mà mỗi nhân
viên thiết kế máy phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, nhân viên mua hàng có
thể cải thiện các thành phần của hệ thống bằng thay thế hàng cùng loại từ sản phẩm
của các nhà cung cấp và kết quả của nghiên cứu. Nhân viên mua hàng cũng có thể góp
phần trực tiếp vào việc thẩm định hiệu suất của nhà cung cấp.
Đơn vị đo lường cơ bản đối với sự tin cậy là tỷ lệ hư hỏng sản phẩm. Các doanh
nghiệp sản xuất trang thiết bị công nghiệp cao thường cung cấp các dữ liệu tỷ lệ hư
hỏng cho sản phẩm của họ.
Tỷ lệ hư hỏng là tỷ lệ phần trăm giữa lượng sản phẩm hư hỏng với tổng số sản
phẩm được thử nghiệm FR (%) hoặc số lượng hư hỏng trong suốt chu kỳ thời gian
FR(N):
FR (%) = Số lượng hư hỏng x 100%
Số lượng sản phẩm được kiểm tra
FR (N) = Số lượng hư hỏng .
Số lượng của giờ hoạt động
Điều kiện thông thường nhất trong phân tích sự tin cậy là thời gian trung bình
giữa các hư hỏng (MTBF), chỉ tiêu này tỷ lệ nghịch với FR(N):
MTBF = 1 .
FR(N)
Trong ví dụ 1 chúng ta tính toán tỷ lệ phần trăm hư hỏng FR(%), số lượng hư hỏng
FR(N) và thời gian trung bình giữa các hư hỏng (MTBF)
Ví dụ 2: 20 hệ thống thiết bị của một công ty có thời gian hoạt động khoảng 1.000
giờ. Hai trong các hệ thống này bị hư hỏng trong quá trình kiểm tra, trong đó một cái
bị hỏng sau 200 giờ và một cái bị hỏng sau 600 giờ kiểm tra. Ta tính toán được tỷ lệ
hư hỏng như sau:
FR (%) = Số lượng hư hỏng = 2*100% /20 = 10%
Số lượng sản phẩm được kiểm tra
Trang 7
Số lượng hư hỏng theo tỷ lệ giở hoạt động như sau:

FR (N) = S ố lượng hư hỏng .
Số lượng của giờ hoạt động
Trong đó:
Tổng thời gian là 1.000 giờ *20 hệ thống = 20.000 giờ
Thời gian không hoạt động là: 800 giờ của máy hỏng thứ nhất + 400 giờ của máy hỏng
thứ 2 = 1.200 giờ.
Như vậy:
Thời gian hoạt động = Tổng thời gian - thời gian không hoạt động
FR (N) = 2 = 2 = 0.00016 (hư hỏng/giờ)
20.000 - 1.200 18.800

MTBF = 1 = 2 = 9.434 giờ
FR(N) 0.00010
Nếu sau 60 ngày hoạt động, tỷ lệ hỏng là:
Tỷ lệ hỏng = (Số lượng hỏng/giờ đơn vị) * (24giờ/ngày) * (60 ngày)
= 0.00016 * 24 * 60 = 0.152 hư hỏng/ngày
1.1.2 Các biện pháp nâng cao độ tin cậy
1.1.2.1Cung cấp dư thừa
Sự dư thừa sẽ được cung cấp nếu một bộ phận bị hỏng và hệ thống cần sự giúp đỡ
tới hệ thống khác. Để tăng thêm sự tin cậy của các hệ thống, sự dư thừa ( “dự phòng”
các bộ phận) được thêm vào. Chẳng hạn như khi nói độ tin cậy của một bộ phận là 0.8
và chúng ta dự phòng với một bộ phận có độ tin cậy là 0.8. Khi đó, kết quả của sự tin
cậy là khả năng làm việc của bộ phận thứ nhất cộng với khả năng làm việc của bộ
phận dự phòng nhân với khả năng cần thiết của bộ phận dự phòng (1- 0.8 = 2). Do vậy
độ tin cậy của toàn hệ thống là :
0.8 + 0.8 (1-0.8) = 0.96
Ví dụ 3: Điện tử Biên Hòa lo ngại về công tắc điện tử của họ chỉ có độ tin cậy là 0.713
(như ví dụ 1). Do vậy , Công ty quyết định cung cấp thêm tối thiểu hai bộ phận đáng
Trang 8
tin cậy. Kết quả được thể hiện dưới đây:

R1 R2 R3
0.9 0.8
0.9 -> 0.8 -> 0.99 = ((0.9 + 0.9( 1 - 0.9)) * (0.8 + 0.8( 1- 0.8))*0.99
= (0.9+(0.9)(0.1)) * (0.8 + (0.8) (0.2)) * 0.99
= 0.99*0.96*0.99 = 0.94
Nhờ sự cung cấp dư thêm 2 bộ phận, công ty đã tăng thêm được độ tin cậy của
công tắc từ 0.713 lên 0.94
1.1.2.2Các biện pháp, kỹ thuật nâng cao độ tin cậy
1.2 BẢO TRÌ
Bảo trì là tất cả các hoạt động bao gồm bảo quản trang thiết bị của một hệ thống
trong trật tự làm việc, nhằm giữ khả năng của hệ thống được hoạt động liên tục, không
bị gián đoạn trong khoảng chi phí kiểm soát được và có khả năng ngăn ngừa các kết
quả không mong đợi của hệ thống.
Bảo trì được chia thành 2 loại là bảo trì phòng ngừa và bảo trì hư hỏng. Bảo trì
phòng ngừa bao gồm thực hiện việc kiểm tra thường kỳ và bảo quản giữ các phương
tiện còn tốt. Các hoạt động bảo trì phòng ngừa là dùng để xây dựng một hệ thống mà
Trang 9
tìm ra được các hư hỏng tiềm năng và tạo những thay đổi hoặc sửa chữa để ngăn ngừa
hư hỏng. Sự bảo trì phòng ngừa càng nhiều thì giữ cho máy móc thiết bị hoạt động
được liên tục. Nó cũng bao gồm việc thiết kế các hệ thống kỹ thuật và nhân sự mà giữ
cho quá trình sản xuất được hoạt động trong sự chấp nhận, nó chấp nhận hệ thống hoạt
động. Điều nhấn mạnh ở việc hiểu được quá trình và sự chấp nhận là làm việc không
bị gián đoạn. Bảo trì sự hư hỏng là sửa chữa, nó xảy ra khi thiết bị hư hỏng và như vậy
phải được sửa chữa khẩn cấp hoặc hoặc mức độ ưu tiên thiết yếu.
1.2.1 Bảo trì phòng ngừa
Hiện nay tại các công ty, các bộ phận chính của một hệ thống bảo trì được vi tính
hoá. Lịch sử trang thiết bị bảo trì là một bộ phận quan trọng của hệ thống bảo trì phòng
ngừa, như là hồ sơ ghi lại thời gian và giá cả của sửa chữa.
Bảo trì phòng ngừa nói lên rằng chúng ta có thể xác định được khi nào hệ thống
cần được bảo dưỡng hoặc sẽ cần sửa chữa. Do vậy, để thực hiện bảo trì phòng ngừa

chúng ta phải xác định được khi nào hệ thống yêu cầu cần được bảo dưỡng hoặc lúc
chúng có thể hư hỏng. Sự hư hỏng xảy ra ở những tỷ lệ khác nhau trong suốt dòng đời
sản phẩm, nó có thể chấp nhận các phân bổ được thống kê khác nhau. Một tỷ lệ hư
hỏng cao, được biết như là sự hư bỏ ngay từ đầu, tồn tại ngay từ đầu đối với nhiều sản
phẩm. (Các hư hỏng này có thể phân phối bởi quy luật Poisson). Đây chính là lý do mà
nhiều công ty điện tử vội vã ưu tiên việc gởi hàng của họ.
Điều này nói lên rằng, nhiều công ty thực hiện việc kiểm tra đa dạng để tìm ra
các vấn đề ưu tiên bắt đầu việc gởi hàng. Các công ty khác cung cấp 90 ngày bảo
hành. Chúng ta nên ghi nhớ rằng nhiều hư bỏ ngay từ đầu không phải là hư hỏng của
sản phẩm mà là hư hỏng do sử dụng không đúng. Sự thật này chỉ ra điều quan trọng
của việc điều hành xây dựng một hệ thống bảo trì bao gồm huấn luyện các sự lựa chọn
nhân sự.
Một khi sản phẩm, máy móc hoặc một qui trình ổn định, một nghiên cứu có thể
được từ phân bổ của thời gian bình quân giữa các hư hỏng (MTBF), các phân bổ này
có thể là phân bổ bình thường hoặc xấp xỉ bình thường. Khi các phân bổ này có độ
lệch chuẩn thấp (nhìn điểm c trong hình 1), khi ấy chúng ta biết chúng ta có một ứng
Trang 10
viên cho bảo trì phòng ngừa dù là việc bảo trì rât tốn kém.
Hình 1: Thông thường khoảng cách trung bình giữa các lần hư hỏng phải nhỏ hơn độ
lệch chuẩn đối với bảo trì phòng ngừa để tiết kiệm
Một khi chúng ta có ứng viên cho bảo trì phòng ngừa, chúng ta muốn xác định khi
nào bảo trì phòng ngừa là tiết kiệm. Có tính đặc thù rằng, càng đắt tiền bảo trì thì mức
phân bổ của thời gian bình quân giữa các hư hỏng càng thấp. Hơn nữa, nếu qui trình
sửa chữa khi máy móc bị hư hỏng không tốn kém hơn bảo trì phòng ngừa thì có lẽ
chúng ta sẽ để qui trình hư hỏng rồi mới sửa chữa. Tuy nhiên, hậu quả của việc hư
hỏng cần phải được xem xét đầy đủ, những hư hỏng phụ có liên quan có các hậu quả
tồi tệ. Tóm lại, chi phí bảo trì phòng ngừa có thể là rất bất ngờ mà bảo trì phòng ngừa
là hợp lý dù rằng mức phân bổ bằng phẳng hơn (đó là nó có độ lệch chuẩn lớn). Trong
mọi tình huống, mỗi người điều hành máy móc phải hiểu được trách nhiệm của việc
kiểm tra máy móc dụng cụ.

Một sự thay đổi về các dụng cụ hiện có cũng giúp đỡ trong việc xác định khi nào
một qui trình nên được bảo trì. Chẳng hạn như nhiều động cơ máy bay có một cảm
biến mà chỉ cho biết rằng sự hiện diện của các kim loại trong việc bôi trơn bằng dầu
nhớt. Cái cảm biến này chỉ định rằng sự hao mòn khác thường và cần bảo trì phòng
ngừa trước khi nó bị hỏng (đó là một ý tưởng tốt, đặc biệt là máy bay). Một sự thay
đổi của các bộ phận khác, từ cảm biến rung động tới việc ghi nhiệt bằng tia hồng ngoại
Trang 11
là có giá trị trong việc giúp xác định các yêu cầu về bảo trì phòng ngừa. Ngoài ra, với
những báo cáo về kỹ thuật các công ty có thể bảo dưỡng các hồ sơ của các quy trình,
máy móc hoặc thiết bị riêng lẻ. Các hồ sơ như thế này có thể cung cấp hai thông tin về
yêu cầu bảo trì và thời gian cần thiết của bảo trì.
Hình 2 cho thấy được mối quan hệ giữa bảo trì phòng ngừa và bảo trì hư hỏng.
Các nhà điều hành hoạt động cần xem xét cán cân thanh toán giữa hai chi phí này.
Việc chỉ định nhiều tiền và nhân lực vào bảo trì phòng ngừa sẽ giảm được số lượng hư
hỏng. Nhưng ở vài điểm nào đó, việc giảm chi phí bảo trì hư hỏng sẽ ít hơn trong việc
tăng chi phí bảo trì phòng ngừa, và tổng đường cong chi phí sẽ hướng lên. Xung quanh
điểm tối ưu này, công ty sẽ chờ đợi xảy ra hư hỏng rồi mới sửa chữa chúng.
Hình 2: Chi phí bảo trì
Nguyên tắc lựa chọn phương án bảo trì tối ưu:
Bước 1: Tính toán số lượng hư hỏng kỳ vọng
Bước 2: Tính toán chi phí hư hỏng kỳ vọng mỗi tháng khi không bảo trì phòng ngừa
Bước 3: Tính toán chi phí bảo trì phòng ngừa
Bước 4: So sánh và lựa chọn phương án có chi phí thấp hơn
Trang 12
Tổng chi phí
Chi phí bảo trì phòng
ngừa
Chi phí bảo trì khi hư
hỏng
Cam kết bảo

trì
Điểm tối ưu (chính sách bảo trì với chi phí thấp
nhất)
Chi phí
Ví dụ 5:
Một công ty HỮU NGHỊ (HN) chuyên về soạn bảng tính lương. Các kế toán
viên đã thành công việc tự động rất nhiều trong công việc của họ khi sử dụng máy tính
của công ty TÂN TÂN cho việc xử lý và soạn thảo báo cáo. Tuy nhiên, phép gần đúng
trong vi tính hoá có vấn đề. Hơn 20 tháng trôi qua, hệ thống vi tính hư hỏng như được
thể hiện dưới đây:
Số lượng hư hỏng Số lượng tháng mà hư hỏng xảy ra
0
1
2
3
4
8
6
2
Tổng cộng: 20
Mỗi lần máy tính bị hư hỏng, ước tính rằng công ty HN mất trung bình 300.000
đồng về phí tổn dịch vụ. một lựa chọn cho công ty là chấp nhận lời đề nghị của TÂN
TÂN để hợp đồng bảo trì phòng ngừa. nếu họ chấp nhận bảo trì phòng ngừa, họ mong
chờ mức trung bình là chỉ có một máy hư hỏng trong mỗi tháng. Mức chi phí mà TÂN
TÂN thu cho dịch vụ này là 220.000 đồng/tháng. Chúng ta sẽ theo 4 bước tiếp xúc để
trả lời câu hỏi công ty HN có nên hợp đồng với TÂN TÂN để bảo trì phòng ngừa hay
không.
Bước 1: Tính toán số lượng hư hỏng kỳ vọng (căn cứ vào lịch sử quá khứ), nếu
công ty tiếp tục duy trì được như vậy thì sẽ không cần hợp đồng bảo trì.
Bước 2: Tính toán chi phí hư hỏng kỳ vọng cho mỗi tháng khi không có hợp

đồng bảo trì phòng ngừa.
Bước 3: Tính toán chi phí bảo trì phòng ngừa.
Bước 4: So sánh hai lựa chọn và chọn một cách mà có chi phí thấp hơn.
Theo các bước trên có thể tính được:
Bước 1:
Số lượng
hư hỏng
Tần số
xuất hiện
Số lượng
hư hỏng
Tần số
xuất hiện
Trang 13
0
1
4/20=0,2
8/20=0,4
2
3
6/20=0,3
2/20=0,1
(Số lượng hư hỏng kỳ vọng)= ∑(số lượng hư hỏng) (tần số xuất hiện tương ứng)
=(0)(0,2) + (1)(0,4)+ (2)(0,3) + (3)(0,1)
=0 + 0,4 + 0,6 + 0,3
= 1,3 hư hỏng /tháng
Bước 2:
Chi phí hư hỏng kỳ vọng = (số lượng hư hỏng kỳ vọng) (chi phí của mỗi hư hỏng)
= (1,3) (300.000) =390.000 đồng/tháng
Bước 3

Chi phí bảo trì phòng ngừa = (chi phí hư hỏng kỳ vọng nếu ký hợp đồng bảo trì)+(chi
phí của hợp đồng bảo trì)
=(1 hư hỏng/tháng)(300.000) +
220.000đ/tháng=520.000đ/tháng
Bước 4:
Chi phí từ việc hư hỏng không có hợp đồng bảo trì thấp hơn chi phí có hợp
đồng bảo trì, do vậy công ty nên tiếp tục duy trì chính sách không có hợp đồng bảo trì.
Bảo trì phòng ngừa thường là vấn đề kiểm tra để loại bỏ nhóm máy móc hay
toàn bộ phương tiện hơn là hoạt động liên tục cho đến khi nó bị hỏng.
Tóm lại, bảo trì phòng ngừa thích hợp khi:
- Ít có biến động trong thời gian hư hỏng, chúng ta biết được khi nào cần bảo trì.
- Có một hệ thống khả năng cung cấp dư thừa khi có đề xuất cần bảo trì.
- Chi phí hư hỏng rất tốn kém.
1.2.2 Bảo trì sửa chữa
Khi độ tin cậy không đạt được và bảo trì phòng ngừa không thích hợp hoặc không
được thực hiện, việc điều hành có thể mở rộng hoặc cải thiện điều kiện dễ dàng cho
sửa chữa. Các nhà điều hành tác nghiệp có thể trở lại hoạt động nhanh hơn nếu có các
điều kiện sửa chữa tốt. Việc bảo trì sửa chữa tiếp theo có thể được thực hiện và hệ
Trang 14
thống được đưa vào hoạt động trở lại. Một điều kiện bảo trì tốt bao hàm nhiều thuộc
tính như:
- Nhân viên được huấn luyện kỹ.
- Nguồn tài nguyên đầy đủ.
- Có khả năng thiết lập một kế hoạch sửa chữa.
- Có khả năng và thẩm quyền lập kế hoạch nguyên vật liệu.
- Có khả năng thiết kế các phương thức để kéo dài thời gian trung bình giữa các
hư hỏng (MTBF)
Dịch vu lĩnh
Người điều Phòng bảo trì vực của nhà Dịch vụ kho bãi
khiển máy sản xuất

Bảo trì phòng ngừa có chi phí thấp hơn và nhanh hơn di chuyển nó qua bên trái,
khi chúng ta chuyển qua phải thì chi phí cao hơn
Hình 3 : Tính liên hoàn của hình thức bảo trì được thực hiện
Các nhà điều hành tác nghiệp cũng có một quyết định chính sách để thực hiện như
tính liên tục cho mỗi nhiệm vụ bảo trì được tuân thủ theo, ổn định với điều hành đặt
biệt và trách nhiệm của người lao động, trong trường hợp bắt buộc thì chính người lao
động phải tự bảo trì trang thiết bị của họ. Như một quyết định nên để việc bảo trì về
bên trái trong hình 3. Tuy nhiên không phải mọi người lao động đều được huấn luyện
toàn bộ khả năng về sửa chữa trang thiết bị của họ.
Cho dù các chính sách và kỹ thuật bảo trì phòng ngừa được quyết định như thế nào
đi chăng nữa thì chúng cũng có tầm quan trọng đối với người lao động đảm nhận trách
nhiệm về bảo trì. Việc bảo trì của người lao động chỉ có thể là làm vệ sinh, kiểm tra và
quan sát sự thay đổi nhưng nếu mỗi người điều hành làm những công việc như vậy
trong khả năng của họ sẽ góp phần bảo dưỡng hệ thống làm việc.
1.2.3 Mô hình giả lập cho chính sách bảo trì
Các kỹ thuật giả lập có thể được sử dụng để đánh giá của các chính sách bảo trì
khác nhau (như kích cỡ của phương tiện thuận lợi) trước khi thực hiện chính sách đó.
Trang 15
Nhân sự tác nghiệp có thể quyết định có nên bổ sung thêm nhân viên bảo trì trên cơ sở
thoả hiệp giữa chi phí thời gian máy ngừng hoạt động và chi phí nhân công tăng thêm
hay không. Việc điều hành cũng có thể giả lập các bộ phận thay thế mà chưa bị hỏng
như là giải pháp ngăn chặn những hư hỏng trong tương lai. Nhiều công ty sử dụng các
mô hình giả lập được vi tính hoá quyết định nếu và khi ngừng toàn bộ nhà máy cho
công tác bảo trì. Ví dụ sau đây chỉ ra lợi ích trong việc giả lập xác định chính sách bảo
trì.
Ví dụ 6:
Công ty điện lực HIỆP PHƯỚC(HP) cung cấp điện cho một khu vực rộng lớn với
một chuỗi hầu hết 200 máy phát điện bằng nước. Ban quản lý nhận thấy ngay cả việc
bảo trì tốt thì máy phát điện cũng bị hư hỏng hoặc ngưng làm việc định kỳ. Nhu cầu về
năng lượng hơn 3 năm qua tăng ổn định, và công ty rất quan tâm đến thời gian ngưng

hoạt động của các máy phát điện. Công ty hiện tại mướn 4 thợ sửa máy với tay nghề
cao và trả lương cao (30 nghìn đồng mỗi giờ). Mỗi người làm việc thay đổi luân phiên
4 lần làm một lần và mõi lần 8 giờ. Trong phương thức này, có một người thợ sửa máy
chịu trách nhiệm 24 giờ một ngày và 7 ngày một tuần.
Nếu không thuê nhân viên bảo trì thì phí tổn về hư hỏng sẽ nhiều hơn. Với mỗi giờ
mà một máy phát điện bị ngừng hoạt động, thì công ty tổn thất xấp xỉ 75 nghìn đồng,
số tiền này là khoản phải trả cho nguồn điện dự trữ mà công ty HIỆP PHƯỚC phải
thuê mướn từ công ty gần đó.
Công ty đã thực hiện một phân tích điều hành vấn đề hư hỏng. HP chỉ ra rằng việc
giả lập là một công cụ khả thi vì xác suất tự nhiên của hai thành phần hệ thống bảo trì
quan trọng. Đầu tiên là thời gian giữa những lần máy phát điện hư hỏng Liên tiếp thay
đổi có tính lịch sử từ nhỏ như nửa giờ và lớn như 3 giờ. Với 100 hư hỏng qua, HP có
bảng thống kê được trình tự về các thời gian khác nhau mà máy móc hư hỏng (xem
bảng 10.8). Công ty cũng thiết lập được bảng phân bổ xác suât và phân chia sô "
khoảng cách thời gian ngẫu nhiên cho mỗi khung thời gian kỳ vọng.
Trang 16
Thời gian giữa những
lần máy hỏng được ghi
nhận
Số lần
quan sát
Xác suất
Xác suất
cộng dồn
Số lượng khoảng cách
ngầu nhiên
½ 5 0,05 0,05 01 đến 05
1 6 0,06 0,11 06 đến 11
1
½

16 0,16 0,27 12 đến 27
2 33 0,33 0,60 28 đến 60
2
½
21 0,21 0,81 61 đến 81
3 19 0,19 1,00 82 đến 100
100 1,00
Bảng 2 : Thời gian giữa những lần máy ngừng tại nhà máy điện
HP ghi chú rằng các thợ sửa máy ghi chép thời gian bảo trì của họ với các công
việc của nửa giờ. Thời gian một máy phát điện bị hư hỏng, các lần sửa chữa thông
thường được làm tròn là 1, 2 hoặc 3 giờ. Trong bảng 10.9, HP đã phát triển một phân
tích của các lần sửa chữa trong quá khứ, tương tự như số lần là hư hỏng được quan sát.
Thời gian sửa chữa
được yêu cầu (giờ)
Số lần quan
sát
Xác suất Xác suất cộng
dồn
Số lượng khoảng
cách ngẫu nhiên
1 28 0,28 0,28 01 đến 28
2 52 0,52 0,80 29 đến 80
3 20 0,20 1,00 80 đến 100
100 1,00
Bảng 3 : Số lần máy phát điện cần được sửa chữa
Mục tiêu của HP là xác định chi phí của dịch vụ bảo trì, chi phí hư hỏng máy móc
được giả lập và tổng chi phí bảo trì giả lập của hệ thống hiện tại. HP đã làm điểu này
bằng cách chọn lựa một dãy các số ngẫu nhiên để tạo ra số lần giả lập giữa các hư
hỏng của máy và một dãy thứ hai để giả lập số lần yêu cầu được sửa chữa. Một giả lập
với 15 lần máy hư được thể hiện trong bảng 4. Trong bảng này cần chú ý:

Cột 1: Thứ tự hư hỏng có thể xảy ra
Cột 2: Một con số để giả lập thời gian giữa những lẩn hư hỏng. Các con sổ trong
cột này được chọn từ Bảng 3 ở cột thứ nhì từ phải qua.
Cột 3: Được tính từ các số ngẫu nhiêu ở cột 2 và khoảng cách ngẫu nhiên được
Trang 17
định nghĩa ở bảng 10.8. SỐ ngẫu nhiên đầu tiên là 57 rơi vào khoảng cách từ 28 đến
60, nói lên thời gian 2 giờ từ lần hư hỏng trước đó.
Cột 4: Chuyển đổi từ cột 3 sang thời điểm thực trong ngày cho mỗi lần hư hỏng.
Sự giả lập này cho rằng ngày đầu tiến bắt đầu lúc nửa đêm (00:00). Vì khoảng cách
thời gian giữa không hư hỏng và hư hỏng ban đầu là 2 giờ, nên hư hỏng ban đầu được
ghi chép là lúc 2 giờ sáng.Hư hỏng thứ hai xẩy ra sau đó 1
1/2
giờ, tức lúc 3giờ30 sáng.
Cột 5: 2 giờ cho lần hư hỏng dầu tiên nếu chúng ta cho rằng thợ sửa máy dã bắt
đẩu làm việc lúc 0 giờ và không phải ngừng hoạt động từ mảy phát điện đầu tiên hư
hỏng. Tuy nhiên, trước khi ghi chép lại thời gian này cho lần thứ hai và những lần sau
đó, chúng ta phải kiểm tra cột 8 để biết được thời gian nào người thợ hoàn thành công
việc trước đó. Ví dụ nhìn vào lần hư hỏng thứ 7 xẩy ra lúc 15giờ (3 giờ chiều) nhưng
người thợ sửa chữa chưa hoàn thành công việc trước đó (lần hư hỏng thứ 6) mãi cho
đến lúc 16 giờ. Vì thế phải nhận vào cột 5 là 16 giờ.
Một sự thừa nhận khác nữa là mỗi người thợ sửa máy chỉ làm việc 8 giờ một ca.
Khỉ thay ca, người thợ này phải bàn giao lại cho người thợ tiếp theo. Người thợ mới
này phải tiếp tục làm việc với máy phát điện hư hỏng đó cho đến khi công việc được
hoàn thành. Không có thời gian thất thoát và chồng chéo giữa các công nhân. Vì vậy,
chi phí nhân công cho mỗi 24 giờ là chính xác 24 giờ X 30.000/giờ = 720.000 đổng.
Cột 6: Là con số được chọn từ cột bên phải đầu tiên của bảng 10.11, giúp để giả
định các lần sửa chữa.
Cột 7: Được tạo thành từ số ngẫu nhiên ở cột 6 và bàng 10.9 phân phối thời gian
sửa chữa. Số ngẫu nhiên đầu tiên 07 xuất hiện giời gian sửa chữa là 1 giờ, như vậy nó
thuộc khoảng 01 đến 28.

Cột 8: Là tổng của cột 5 cộng với cột 7. Như vậy, sửa chữa bắt đầu lúc 2giờ và
hoàn thành sau một giờ thì thời điểm hoàn thành ờ cột là 3gỉờ.
Cột 9: Là hiệu số của cột 8 trừ cột 4. Trong trường hợp hư hỏng thứ nhất, thì hiệu
số của nó là 1 giờ (03:00 - 02:00). Trong trường hợp hư hỏng thứ 10, hiệu số của nó
là 23:00 - 19:30 = 3
1/2
giờ.
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Trang 18
Số
lượng

hỏng
Số
lượng
hư hỏng
ngẫu
nhiên
Thời
gian
giữa
các hư
hỏng
Thời
gian
của hư
hỏng
Thời gian
thợ máy
nghỉ để

bắt đầu
sửa chữa
Số lượng
ngẫu
nhiên của
thời gian
sửa chữa
Thời
gian
cần
sửa
chữa
Thời
gian kết
thúc
sửa
chữa
Sô giờ
máy
bị
ngưng
hoạt
động
1 57 2 2:00 2:00 07 1 3:00 1
2 17 1
½
3:30 3:30 60 2 5:30 2
3 36 2 5:30 5:30 77 2 7:30 2
4 72 2
½

8:00 8:00 49 2 10:00 2
5 85 3 11:00 11:00 76 2 13:00 2
6 31 2 13:00 13:00 95 3 16:00 3
7 44 2 15:00 16:00 51 2 18:00 3
8 30 2 17:00 18:()0 16 1 19:00 2
9 26 1
½
18:30 19:00 14 1 20:00 1
1/2
10 9 1 19:30 20:00 85 3 23:00 3
1/2
11 49 2 21:30 23:00 59 2 1:00 3
1/2
12 13 1
½
23:00 1:00 85 3 4:00 5
13 33 2 1:00 4:00 40 2 6:00 5
14 89 3 4:00 6:00 42 2 8:00 4
15 13 1
½
5:30 8:00 52 2 10:00 4
1/2
Tổng cộng 44
Bảng 4 : Các tính toán giả lập với 15 lần máy hư
Phân tích chi phí của mô hình giả lập như sau:
Giả định là 15 hư hỏng của máy phát điện trong bảng 10.10 kéo dài một khoảng
thời gian là 34 giờ hoạt động. Bắt đầu lúc 00:00 ngày thứ nhất và chạy mãi cho đến
10:00 ngày thứ 2.
Yếu tố phản ánh làm cho HP quan tâm là tổng số giờ các máy phát điện ngừng hoạt
động (theo cột 9) được tính là 44 giờ. Công ty cũng lưu ý đến việc kết thúc thời kỳ giả

lập, một sự ùn tắc đã bắt đầu. Hư hỏng thứ 13 xảy ra lúc 1 giờ, nhưng nó không được
sửa tức thì mà chờ đến lúc 04 giờ. Tương tự các hư hỏng thứ 14 và 15 cũng bị trì hoãn.
Trang 19
HP xác định viết một chương trình vi tính để thực hiện hàng trăm sự hư hỏng giả lập,
nhưng những mong muốn đầu tiên phân tích dữ liệu và đã thu hoạch được kết quả
vượt trội.
HP đã tính toán các mục tiêu như sau:
Chi phí dịch vụ bảo trì = 34 giờ cho công nhân phục vụ x 30.000/giờ = 1.202.000 đồng
Chi phí hư hỏng máy móc giả lập = 44 giờ hư hỏng x thất thoát 75.000/giờ
= 3.300.000
Tổng chi phí bảo trì giả lập của hệ thống hiên tại = Chi phí sửa chữa + chi phí hư hỏng
= 4.320.000 đồng
Tổng chi phí 4.320.000 đồng cho HP lúc này được so sánh với những sự lựa
chon ít hoặc nhiều hấp dẫn hơn. Với ví dụ trên, thì điện lực HP có nên bổ sung toàn bộ
thời gian người thợ sửa máy thứ hai vào mỗi ca hay không? Hay là chỉ nên thêm vào
một người thợ sửa máy nữa và để cho người thợ đó vào làm trong mỗi 4 ca làm việc
để bắt kịp những công việc còn tồn đọng? Đây là hai phương án thay thế mà HP có thể
chọn để xem xét trong quá trình giả lập.
Như đã được đề cập ngay từ đầu, việc giả lập có thể được sử dụng trong các
vấn đề bảo trì khác, bao gồm cả việc phân tích bảo trì phòng ngừa. Có thể công ty điện
lực HP nên xem xét các chiến lược về việc thay đổi các động cơ máy phát điện, van,
mạng lưới điện, công tắc hoặc những bộ phận linh tinh khác mà thường bị hư hỏng
Cũng có thể là thay thế tất cả các bộ phận mà hay xảy ra hư hỏng trong bất kỳ động cơ
phát điện nào đó, hay sửa chữa hoặc thay thế tất cả các bộ phận sau một thời gian tu bổ
nào đó được căn cứ vào dòng đời phục vụ trung bình đã được ước tính. Sự lựa chọn có
thể được thực hiện lại bằng việc thiết lập các phân phối xác suất tỷ lệ hư hỏng, lựa
chọn các số ngẫu nhiên và những hư hỏng giả lập trong quá khứ và các chi phí chi liên
quan.
Bảng 5 - Bảng các số ngẫu nhiên
52 6 50 88 53 30 10 47 99 37 66 91 35 32 0 84 57 7

37 63 28 2 74 35 24 3 29 60 74 85 90 73 59 55 17 60
82 57 68 28 5 94 3 11 27 79 90 87 92 41 9 25 36 77
69 2 36 49 71 99 32 10 75 21 95 90 94 38 97 71 72 49
Trang 20
98 94 90 36 6 78 23 67 89 85 29 21 25 73 69 34 85 76
96 52 62 87 49 56 59 23 78 71 72 90 57 1 98 57 31 95
33 69 27 21 11 60 95 89 68 48 17 89 34 9 93 50 44 51
50 33 50 95 13 44 34 62 64 39 55 29 30 64 49 44 30 16
88 32 18 50 62 57 34 56 62 31 15 40 90 34 51 95 26 14
90 30 36 24 69 82 51 74 30 35 36 85 1 55 92 64 9 85
50 48 61 18 85 23 8 54 17 12 80 69 24 84 92 16 49 59
27 88 21 62 69 64 48 31 12 73 2 68 0 16 16 46 13 85
45 14 46 62 13 49 66 62 74 41 86 98 92 98 84 54 33 40
81 2 1 78 82 74 97 37 45 31 94 99 42 49 27 64 89 42
66 83 14 74 27 76 3 33 11 97 59 81 72 0 64 61 13 52
74 5 81 82 93 9 96 33 52 78 13 6 28 30 94 23 37 39
30 34 87 1 74 11 46 82 59 94 25 34 32 23 17 1 58 73
59 55 72 33 62 13 74 68 22 44 42 9 32 46 71 79 45 89
67 9 80 98 99 25 77 50 3 32 36 63 65 75 94 19 95 88
60 77 46 63 71 69 44 22 3 85 14 48 69 13 30 50 33 24
60 8 19 29 36 72 30 27 50 64 85 72 75 29 87 5 75 1
80 45 86 99 2 34 87 8 86 84 49 76 24 8 1 86 29 11
53 84 49 63 26 65 72 84 85 63 26 2 75 26 92 62 40 67
69 84 12 94 51 36 17 2 15 29 16 52 56 43 26 22 8 62
37 77 13 10 2 18 31 19 32 85 31 94 81 43 31 58 33 51
Trang 21
1.3 CÁC HỆ THỐNG CHUYÊN MÔN ĐƯỢC ÁP DỤNG DỂ BẢO TRÌ
Việc sử dụng các hệ thống chuyên môn là cung cấp tính hữu ích của các hệ
thống bảo trì. Các hệ thống chuyên môn trong bảo trì là giúp đỡ các nhân viên bảo trì
trong việc đơn lập và sửa chữa những hư hỏng khác nhau của máy móc và trang thiết

bị. Ví dụ như hệ thống DELTA của General electric hỗ trợ trong việc sửa chữa và bảo
trì đầu máy điện diesel. Để tách biệt vấn đề này, đầu tiên hệ thống đó thể hiện danh
mục các phạm vi hư hỏng có thể xảy ra. Sau đó, khi người sử dụng đã chọn được một
phạm vi hư hỏng, phần mềm sẽ hỏi một loạt các câu hỏi chi tiết để hướng dẫn và hỗ
trợ người sử dụng xác định nguyên nhân. Hệ thống Delta bao gồm khoảng 500 qui tắc,
trong đó 330 được dành để chẩn đoán hư hỏng và các thủ tục sửa chữa. Các câu hỏi
còn lại là để hướng dẫn, huấn luyên, hệ thống để trả lời các câu hỏi của người sử dụng.
Hệ thống giúp đỡ này trả lời các câu hỏi như đã được định vị của các thành phần và
phân loại rác của bộ phận thay thế.
1.4 THẨM ĐỊNH SỰ TIN CẬY VÀ BẢO TRÌ
Chúng ta có thể đánh giá mực độ được thực hiện chức năng của sự tin cậy và
bảo trì bằng nhiều cách khác nhau. Có nhiêu tiêu chí hữu dụng để đánh gía việc thực
hiện bảo trì, cụ thể như sau:
1. Hiệu quả được thể hiện trong định nghĩa cổ điển:
Hiệu quả =
2. Đối với trường hợp bảo trì:
Hiệu quả =
3. Hiệu quả được thể hiện bằng hiệu lực của lực lượng lao động bảo trì trên số
lượng trang thiết bị được bảo trì:
Hiệu quả =
Trang 22
4. Hiệu quả của các cá nhân và tập thể được thể hiện trong việc so sánh với các
giờ tiêu chuẩn:
Hiệu quả =
Có một hệ thống bền vững là một sự cần thiết. Mặc dù chúng ta đã nỗ lực hết mình
để thiết kế các bộ phận bền vững, nhưng đôi khi hệ thống vẫn hư hỏng. Do vậy, các bộ
phận dự phòng vẫn được sử dụng. Việc tăng cường độ tin cậy cũng có thể đạt được
thông qua việc sử dụng bảo trì phòng ngừa và các phương tiện sửa chữa tốt nhất. Các
hệ thống chuyên môn và việc thu thập các dữ liệu đầy đủ và phân tích sẽ trợ giúp cho
việc điều hành bảo trì và độ tin cậy. Các kỹ thuật giả lập cũng có thể hỗ trợ trong việc

xác định các chính sách bảo trì hiệu quả.
1.5 PHÂN BIỆT BẢO TRÌ VÀ BẢO HÀNH
Bảo trì Bảo hành
-Sửa chữa, thay thế máy móc có
tính phí
-Sửa chữa, thay thế máy móc, thiết bị hoàn toàn miễn
phí trong một thời hạn nhất định
-Có 2 hình thức là: bảo trì phòng
ngừa và bảo trì hu hỏng
Có 3 hinh thức: sửa chữa miễn phí, đổi mới miễn phí,
sửa chữa và thay thế linh kiện miễn phí
Trang 23
CHƯƠNG II:
TÌNH HÌNH THỰC TẾ TẠI TẬP ĐOÀN HOA SEN
2.1 VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ TẬP ĐOÀN HOA SEN
Ngày 8/8/2001, nhằm ngày 19-6 Âm lịch, là ngày vía Đức Quan Thế Âm Bồ
Tát, đánh dấu sự ra đời của Tập đoàn Hoa Sen. Tập đoàn Hoa Sen có trụ sở chính đặt
tại số 09 Đại lộ Thống Nhất, Khu Công nghiệp Sóng Thần 2, Phường Dĩ An, Thị xã Dĩ
An, Tỉnh Bình Dương.
CƠ CẤU TỔ CHỨC TẬP ĐOÀN HOA SEN
Trang 24
Tập đoàn có 03 Công ty con, 02 nhà máy sản xuất do Công ty mẹ quản lý và
hơn 108 Chi nhánh trải dài khắp cả nước.
Tập đoàn Hoa Sen lấy Hoa Sen - đã được chọn làm quốc hoa - làm tên gọi và
biểu tượng của mình. Điều đó có ý nghĩa triết lý: Vô nhiễm, trừng thanh, kiên nhẫn,
viên dung, thanh lương, hành trực, ngẫu không và bồng thực. Ngoài ra, với triết lý hoạt
động: TRUNG THỰC - CỘNG ĐỒNG - PHÁT TRIỂN, văn hóa doanh nghiệp của
Tập đoàn Hoa Sen là sự khác biệt, khẳng định sứ mệnh của một doanh nghiệp vì cộng
đồng và vì sự phát triển của đất nước, mà cụ thể Tập đoàn Hoa Sen đã đóng góp cho
nền kinh tế quốc gia nhiều sản phẩm chủ lực có giá trị cao, giải quyết công ăn việc làm

cho hàng ngàn lao động, tham gia và tài trợ cho các hoạt động từ thiện và xã hội.
Với nền tảng vững chắc được gầy dựng trong 11 năm qua, Tập đoàn Hoa Sen
đang từng bước khẳng định tầm vóc của một doanh nghiệp Việt Nam năng động trong
hội nhập kinh tế, khẳng định thương hiệu Việt mang đẳng cấp quốc tế.
2.2 TÌNH HÌNH BẢO TRÌ CỦA TẬP ĐOÀN HOA SEN
Quy trình sản xuất của HOA SEN thông qua nhiều quy trình và với nhiều máy
móc, thiết bị cần phải bảo trì để quá trình hoạt động sản xuất được thông suốt. Tuy
nhiên trong bài viết, nhóm chỉ tập trung vào việc bảo trì 5 loại máy chính (máy xả
cuộn, máy cán, máy nán phẳng, máy phủ Antifinger/cromic, máy cuốn cuộn), vì nó có
ảnh hưởng xuyên suốt đến toàn bộ quy trình sản xuất của HOA SEN.
Trang 25

×