Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

LỜI NÓI ĐẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.61 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, thời đại của chúng ta là thời đại mang xu hướng toàn cầu
hoá và khu vực hoá. Hoà nhập với không khí này, Việt nam vừa gia nhập và
là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Khi được trở thành viên
của tổ chức thương mại thế giới thì đồng nghĩa Việt Nam cũng gặp nhiều
khó khăn và đồng thời cũng gặt hái được nhiều thành công. Để thu được kết
quả tốt từ quá trình hội nhập chúng ta phải đánh giá, nhận định về cơ hội
cũng như là thách thức đang đặt ra, chúng ta phải biết đâu là thế mạnh mình
phải phát huy và đâu là điểm yếu cần phải khắc phục. Và đặc biệt hơn nữa
chúng ta phải nhận định được xu hướng đi chung của Thế giới, những yếu tố
nào các nước đang chú trọng.
Chính vì điều đó, mà chúng ta thấy rằng thị trường chứng khoán trên
thế giới hiện nay là một trường nóng bỏng và có nhiều triển vọng đi lên. Nó
không chỉ là một kênh huy động vốn có hiệu quả cho hoạt động đầu tư trong
nền kinh tế mà còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế diễn ra
suôn xẻ hơn. Cho nên nhóm 9 đã cùng nhau thảo luận đề tài : “Thực trạng
và đánh già hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các trung gian trên thị
trường chứng khoán”.
II. Thực tiễn QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian vừa qua
2.1.Hoạt động phát hành chứng khoán
2.1.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh và TPCQĐP
TPCP (gồm Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu kho bạc, Trái phiếu công trình
trung ương, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng tổ
quốc) và TPCQĐP là công cụ huy động vốn để bù đắp bội chi ngân sách,
thực hiện các chương trình trọng điểm của quốc gia và địa phương, đồng
thời là công cụ để Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hành lang pháp lý
cho việc phát hành các loại trái phiếu này đã được Chính phủ từng bước
hoàn thiện. Ngày 20/1/2003,Chính phủ đã ban hành Nghị định
141/2003/NĐ-CP về việc phát hành TPCP, TPCQĐP và trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh thay thế cho Nghị định 01/2000/NĐ-CP.


Theo các quy định mới này thì TPCP và TPCQĐP đều do Chính phủ quy
định (trừ Công trái xây dựng tổ quốc tuân theo quy định tại pháp lệnh số
12/1999/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Theo Nghị định
141/2003/NĐ-CP, thì Chính phủ là chủ thể phát hành các loại TPCP, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành TPCQĐP. Song các chủ thể này có
thể chuyển quyền cho các cơ quan chức năng trực thuộc như KBNN, Bộ Tài
chính, hoặc các tổ chức tài chính, tín dụng chịu trách nhiệm này. Bộ Tài
chính chịu trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc phát hành, sử dụng,
thanh toán các loại TPCP, xây dựng phương án phát hành trái phiếu công
trình trung ương để trình Chính phủ quyết định; tổ chức việc phát hành trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu ngoại tệ và công
trái xây dựng tổ quốc; thẩm định phương án và giám sát toàn bộ quá trình
phát hành trái phiếu chính quyền địa phương; thoả thuận với các tổ chức
phát hành về phương án phát hành, kế hoạch triển khai đối với trái phiếu đầu
tư của Chính phủ và trái phiếu công trình được Chính phủ bảo lãnh; quyết
định lãi suất trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương; quyết định
lãi suất trần của trái phiếu đầu tư, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, quyết
định biên độ giới hạn lãi suất TPCQĐP. NHNN chịu trách nhiệm phối hợp
với Bộ Tài chính tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ qua
NHNN, tham gia với Bộ Tài chính trong việc xây dựng lãi suất TPCP và trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh, tổ chức mua lại nguồn ngoại tệ thu được từ
việc phát hành trái phiếu ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước và
bán ngoại tệ cho Bộ Tài chính để thanh toán tiền gốc và lãi trái phiếu khi đến
hạn, chỉ đạo các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu đầu tư theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ.
UBCKNN chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức phát hành
TPCP thông qua hình thức đấu thầu tại TTCK, quản lý và giám sát các hoạt
động niêm yết và giao dịch trái phiếu qua thị trường giao dịch chứng khoán
tập trung.
2.1.2. QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp

PHCK là một hoạt động kinh tế hết sức nhạy cảm, vì tuy là giai đoạn đầu
nhưng nó hàm chứa nhiều yếu tố dẫn đến rủi ro của TTCK. Nó được ví như
con dao hai lưỡi, có thể đem lại một nguồn vốn to lớn cho đầu tư phát triển
kinh tế, nhưng nếu không được quản lý tốt sẽ gây khủng hoảng cho TTCK,
gây thiệt hại xấu cho người đầu tư và thông qua đó ảnh hưởng xấu tới nền
kinh tế đất nước.
Ơ Việt Nam, từ khi TTCK còn ở giai đoạn manh nha, hoạt động chưa có
tổ chức cho tới nay, pháp luật đã có những quy định cụ thể về chứng khoán
và PHCK. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK của các
doanh nghiệp đã được Nhà nước ban hành tương đối cụ thể và hoàn thiện
từng bước. Các văn bản pháp lý chung cung cấp các cơ sở pháp lý về PHCK
doanh nghiệp đã được Nhà nước ban hành, sửa đổi và hoàn thiện như Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật
Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn Luật…đã góp phần tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động PHCK.
Theo quy định của pháp luật về quyền PHCK của các doanh nghiệp đó là
: DNNN được phát hành trái phiếu, cổ phiếu; CtyCP được phép phát hành cổ
phiếu, trái phiếu; các NHTM quốc doanh được phép phát hành trái phiếu
NHTM; DNNN CPH được phát hành cổ phiếu. Việc Nhà nước cho phép
nhiều đối tượng khác nhau được PHCK góp phần tạo ra sự đa dạng về hàng
hoá cho TTCK, đặc biệt là thị trường tập trung. Các loại chứng khoán được
phép phát hành và giao dịch trên TTCK Việt Nam bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán phái sinh, các giao dịch về các
loại hình chứng khoán phái sinh đã bắt đầu manh nha hình thành nhưng vẫn
còn ít. Trên TTCK hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ
đang được giao dịch. Trên phương diện pháp lý, có hai phương thức phát
hành cơ bản là phát hành riêng lẻ và PHCK ra công chúng. Tuy vậy, Luật
Chứng khoán chứng khoán chỉ điều chỉnh hoạt động PHCK ra công chúng.
Các điều kiện PHCK ra công chúng đã được Chính phủ điều chỉnh linh
hoạt cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế trong từng thời kì. Nếu như

trước kia Nghị định 48/1998/NĐ-CP quy định khá chặt chẽ các điều kiện
PHCK ra công chúng ( doanh nghiệp có vốn điều lệ 10 tỷ đồng, hoạt động
kinh doanh có lãi trong hai năm liên tục gần nhất, thành viên HĐQT phải có
kinh nghiệm quản lý kinh doanh, có phương án khả thi việc sử dụng vốn thu
được từ đợt chào bán,..). Số vốn điều lệ là 10 tỷ đồng khi đó là một yêu cầu
khá cao cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đó nên chưa tạo điều kiện
khuyến khích doanh nghiệp PHCK, mặt khác, quy định về kinh nghiệm quản
lý và kinh doanh của HĐQT và giám đốc lại là một quy định chủ yếu mang
tính định tính, khó xác định. Trong Nghị định 144/2003/NĐ-CP đã giảm bớt
và nới lỏng các điều kiện này: doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 5 tỷ đồng
đối với phát hành cổ phiếu và trên 10 tỷ đồng đối với phát hành trái phiếu,
hoạt động kinh doanh liền trước năm đăng kí phải có lãi, có phương án khả
thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được; nếu phát hành trái phiếu
thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành và xác định đại diện người sở hữu trái
phiếu. Sự nới lỏng này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong việc tiếp cận công chúng để huy động vốn, vừa góp phần thúc đẩy
TTCK Việt Nam phát triển. Tuy vậy, theo Luật Chứng khoán thì điều kiện
để PHCK đối với các doanh nghiệp đã được thắt chặt hơn. Theo đó, đối với
phát hành cổ phiếu: doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ tại thời điểm
đăng kí chào bán phải là 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế
toán, hoạt động năm liền trước năm đăng kí chào bán phải có lãi…; đối với
các công ty mới thành lập trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc lĩnh vực công
nghệ cao tiến hành chào bán chứng khoán ra công chúng đợt đầu phải có tổ
chức bảo lãnh phát hành và phải có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn thu
được từ đợt chào bán. Đối với phát hành trái phiếu thì yêu cầu vốn điều lệ đã
góp tại thời điểm đăng kí chào bán tối thiểu 10 tỷ đồng, hoạt động kinh
doanh của năm liền trước năm đăng kí chào bán phải có lãi,…Đối với việc
phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư là tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng kí chào
bán tối thiểu 50 tỷ đồng…Như vậy, các điều kiện phát hành được yêu cầu
cao và chặt chẽ hơn bởi xét theo tình hình mới của nền kinh tế, có rất nhiều

doanh nghiệp thoả mãn được điều kiện trên, đồng thời để tạo tiền đề tăng
cung hàng hoá có chât lượng cho TTCK.
Các thủ tục trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng đã được
Chính phủ hoàn thiện theo hướng đơn giản hoá, rút ngắn thời gian làm thủ
tục cho doanh nghiệp. Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP thì thời hạn
UBCKNN trả lời việc cấp hay từ chối là 45 ngày kể từ ngày nhận đủ bộ hồ
sơ hợp lệ. Tuy vậy, theo nghị định 144 và sau đó là tới quy định theo Luật
Chứng khoán thì thời gian này rút xuống còn 30 ngày. Bộ Tài chính cũng đã
ban hành Thông tư 93/2005/TT-BTC để sửa đổi Thông tư 60/2004/TT-BTC
hướng dẫn việc PHCK ra công chúng, trong đó đã bỏ hẳn yêu cầu TCPH
phải nộp hồ sơ quyết toán thuế khi muốn phát hành ra công chúng. Việc phát
hành cổ phiếu để trả cổ tức hay việc phát hành thêm cổ phiếu thưởng để tăng
vốn điều lệ từ nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đòi hỏi hồ sơ đăng kí phát hành
gồm đơn đăng kí phát hành, quyết định của Đại hội đồng cổ đông và bản
giải trình nguồn vốn hợp pháp để phát hành thêm. Đây là những quy định
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Việc tổ chức xét duyệt và cấp chứng nhận đăng kí PHCK ra công chúng
cho các TCPH đã được UBCKNN đảm bảo đúng quy định. Theo Quyết
định 301/QĐ-UBCKNN do Chủ tịch UBCKNN ban hành vào ngày 9/5/2006
thì hiện tại UBCKNN đảm nhận việc cấp chứng nhận đăng ký PHCK ra
công chúng, cấp phép niêm yết, cấp phép hoạt động cho các tổ chức kinh
doanh theo một quy trình gồm 6 bước: tiếp nhận hồ sơ; thẩm tra hồ sơ; phân
tích, lập báo cáo trình lên Chủ tịch UBCKNN và Hội đồng xét duyệt; họp
Hội đồng xét duyệt; hoàn tất thủ tục cấp phép; công bố cấp phép. Quy trình
này tương đối chặt chẽ, đảm bảo sự giám sát của các bộ phận chức năng liên
quan và đảm bảo được tính khách quan của bộ phận xét duyệt.
Theo quy định của Luật Chứng khoán, TCPH thực hiện việc chào bán
chứng khoán ra công chúng phải đăng kí với UBCKNN ( trừ chào bán TPCP
và trái phiếu của tổ chức tài chính quốc tế được Chính phủ Việt Nam chấp
thuận, cổ phiếu của các DNNN mới chuyển thành CtyCP và chào bán chứng

khoán theo quyết định của toà án). UBCKNN có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ
việc chào bán chứng khoán ra công chúng nếu như TCPH vi phạm, không
thực hiện được các điều kiện đặt ra. Cũng theo Luật Chứng khoán, các
TCPH đã hoàn thành việc chào bán cổ phiếu ra công chúng trở thành công ty
đại chúng và phải thực hiện nghĩa vụ của công ty đại chúng theo quy đinh
của pháp luật.
Công tác QLNN đối với việc PHCK đã đạt được bước đầu thuận lợi, tuy
vậy vẫn còn tồn tại một sô hạn chế làm giảm hiệu quả của hoạt động này.
Đối với việc phát hành TPCP thì hạn chế bắt nguồn từ lãi suất chỉ đạo của
Bộ Tài chính còn thấp, chưa thực sự hấp dẫn, phương thức trả lãi thiếu linh
hoạt. Bộ Tài chính vừa phát hành trái phiếu qua đấu thầu, vừa phát hành trái
phiếu bán lẻ qua KBNN trong cùng một thời gian với cùng một kì hạn trái
phiếu, cùng một lãi suất đã không khuyến khích các tổ chức tài chính trung
gian đấu thầu TPCP để bán lại trên thị trường thứ cấp. Việc phát hành TPCP
qua hệ thống KBNN thường dài trong nhiều tháng, hình thức phát hành
TPCP chủ yếu là dưới dạng chứng chỉ, trái phiếu kho bạc thì thường phát
hành dưới dạng chứng chỉ có ghi tên người nắm giữ. Điều này làm tăng chi
phí cho lưu kí chứng khoán, sau đó vừa làm cho TPCP khó đáp ứng các yêu
cầu cần thiết để giao dịch trên TTCK thứ cấp. Bên cạnh đó, chúng ta còn
chưa hình thành hệ thống phân phối TPCP trên thị trường sơ cấp, năng lực
bảo lãnh và làm đại lý phát hành của các tổ chức nhận bảo lãnh và phát hành
còn hạn chế, cho nên tồn tại khối lượng lớn TPCP do các tổ chức này giữ lại
mà không phân phối ra công chúng. Việc quy định lãi suất trần trong đấu
thầu TPCP quá thấp so với lãi suất huy động vốn bình quân trên thị trường
đã làm cho nhiều phiên đấu thầu TPCP có kết quả thấp. Khối lượng đăng kí
tương đối cao, bình quân gấp 3,65 lần khối lượng gọi thầu nhưng tỷ lệ thành
công lại theo chiều hướng giảm dần (nếu như trong quý I/2007 tỷ lệ này là
99% thì đến quý II/2007 giảm xuống còn 82,46%, và đến cuối quý III/2007
con số này chỉ còn 58,39%). Ví dụ như TPCP kì hạn 5 năm thì mức lãi suất
trần quy định là 7,05-7,9%, kì hạn 10 năm là 7,95-8,6%, 15 năm là 8-8,8% ,

trong khi đó trái phiếu các doanh nghiệp phát hành lại đưa ra mức lãi suất
khá hấp dẫn, tính thanh khoản cao hơn hẳn TPCP khiến các nhà đầu tư đổ
dồn vào trái phiếu doanh nghiệp và không mặn mà với TPCP ( ví dụ,
NHTMCP A Châu vừa phát hành thành công 2.250 tỷ đồng trái phiếu với lãi
suất 8,6%/năm; Tổng công ty Xây dung dịch vụ Việt Nam VINECO cũng
vừa chào bán thành công 5 triệu trái phiếu kì hạn 5 năm, lãi suất cố định là
10,15%/năm, số lượng đăng kí mua trong đợt phát hành này lên tới 11,1
triệu trái phiếu). Bên cạnh đó, tâm lý lo ngại lạm phát có xu hướng gia tăng
khiến mức lãi suất TPCP ( chỉ khoảng trên dưới 7-8%) không đủ bù đắp lại
mức tăng giá do lạm phát mà các nhà đầu tư trong nước phải gánh chịu.
Riêng nhà đầu tư nước ngoài thì còn tồn tại lo ngại liên quan đến chính sách
điều hành tỷ giá của NHNN nên vẫn chưa mặn mà với trái phiếu nói chung
và TPCP nói riêng. Trước đây, nhà ĐTNN hy vọng rằng đồng Việt Nam sẽ
mạnh lên do các luồng vốn từ nước ngoài đổ vào tạo sức ép tăng giá đồng
nội tệ, nhưng NHNN vẫn duy trì chính sách đồng tiền Việt Nam giảm giá và
thường mức trung bình từ 1%/1 năm. Tỷ giá bị chênh lệch mất 1% cộng với
lạm phát gia tăng khiến sức hấp dẫn của TPCP cũng bị ảnh hưởng không
nhỏ và cầu từ phía nhà ĐTNN cũng giảm đi trông thấy.
Trong công tác QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp thì
hạn chế đầu tiên phải kể đến là cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK ra công
chúng chưa có tính thống nhất và chưa thực sự đầy đủ, từ đó làm nảy sinh
bất hợp lý. Việc PHCK của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo Luật
các tổ chức tín dụng, hoạt động phát hành cổ phiếu ra công chúng của các
DNNN CPH lại được thực hiện theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP. Việc phát
hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ lại được quy định trong Nghị định
02/2006/NĐ-CP. Còn việc PHCK của các loại hình doanh nghiệp khác lại
được thực hiện theo quy định trong Luật Chứng khoán. Sự thiếu thống nhất
về cơ sở pháp lý đã nảy sinh một số bất hợp lý. UBCKNN được giao là cơ
quan quản lý cao nhất nhưng thực tế việc quản lý doanh nghiệp phát hành lại
do nhiều cơ quan tham gia. UBCKNN chỉ quản lý doanh nghiệp phát hành

ra công chúng để niêm yết và giao dịch trên TTCK, các doanh nghiệp khác
phát hành cổ phiếu ra bên ngoài thuộc diện quản lý của của các Bộ ngành
chủ quản, thậm chí nhiều doanh nghiệp cổ phần cũng có thể dễ dàng phát
hành cổ phiếu theo Luật Doanh nghiệp mà không bị quản lý. Do đó làm cho
doanh nghiệp lúng túng không biết phải báo cáo cho những cơ quan nào và
các thủ tục cần có khi muốn PHCK ra công chúng. Hai là, trong hoạt động
bảo lãnh phát hành thì nhiều tổ chức kinh doanh hoạt động này gặp khó khăn
về vốn, đặc biệt trong điều kiện khi các CtyCK chưa có thói quen liên kết
thành tổ hợp bảo lãnh phát hành, chất lượng của các công ty kiểm toán còn
chưa cao, hoạt động tư vấn còn thiếu chuyên môn trong khi đó công việc này
lại khá phức tạp. Hoạt động hỗ trợ thị trường sau phát hành tại Việt Nam
chưa được hình thành. CtyCK tham gia bảo lãnh phát hành cho doanh
nghiệp đồng thời kết thúc vai trò của mình sau khi đợt phát hành kết thúc,
chưa có CtyCK nào tiếp tục tham gia vào việc tác động giá cổ phiếu trên thị
trường sau khi cổ phiếu đó được phép phát hành. Ba là,theo quy định của
Việt Nam thì quá trình PHCK và niêm yết là tách biệt, cổ phiếu sau khi phát
hành lại không được niêm yết và giao dịch ngay trên TTCK, thời gian CPH
đến khi được niêm yết và giao dịch trên TTCK lại quá lâu nên lợi ích của
việc phát hành mang lại nhiều khi bị giảm bớt. Nhiều công ty CPH, kể cả
các công ty lớn không có chủ trương gắn kết hoạt động phát hành với niêm
yết bởi nhiều lý do như sợ thủ tục phức tạp, e dè nghĩa vụ phải công bố
thông tin ra công chúng sẽ làm mất khả năng cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác không phải thực hiện nghĩa vụ này. Bốn là, cơ chế đảm bảo tính
công khai minh bạch trong hoạt động PHCK ra công chúng chưa thật sự chặt
chẽ,sự giám sát của Nhà nước còn lỏng lẻo, cho nên dẫn tới trường hợp một
số doanh nghiệp chưa đảm bảo nghĩa vụ CBTT, chưa thực sự tuân thủ những
quy định của pháp luật trong quá trình PHCK, nhiều doanh nghiệp che dấu
thông tin để đánh lừa nhà đầu tư bên ngoài. Ví dụ như trường hợp của công
ty XNK nông sản Saforimex. Trước đó công ty này đã bán ra hơn 8000 cổ
phiếu để thực hiện CPH, nhưng ngay sau đó toàn bộ số tiền này đã bị toà án

phong toả để trả nợ, thậm chí số nợ của công ty này còn vượt quá nhiều lần
so với giá trị được CPH. Như vậy, nhà đầu tư đã nhận được thông tin không
trung thực khi công ty tuyên bố lãi 3 năm liên tục.
Tóm lại, công tác PHCK trên TTCK trong thời gian qua đã đạt được
những kết quả ban đầu trên cả phương diện tạo dựng cơ sở pháp lý và thủ
tục hành chính. Tuy vậy, những khiếm khuyết còn tồn tại đã làm giảm vai
trò QLNN và tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư.
2.2. QLNN đối với hoạt động niêm yết và ĐKGD.
Công tác QLNN đối với hoạt động niêm yết, ĐKGD được các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền triển khai chủ yếu thông qua việc ban hành các
chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể này tham gia hoạt động
trên TTCK, tổ chức việc thực hiện các thủ tục hành chính như cấp phép
niêm yết, cấp chứng nhận ĐKGD và giám sát sự tuân thủ của các tổ chức
này. Hiện nay, UBCKNN đảm nhận chức năng giám sát các CtyNY, tổ chức
ĐKGD trong quá trình các tổ chức này thực hiện các thủ tục, đáp ứng các
điều kiện cần thiết để tham gia TTCK, việc chấp hành chế độ báo cáo và
công bố thông tin của các TCNY này. Theo quy định hiện nay, mọi tổ chức
PHCK ra công chúng muốn niêm yết trên SGDCK và TTGDCK đều phải
được cấp phép niêm yết và mỗi loại chứng khoán chỉ được niêm yết tại một
SGDCK hay một TTGDCK. Quy trình cấp phép niêm yết cũng gồm 6 bước.
Tổ chức PHCK ra công chúng muốn NYCK trên SGDCK, TTGDCK phảI
đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện niêm yết, nộp lệ phí niêm yết. Nếu
TCNY không còn duy trì được các điều kiện niêm yết trong thời gian quy
định hay chấm dứt sự tồn tại do sáp nhập, chia tách, giải thể thì sẽ bị
UBCKNN huỷ bỏ niêm yết. Tổ chức PHCK chưa có thể thực hiện việc niêm
yết thì có thể thực hiện ĐKGD tại TTGDCK HN với các điều kiện giao dịch,
hồ sơ, thủ tục ĐKGD và trách nhiệm công bố thông tin khi được ĐKGD
thông thoáng hơn khá nhiều. Với nhiệm vụ của mình, UBCKNN đã chú
trọng công tác cấp phép, quản lý niêm yết và cấp chứng nhận đăng kí giao
dịch và đảm bảo sự tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, và đảm

bảo được chất lượng và độ tin cậy của các hàng hoá giao dịch trên TTCK.
Hiện nay UBCKNN đã giao cho TTGDCK HN thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận ĐKGD và quản lý hoạt động giao dịch của các tổ chức này. Đầu năm
2007, UBCKNN cũng đã chuyển chức năng xét duyệt niêm yết cho
TTGDCK Tp.HCM nay là SGDCK Tp.HCM.
Theo Luật Chứng khoán và Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 11/1/2007 quy định chi tiết về một số điều của Luật Chứng
khoán, thì các điều kiện niêm yết và ĐKGD đã được thắt chặt nên rất nhiều.
Với việc chuyển TTGDCK Tp.HCM thành SGDCK Tp.HCM thì quy định
về điều kiện niêm yết tại SGDCK và TTGDCK có sự phân biệt. Điều kiện
niêm yết ở trên SGDCK: các CtyNY mới thì phải đáp ứng được điều kiện
này, các CtyNY trước khi chuyển thành SGDCK Tp.HCM thì có hai năm để
thoả mãn các điều kiện này. Theo đó, điều kiện niêm yết cổ phiếu là phải có
vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng trở lên; hoạt
động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng kí niêm yết phải có lãi …Với
trái phiếu điều kiện là CtyNY hoặc DNNN phải có vốn điều lệ đã góp tại
thời điểm đăng kí niêm yết từ 80 tỷ đồng trở nên; hoạt động kinh doanh 2
năm liền trước năm đăng kí niêm yết phải có lãi. Với CCQĐT điều kiện là
Quỹ đóng có tổng giá trị chứng chỉ quỹ phát hành ít nhất từ 50 tỷ đồng trở
nên;…Điều kiện trên TTGDCK HN thì số vốn điều lệ tại thời điểm niêm yết
đối với cổ phiếu và trái phiếu đều là 10 tỷ đồng….Các điều kiện kể trên
được đánh giá là cú hích tích cực nhằm tăng cung về hàng hoá có chất lượng
cao cho TTCK, bởi theo nhận định rằng hiện nay các doanh nghiệp có thể
đáp ứng được các điều kiện trên khá nhiều. Tạo cung hàng hoá có chất lượng
sẽ làm tăng sự thu hút đối với các nhà đầu tư, tạo sự an toàn và minh bạch
trên thị trường và cũng là sự nâng cấp cần thiết khi chuyển đổi cơ cấu tổ
chức của TTGDCK lên một hình thức phát triển hơn với tình hình hiên tại
đó là SGDCK. Tuy nhiên, cũng theo ý kiến của nhiều chuyên gia thì mặt trái
của các quy định về điều kiện niêm yết mới này là tung ra trên TTCK hai
loại hàng hoá với chất lượng chênh lệch nhau khá lớn. Khó có thể đảm bảo

không có những rủi ro bất thường đối với cổ phiếu của các công ty nhỏ đang
niêm yết trên TTGDCK.
Các điều kiện ĐKGD vẫn theo Quyết định 244/2005/QĐ-BTC. Các điều
kiện này tỏ ra khá nhẹ so với khả năng đáp ứng của nhiều TCPH chưa niêm
yết( điều kiện niêm yết cổ phiếu: CtyCP có vốn điều lệ ít nhất là 5 tỷ đồng
trở lên, có ít nhất 50 cổ đông, có tình hình tài chính minh bạch, hoạt động
kinh doanh năm liền trước phảI có lãi. Điều kiện niêm yết trái phiếu: là các
trái phiếu chưa niêm yết của cùng đợt phát hành và có cùng ngày đáo hạn).
Tuy vậy lại có nhiều doanh nghiệp còn chưa muốn tham gia TTCK do họ sợ
nghĩa vụ phải CBTT, do sức ép của TTGDCK và cũng một phần do nhận
thức của họ về lợi ích tham gia trên TTCK chưa cao.
Đối với các thủ tục trong NYCK và ĐKGD: hồ sơ xin đăng kí niêm yết,
ĐKGD thì đã được quy định khá cụ thể, tuy vậy thì các yêu cầu đối với bộ
hồ sơ thì lại khá phức tạp theo chiều hướng tăng mức độ chi tiết và tăng số
giấy tờ yêu cầu cần có tạo tâm lý e ngại cho nhiều TCPH muốn tham gia
niêm yết hay ĐKGD.
Để khuyến khích các TCNY và tổ chức ĐKGD trên TTCK, Nhà nước đã
có nhiều ưu đãi đặc biệt là các ưu đãi về thuế. Công văn số 19924/TC-CST
ngày 20/10/1999 và công văn số 4248/TC-CST ban ngày 29/4/2005 quy
định rằng: các tổ chức có chứng khoán được niêm yết lần đầu và các tổ chức
ĐKGD lần đ Tài chính cũng đã ban hành công văn 1099/BTC-CTS ngày
8/9/2006 về việc bãi bỏ ưu đãi thuế thu nhập đối với các TCPH tham gia
niêm yết hay ĐKGD trên các TTGDCK sau ngày 31/12/2006 đã tác động và
tạo ra một trào lưu lên sàn dồn vào cuối năm 2006 để hưởng các ưu đãi thuế
trước khi chính sách này hết hiệu lực. Trong 3 tháng cuối năm có tới trên 50
CtyCP chính thức niêm yết trên TTGDCK Tp.HCM và 60 CtyCP ĐKGD
trên TTGDCK HN. ầu tại TTGDCK được giảm 50% số thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp trong hai năm kể từ khi thực hiện việc niêm yết và ĐKGD.
Đây là ưu đãi về thuế tương đối thuận lợi cho các TCNY và ĐKGD bởi lẽ
họ có được phần lợi nhuận sau thuế nhiều hơn trong thời gian hưởng ưu đãi

để trả cổ tức cho cổ đông và tăng tính hấp dẫn của chứng khoán trên thị
trường. Tuy vậy, Bộ
Với chính sách quản lý niêm yết và ĐKGD của Chính phủ trong thời gian
qua, TTCK Việt Nam đã có những cảI thiện đáng kể, quy mô thị trường tính
theo mức vốn hoá so với GDP hàng năm đã được cảI thiện rõ rệt.
2.3. QLNN đối với hoạt động GDCK
Theo quy định hiện hành, các chứng khoán niêm yết phải được giao dịch
qua TTGDCK Tp.HCM, nay là SGDCK Tp.HCM theo phương thức khớp
lệnh hay thoả thuận. GDCK lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa nhà đầu tư
với CtyCK thành viên của SGDCK Tp.HCM, các GDCK lô chẵn phải được
thực hiện thông qua hệ thống giao dịch của SGDCK Tp.HCM. Giá hình
thành trong phiên giao dịch được khống chế bởi giá trần và giá sàn và được
xây dựng theo giá tham chiếu và biên độ giá. Đối với các giao dịch theo
phương thức khớp lệnh, UBCKNN sẽ điều chỉnh biên độ biến động giá. Với
các trường hợp khác thì không quy định biên độ biến động giá. Chứng khoán
được ĐKGD tại TTGDCK HN sẽ được giao dịch theo phương thức báo giá
hay theo phương thức thoả thuận. Giá cổ phiếu giao dịch tại đây cũng được
UBCKNN quy định khống chế mức giá bằng giá trần hay giá sàn theo giá
tham chiếu và biên độ biến động giá.
Công tác tổ chức, điều hành của cơ quan QLNN với hoạt động GDCK
trên các TTGDCK, SGDCK đã góp phần cải thiện tình hình GDCK. Tại
TTGDCK Tp.HCM ( SGDCK Tp.HCM), lúc đầu các giao dịch khớp lệnh và
giao dịch thoả thuận được tiến hành cùng một thời gian từ 9h-11h, khớp lệnh
vào lúc 11h các ngày 2,4,6 hàng tuần. Từ ngày 10/1/2001 đến trước ngày
1/3/2003, các giao dịch khớp lệnh được tổ chức thực hiện từ 9h-10h, khớp
lệnh lúc 10h, sau đó tổ chức giao dịch thoả thuận từ 10h-11h. Qua những
biến động của TTCK giai đoạn năm 2000-2002, UBCKNN đã triển khai các
biện pháp tích cực kích thích các GDCK. Từ ngày 20/5/2003, số phiên giao
dịch tăng từ 3 lên 5 phiên/tuần, từ thứ 2 đến thứ 6. Quy mô đơn vị giao dịch
cổ phiếu và CCQĐT được giảm từ 100 cổ phiếu/ CCQĐT xuống còn 10 cổ

phiếu/CCQĐT áp dụng từ phiên 541 ngày 2 0/5/2003. Tỷ lệ kí quỹ bắt buộc
giảm từ 100% xuống còn 70%. Cho phép lệnh ATO (Automatic trading
order) được thực hiện, đồng thời quy định cho phép thực hiện 2 đợt khớp
lệnh trong một phiên giao dịch ( đợt 1 từ 9h-9h20, đợt 2 từ 10h-10h30). Biên
độ biến động giá cũng được điều chỉnh linh hoạt hơn, từ 2% lên 5% như
hiện nay. Tại TTGDCK HN, theo Quyết định 245/ QD-UBCK, TTGDCK
HN được tổ chức các phiên giao dịch từ 9h-11h theo phương thức là giao
dịch thoả thuận và giao dịch báo giá vào thứ 2 ,4,6 hàng tuần trừ ngày nghỉ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×