Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tiêu Chảy Do Thuốc - Điều Trị Thế Nào? pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.65 KB, 6 trang )

Tiêu Chảy Do Thuốc - Điều Trị Thế Nào?
Tiêu chảy do thuốc có thể được chia làm 3 dạng chính tùy theo đặc
điểm của phân: tiêu chảy lỏng như nước: có thể do sự thay đổi trong vận
chuyển ion, rút ngắn thời gian lưu chuyển trong ruột hoặc tăng nhu động
ruột; tiêu chảy do viêm; tiêu chảy phân có mỡ. Các dạng tiêu chảy này có thể
xảy ra riêng biệt hoặc đồng thời với nhau.
Tiêu chảy lỏng
Tiêu chảy lỏng do thuốc có thể do thẩm thấu, tăng bài tiết hoặc gây rối loạn
nhu động ruột.
Tiêu chảy thẩm thấu xảy ra do sử dụng các phân tử không hoặc ít có khả
năng hấp thu gây giữ nước ở trong lòng ruột, thường gặp nhất là các loại muối
chứa magiê, sodium phosphate hoặc polyethylene glycol ở trong các thuốc xổ
hoặc nhuận tràng. Một số loại đường cao phân tử cũng có khả năng gây tiêu chảy
với đặc điểm chung là sự rối loạn quá trình tiêu hoá, hấp thu hoặc cả hai gây rút
nước vào trong lòng ruột. Các loại đường thường được sử dụng với mục đích gây
xổ hoặc nhuận tràng là lactulose (một loại đường disaccharide tổng hợp thường
dùng trong điều trị táo bón hoặc bệnh não gan), fructose, sorbitol và mannitol.
Tiêu chảy do các loại đường này thường xảy ra từ 24 đến 48 giờ sau khi sử
dụng. Acarbose và miglitol, các thuốc được sử dụng trong điều trị tiểu đường theo
cơ chế ngăn chặn quá trình phân huỷ đường trong ruột bằng cách ức chế men
alpha-glucosidase, cũng có thể gây tiêu chảy ở khoảng 30% số người dùng thuốc.
Lưu ý là một số trường hợp tiêu chảy do acabose có thể tự thuyên giảm dần trong
quá trình dùng thuốc. Tiêu chảy do bài tiết thường có số lượng phân rất lớn bất
chấp việc nhịn đói, nguyên nhân thường là các loại thuốc gây tăng sự bài tiết của
các ion dẫn đến kéo nước vào trong lòng ruột hoặc gây giảm mạnh sự hấp thu của
nước và điện giải ở trong lòng ruột. Các loại thuốc gây ra tiêu chảy bài tiết thông
qua hai cơ chế chính là ức chế sự hấp thu ion Na+ và kích thích sự bài tiết ion Cl- /
HCO3- .
Theo cơ chế thứ nhất, các thuốc thường gặp là digoxin (ở nồng độ trên mức
điều trị, đặc biệt là ở người già), auranofin (gây tiêu chảy ở 74% số người dùng
thuốc), quinidine và propafenone (gây tiêu chảy ở 8 - 30% số người dùng thuốc).


Theo cơ chế thứ hai, các thuốc thường gặp là olsalazine (thường được dùng trong
điều trị viêm loét đại trực tràng, gây tiêu chảy ở 12 - 25% số người dùng thuốc),
sulfasalazine và mesalazine. Bên cạnh hai cơ chế trên, một số thuốc còn có thể gây
tiêu chảy bài tiết theo nhiều cơ chế khác như theophylline, misoprostol,
chenodeoxycholic acid, ursodiol, colchicine, dẫn xuất diphenylmethane,
anthraquinone, diacerein, docusate…
Các thuốc gây rối loạn điều hoà nhu động ruột cũng có thể gây ra tiêu chảy
ở các mức độ khác nhau. Nhu động ruột tăng lên khiến thời gian thức ăn lưu trong
ruột bị giảm sút, dẫn đến giảm sự hấp thu ở niêm mạc ruột và gây ra tiêu chảy.
Cisapride và tegaserod kích thích thụ thể 5-HT4, làm tăng nhu động ruột và đẩy
nhanh việc lưu chuyển thức ăn qua ruột, dẫn đến tiêu chảy trong một số trường
hợp. Các thuốc ức chế men acetylcholinesterase dùng trong điều trị bệnh
Alzheimer có tác dụng tăng co thắt và gây ra tiêu chảy ở 14% số người dùng
thuốc. Một số thuốc khác cũng có thể gây tiêu chảy thông qua việc làm tăng nhu
động ruột là neostigmine, irinotecan, levothyroxine (liều cao), ticlopidine…
Tiêu chảy do viêm

Hơn 700 loại thuốc khác nhau được biết có thể gây ra biểu hiện tiêu chảy,
chiếm xấp xỉ 7% tổng số các phản ứng phụ do thuốc, tuy nhiên, cơ chế gây bệnh
chính xác còn chưa được biết rõ với nhiều loại thuốc. Bình thường, hoạt động
chức năng của đường tiêu hoá được đảm bảo thông qua sự phối hợp của các hệ
thống thần kinh, thể dịch và nội tiết để điều hoà các chức năng thẩm thấu, vận
chuyển, nhu động và chuyển hoá của đường tiêu hoá. Những loại thuốc gây ảnh
hưởng đến các cơ chế điều hoà này theo những con đường khác nhau đều có thể
gây ra biểu hiện tiêu chảy.
Các thuốc có thể gây tiêu chảy do viêm thông qua một số cơ chế như phá
huỷ trực tiếp niêm mạc ruột (với các thuốc chống viêm giảm đau không phải
steroid như mefenamic acid, flufenamic acid và các kháng sinh polyene), kích
thích phản ứng viêm tại ruột (với một số thuốc ức chế miễn dịch như mycophenol
mofetil, cyclophosphamide và hoá chất chống ung thư như 5-fluorouracil,

irinotecan, methotrexate và cisplatin), hoặc gây tổn thương các mạch máu ở đường
tiêu hoá (với ergotamine và cocaine).
Kháng sinh là nguyên nhân của khoảng 25% tổng số các trường hợp tiêu
chảy do thuốc. Hai cơ chế quan trọng nhất gây tiêu chảy do viêm bởi các loại
kháng sinh là gây loạn khuẩn đường ruột và viêm ruột giả mạc do nhiễm vi khuẩn
Clostridium difficile. Viêm ruột giả mạc do nhiễm vi khuẩn Clostridium difficile
thường xảy ra với các kháng sinh clindamycin, amoxicillin, ampicillin và nhóm
cephalosporin. Vi khuẩn Clostridium difficile có khả năng tiết ra các độc tố gây
viêm ruột, dẫn đến tiêu chảy. Trong trường hợp này, tiêu chảy có thể xảy ra sau
khi bắt đầu dùng kháng sinh vài ngày và kéo dài tới 8 tuần sau khi ngừng thuốc.
Ngoài các thuốc kể trên, một số thuốc khác cũng được ghi nhận gây tiêu
chảy do viêm là erlotinib, gefitinib, sorafenib, imatinib, bortezomib và
isotretinoid.
Tiêu chảy phân có mỡ
Đây là dạng tiêu chảy gây giảm hấp thu, suy dinh dưỡng và người bệnh bị
sụt cân nhanh chóng. Nguyên nhân thường gặp do thuốc của dạng tiêu chảy này là
các thuốc diệt virut như didanosine (17- 28% số người sử dụng), abacavir (3-5%
số người sử dụng) và ritonavir (có thể tới 52% số người sử dụng). Orlistat (dùng
trong điều trị giảm cân) cũng có thể gây mỡ ở trong phân nếu chế độ ăn có nhiều
chất béo. Việc sử dụng kéo dài các kháng sinh tại chỗ như neomycin, polymixin
và bacitracin có thể gây phá huỷ niêm mạc ruột dẫn đến giảm hấp thu chất béo và
gây tiêu chảy có mỡ trong phân. Một số thuốc khác cũng được ghi nhận có thể gây
dạng tiêu chảy này là metformin, octreotide liều cao, L-dopa, allopurinol,
tetracycline và mefanamic acid.
Điều trị tiêu chảy do thuốc nói chung thường đòi hỏi giảm liều hoặc ngưng
sử dụng tác nhân gây bệnh, một số trường hợp chia nhỏ liều cũng có thể đem lại
hiệu quả. Những trường hợp mất nước nhiều có thể phải bù dịch bằng đường uống
hoặc tiêm truyền, nếu tiêu chảy kéo dài, cần bổ sung dinh dưỡng và các yếu tố vi
lượng cho người bệnh. Những trường hợp có nhiễm trùng đi kèm ở ruột cần phải
được kết hợp điều trị. Điều trị giảm triệu chứng với loperamide, diphenoxylate

hoặc bismuth subsalicylate có thể cần thiết trong một số trường hợp tiêu chảy
nặng.

×