Nhồi máu não và thuốc điều trị
Mạch máu bị tắc nghẽn gây nhồi máu não.
Nhồi máu não (thiếu máu não cục bộ, nhũn não) xảy ra khi một mạch
máu bị tắc, nghẽn, khu vực tưới bởi mạch đó bị thiếu máu và hoại tử. Ở
Pháp, nhồi máu não chiếm khoảng 80 - 85% trong tổng số các bệnh nhân tai
biến mạch máu não (TBMMN); Việt Nam, nhồi máu não chiếm khoảng 60%.
TBMMN là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 sau các bệnh lý về tim
mạch và ung thư, đồng thời là một bệnh gây tàn phế mắc phải đứng hàng thứ
nhất ở người trưởng thành, là gánh nặng cho gia đình bệnh nhân và xã hội.
Điều trị nhồi máu não cần điều trị triệu chứng, điều trị bệnh ở giai đoạn cấp
và điều trị dự phòng tái phát
Điều trị triệu chứng
- Nhập viện và nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường ở giai đoạn cấp để giữ tưới
máu não tốt.
- Bảo đảm thông thoáng đường hô hấp để tránh những biến chứng phổi liên
quan đến hít vào hoặc ứ tiết phế quản: Ngừng cho ăn bằng đường miệng trong
trường hợp rối loạn ý thức và rối loạn nuốt; Hút đờm rãi; thở ôxy qua ống thông
mũi nếu cần; đặt nội khí quản hoặc thở máy khi cần thiết; vỗ rung phổi; tư thế nửa
nằm - nửa ngồi sau 2 - 3 ngày khi tình trạng huyết động học cho phép.
- Bảo đảm huyết áp (HA) động mạch: Tăng HA gặp khoảng 85% trong
nhồi máu não, đó là tăng HA thứ phát hay gặp do phản ứng thực vật để giữ lưu
lượng máu não, vì vậy khi hạ HA sẽ gây nhồi máu não nặng lên, nhất là trong
những trường hợp hẹp động mạch nặng; phải theo dõi HA nhiều ngày, nếu có thể
với monitoring trong trường hợp tăng HA không ổn định; hạ HA phải hạ từ từ, vừa
phải; không dùng những thuốc hạ HA nhanh (adalate dưới lưỡi).
Bảo đảm tốt chức năng của tim: Theo dõi qua monitoring tim trong thời
gian ít nhất 48 giờ; điều trị thuốc chống loạn nhịp nếu có; điều trị triệu chứng của
suy tim.
- Bảo đảm thăng bằng nước, điện giải và dinh dưỡng: Truyền G5% + điện
giải trong những ngày đầu (cần kiểm soát tốt đường máu và natri máu); ăn bằng
đường miệng nếu tình trạng ý thức cho phép hoặc cho ăn bằng ống thông dạ dày
khi bệnh nhân có rối loạn ý thức hay rối loạn nuốt.
- Điều trị dự phòng các biến chứng tắc mạch: thuốc chống đông với liều dự
phòng.
- Chỉ điều trị thuốc chống động kinh khi có chẩn đoán chắc chắn.
- Điều trị chống phù não: không đặt ra vì ngày đầu phù não do ngộ độc tế
bào không tác dụng với mannitol, hơn nữa còn có nguy cơ gây phù não thứ phát.
- Chăm sóc: nằm đệm nước, thay đổi tư thế nằm 4giờ/lần, xoa bóp vùng tì
đè, chăm sóc mắt và miệng, đặt ống thông bàng quang nếu cần.
- Tập phục hồi chức năng: Tập vận động thụ động lúc đầu sau đó chủ động;
Tập phục hồi chức năng ngôn ngữ sớm trong trường hợp nói khó.
- Theo dõi: Theo dõi sát mạch, HA, ý thức, tần số thở, tình trạng thần kinh
4giờ/lần; theo dõi nhiệt độ và lượng nước tiểu 8 giờ/lần; phát hiện rối loạn nuốt để
đặt ống thông dạ dày; phát hiện và điều trị sớm viêm phổi và đường tiết niệu.
Điều trị thuốc chống đông ở giai đoạn cấp
Thuốc chống đông không có tác dụng làm tan cục huyết khối nhưng làm
hạn chế phát triển và phòng tái phát.
Heparine (bơm điện) được chỉ định trong giai đoạn cấp với liều lượng vừa
phải, mục đích đạt TCA 1,5 - 2 lần so với chứng tùy thuộc từng trường hợp với
kiểm soát hằng ngày tình trạng cầm máu.
Chỉ định: Nhồi máu não thứ phát sau bệnh tim gây tắc mạch (trừ trường
hợp viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và u nhầy tiểu nhĩ trái); thiếu máu não cục bộ
hình thành đang tiến triển nặng lên; bóc tách ĐM vùng cổ ngoài sọ.
Chống chỉ định: Loét dạ dày tá tràng hoặc các bệnh chảy máu khác; nhồi
máu não rộng; nhồi máu xuất huyết; rối loạn ý thức.
- Sau giai đoạn thuốc chống đông có thể dùng thuốc kháng vitamin K hoặc
thuốc chống ngưng tập tiểu cầu. Trong trường hợp nặng lên khi dùng thuốc chống
đông cần chụp cắt lớp vi tính sọ não lần 2 để tìm biến chứng nhồi máu xuất huyết.
Điều trị dự phòng tái phát
Điều trị tốt các yếu tố nguy cơ của TBMMN: kiểm soát tốt HA; ngừng hút
thuốc lá; kiểm soát tốt đường máu; chế độ ăn kiêng mỡ động vật và điều trị tăng
cholesterol máu; bóc lớp áo trong của ĐM cảnh khi hẹp trên 70%.
Điều trị thuốc chống ngưng tập tiều cầu: aspirin 100 - 300mg/ngày x 3
tháng trong trường hợp nhồi máu não lần đầu hoặc thiếu máu não cục bộ thoảng
qua; 6 tháng trong trường hợp nhồi máu não tái phát (cần tuân thủ chống chỉ định).
Điều trị thuốc kháng vitamin K trong trường hợp nhồi máu não có nguồn
gốc từ tim.