Chăm sóc bệnh nhân đột quỵ tại nhà
Hầu hết những bệnh nhân sau đột quỵ thường không thể tự phục vụ mình
mà phải nhờ sự trợ giúp của người khác. Một vấn đề lớn đặt ra đó là việc chăm sóc
các bệnh nhân giai đoạn sau đột quỵ ở nhà như thế nào, đặc biệt là những bệnh
nhân còn hôn mê.
Đột quỵ là một hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi sự mất chức năng
não cấp tính kéo dài trên 24 giờ hoặc có thể sớm dẫn đến tử vong. Đột quỵ bao
gồm nhồi máu não (do tắc nghẽn mạch máu não) và xuất huyết não (máu chảy ra
tổ chức não). Đột quỵ thường xuất hiện đột ngột với các triệu chứng như đau đầu,
buồn nôn, chóng mặt, rối loạn tri giác (nặng có thể dẫn đến hôn mê ngay), liệt nửa
người, cấm khẩu.
Những chú ý khi chăm sóc bệnh nhân đột quỵ tại nhà
Trước hết phải cho bệnh nhân nằm ở phòng thoáng mát, đủ ánh sáng, tránh
ẩm ướt và tối. Giường nằm không nên kê sát tường, nên có khoảng trống xung
quanh để tiện cho việc lăn trở bệnh nhân.
Chăm sóc dinh dưỡng: Ở nhà ít có điều kiện để truyền dịch (đường, đạm)
cho bệnh nhân nên vấn đề nuôi dưỡng rất quan trọng. Với những bệnh nhân không
tự ăn được mà phải đặt sonde dạ dày, người chăm sóc phải biết cách cho ăn qua
sonde. Nuôi dưỡng bảo đảm 1.800-2.000 Kcal/ngày tương đương với 3-4
bữa/ngày, mỗi bữa bơm 500ml. Thành phần ăn thường có khoai tây, cháo đặc, thịt
nạc, giá, rau ngót hoặc rau cải cắt xay nhỏ nấu thành súp cho bệnh nhân, có thể
cho thêm 1-2 thìa dầu thực vật vào súp. Sau một thời gian có thể cho bệnh nhân
tập ăn qua đường miệng và rút dần sonde.
Với những bệnh nhân không đặt sonde dạ dày, ăn bằng đường miệng thì
nên chọn những thức ăn hợp khẩu vị với người bệnh. Chú ý cho người bệnh ăn từ
từ, tránh ép bệnh nhân vì có thể gây nghẹn, sặc rất nguy hiểm. Những bệnh nhân
có thêm bệnh lý tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng mỡ máu thì phải ăn theo chế
độ quy định.
Chăm sóc chống loét: Những bệnh nhân đột quỵ thường phải nằm lâu, nhất
là những bệnh nhân hôn mê, thì biến chứng rất thường gặp là loét. Thường gặp
loét ở những chỗ bị tỳ đè nhiều như vùng cùng cụt, hai gót chân, hai bả vai. Để
không có loét thì biện pháp chủ yếu là dự phòng loét vì khi đã có loét thì việc điều
trị sẽ phức tạp, khó khăn, thậm chí bệnh nhân có thể tử vong do nhiễm khuẩn
huyết hoặc quá suy kiệt.
Để dự phòng loét có một số biện pháp như: Cho bệnh nhân nằm trên đệm
hơi hoặc đệm nước; lăn trở thay đổi điểm tỳ cho bệnh nhân: cứ 2 giờ trở mình cho
bệnh nhân 1 lần (từ nằm ngửa sang nằm nghiêng phải hoặc trái). Hằng ngày xoa
bóp nhẹ nhàng những vùng bị tỳ đè nhiều, tuy nhiên không nên xoa bóp mạnh gây
trợt da. Vận động thụ động bên liệt để tránh co cứng cơ và giúp lưu thông tuần
hoàn.
Giữ gìn vệ sinh các vùng da bị tỳ đè nhiều: Hằng ngày 1-2 lần lau bằng
khăn mềm, ấm, sau đó lau khô bằng khăn mềm sạch, nhất là sau khi đi đại, tiểu
tiện. Khi lau tránh làm xây xát da, không nên bôi mỡ hay rắc bột kháng sinh vì gây
hạn chế hô hấp của da và gây ẩm càng dễ loét. Hằng ngày phải kiểm tra phát hiện
sớm các dấu hiệu chớm loét như ngứa, đau, thay đổi màu da như đỏ, tím để kịp
thời điều trị. Khi phát hiện ra các dấu hiệu chớm loét thì phải kê gối, đệm mềm tại
các nơi đó để tránh bị tỳ đè thêm, hoặc có thể dùng thuốc xịt sanyren để tránh loét.
Nếu đã có loét thì việc chăm sóc như sau: Thời gian đầu vết loét chưa lan
rộng chưa sâu, có thể là vết trợt da thì hằng ngày 1-2 lần rửa bằng nước muối sinh
lý và nước oxy già, dùng gạc tiệt khuẩn thấm khô, sau đó có thể bôi xanhmethylen
rồi dùng gạc vô khuẩn đắp lại. Tốt hơn có thể chiếu đèn tử ngoại vào vết loét. Nếu
vết loét sâu, rộng và có tổ chức hoại tử thì trước hết phải cắt lọc hết tổ chức hoại
tử, sau đó đắp gạc có NaCl 10% và thuốc tím, 1 ngày thay 1 lần. Hoặc có thể dùng
miếng băng urgosorb. Miếng băng này có tác dụng hút các tổ chức bẩn và hoại tử.
Khi vết loét có dấu hiệu hồi phục, vết loét nông dần, lên các tổ chức hạt thì
có thể bôi thêm cao sinh cơ.
Chăm sóc các biến chứng về hô hấp và tiết niệu: Ngoài biến chứng loét thì
ở những bệnh nhân sau đột qụy thường có những bệnh lý về đường hô hấp do nằm
lâu và ít vận động như viêm phổi, tắc nghẽn đường thở do ứ đọng đờm rãi. Cho
bệnh nhân ngồi dậy, vỗ rung vùng lưng hằng ngày để bệnh nhân dễ khạc được
đờm rãi. Nhiều bệnh nhân nặng hôn mê không có phản xạ khạc thì phải có máy
hút đờm tại nhà, có thể sử dụng khí dung 2 lần/ngày. Dung dịch làm khí dung bao
gồm 4ml berodual, một ống gentamycin và một ống a chymotripsin.
Bên cạnh bội nhiễm phổi thì nhiễm khuẩn đường tiết niệu cũng rất hay gặp
ở những bệnh nhân sau đột quỵ. Những bệnh nhân này thường đại tiểu tiện không
tự chủ, phải đặt capốt hoặc sonde tiểu và phải thụt tháo vì có táo bón. Vì vậy, hằng
ngày phải lau rửa vùng sinh dục tiết niệu, giữ khô ráo nhất là sau khi đi vệ sinh.
Những bệnh nhân đặt sonde tiểu thì rửa bàng quang hằng ngày. Chế độ ăn cần
nhiều rau xanh, chất xơ, uống đủ nước và xoa bóp bụng để tránh táo bón. Nếu
bệnh nhân có táo bón thì phải thụt tháo cách ngày.
Nhìn chung những bệnh nhân đột quỵ khi qua giai đoạn cấp thì vấn đề
chăm sóc, nuôi dưỡng, vận động phục hồi chức năng cho bệnh nhân rất quan
trọng, giúp bệnh nhân sớm hồi phục và sớm hòa nhập với cuộc sống.
Học cách tiếp cận bệnh nhân
Học cách tiếp cận được bệnh nhân là điều quan trọng nhất trước khi
bạn trợ thành một y tá trợ lý. Dưới đây là một số mẹo nhỏ giúp bạn tiếp cận
được với bệnh nhân của mình.
- Bước đi một cách từ tốn và đừng như cơn bão vào phòng bệnh nhân. Chỉ
đi một cách nhẹ nhàng, bình thường, đừng đi quá nhanh, hay chạy ào vào phòng vì
như thế sẽ làm bệnh nhân của bạn giật mình.
- Học cách lắng nghe những người chăm sóc bệnh nhân và nếu có điều gì
đó nghe không đúng thì cũng đừng nên bỏ qua chúng nhé!
- Nếu bạn chưa thích vị trí công việc, vẫn thích công việc hay muốn rời
khỏi công việc của mình, chỉ việc nói với bộ phận nhân sự “Tôi không cảm thấy
thoải mái ở đây” hay “Công việc này không còn phù hợp với tôi nữa. Tôi không
thoải mái khi ở đây”.
Điều này là cách bạn muốn rời khỏi công việc này như thế nào mà không bị
những lời xỉa xói sau lưng như những người chuyên kiêu căng, bạn rời khỏi công
việc này chỉ vì bạn không thích cách bệnh nhân ở đây được điều trị.