Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bộ tứ siêu đẳng ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.75 KB, 5 trang )

Bộ tứ siêu đẳng


Tập dưỡng sinh cũng là cách giữ gìn sức khỏe, chống lại nguy cơ bị bệnh
mạch vành

Ở đây chúng tôi không phải nhắc đến bộ phim Bộ tứ siêu đẳng của Mỹ, mà
nói về bốn loại thuốc cần thiết trong việc phòng ngừa, điều trị bệnh mạch vành
(với điều kiện phải dùng theo chỉ định của bác sĩ).

Đó là thuốc kháng tiểu cầu, thuốc ức chế bêta, thuốc ức chế men
chuyển và thuốc điều trị rối loạn chuyển hóa mỡ.
Thuốc kháng tiểu cầu và aspirin
Người bệnh mạch vành thường có những mảng xơ vữa gây hẹp lòng mạch
vành, khiến dòng máu đi qua chảy chậm lại, dễ tạo thành cục máu đông. Nếu một
hoặc nhiều nhánh mạch vành bị tắc hoàn toàn, thường do mảng xơ vữa bị nứt, vỡ,
loét hoặc do hình thành cục máu đông sẽ gây nhồi máu cơ tim.
Chính vì vậy, các thuốc kháng đông với tác dụng làm “loãng” máu, hạn chế
việc tạo cục máu đông là một trong những vũ khí chính yếu trong “cuộc chiến” với
bệnh mạch vành.
Aspirin có khả năng làm “loãng” máu do chống lại sự kết dính của tiểu cầu
được nhiều nghiên cứu chứng minh là giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ và
có nhiều ích lợi khác. Tuy nhiên, aspirin vẫn có thể gây tác dụng phụ như làm tổn
thương lớp niêm mạc dạ dày, đôi khi gây loét, xuất huyết tiêu hóa, đi tiêu phân
đen.
Ngoài ra, do có tác dụng kháng đông, aspirin có thể gây chảy máu khó cầm,
trên da có những chấm xuất huyết, mảng bầm máu, nặng nề hơn là xuất huyết não
(tỉ lệ xảy ra biến chứng này không cao, khoảng 1/1.000). Bệnh nhân cần liên hệ
ngay với bác sĩ khi nhận thấy những dấu hiệu nêu trên.
Giống aspirin, clopidogrel (plavix, infartan) cũng là loại thuốc kháng tiểu
cầu, hiệu quả hơi nhỉnh hơn aspirin và có tác dụng phụ tương tự.



Thuốc ức chế bêta
Tuyến thượng thận tiết ra nội tiết tố giao cảm, khi gắn kết với thụ thể bêta
có tại mô khắp cơ thể sẽ gây hàng loạt phản ứng tại các cơ quan, một trong số đó
là làm tim tăng sức co bóp và vì vậy tăng nhu cầu ôxy của cơ tim. Nếu mạch vành
không cung cấp đủ máu cho cơ tim sẽ gây triệu chứng đau thắt ngực, có thể đưa
đến nhồi máu cơ tim.
Thuốc ức chế bêta (inderan, betaloc, concor ) có tác dụng ngăn nội tiết tố
giao cảm gắn vào thụ thể bêta nên hạn chế sự mất quân bình trong cán cân cung -
cầu ôxy này. Đây là thuốc hàng đầu trong điều trị bệnh mạch vành, giảm cơn đau
thắt ngực, giảm tử vong, giảm biến chứng tái nhồi máu cơ tim
Với bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp, thuốc được sử dụng để giảm đau
ngực, giảm sự lan rộng của vùng nhồi máu, phòng ngừa tái phát nhồi máu cơ tim.
Bởi vì thuốc ức chế bêta có thể khởi phát hoặc làm nặng hơn những cơn
suyễn nên nếu có tiền căn hen suyễn, cần thông báo cho bác sĩ biết để tránh sử
dụng hoặc chọn loại thuốc an toàn cho trường hợp hen suyễn nhẹ.
Trong thời gian dùng thuốc ức chế bêta, cần thường xuyên kiểm tra nhịp
mạch, nếu thấy quá chậm (dưới 60 lần/phút) cần thông báo cho bác sĩ.

Thuốc ức chế men chuyển
Thuốc ức chế men chuyển (ednyt, zestril, lopril ) có tác dụng ức chế quá
trình hoạt động của men angiotensin II nhằm giảm huyết áp, giảm gánh nặng cho
tim. Nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc này hiệu quả trên bệnh nhân bệnh mạch
vành và nhồi máu cơ tim cấp. Hiệu quả ở đây là giảm tái cấu trúc thất trái, giảm
suy tim, giảm tỉ lệ tử vong, cải thiện huyết áp.
Tác dụng phụ phổ biến nhất của thuốc ức chế men chuyển là gây ho, xảy ra
ở khoảng 5-10% người dùng thuốc này. Nếu triệu chứng ho xảy ra nhiều thì cần
báo cho bác sĩ để đổi sang thuốc khác (có thể là thuốc ức chế thụ thể angiotensin
II, một loại thuốc có tác dụng tương tự, là lựa chọn thứ hai sau thuốc ức chế men
chuyển, ít gây ho).


Thuốc điều trị rối loạn chuyển hóa mỡ
Tình trạng rối loạn chuyển hóa mỡ (tăng nồng độ cholesterol toàn phần,
tăng nồng độ LDL, giảm nồng độ HDL, tăng nồng độ triglyceride) là yếu tố nguy
cơ của bệnh mạch vành, tăng tỉ lệ tai biến và tử vong do bệnh động mạch vành.
Có nhiều loại thuốc điều trị rối loạn chuyển hóa mỡ, trong đó thường được
sử dụng là nhóm statin (lipitor, crestor, zocor ) và fibrat (lypanthyl ). Statin là
thuốc hiệu quả, an toàn, hiếm xảy ra phản ứng phụ ở liều điều trị nên bác sĩ
thường sử dụng statin kết hợp với lối sống phù hợp trong điều trị rối loạn chuyển
hóa mỡ.
Statin và fibrat có thể gây phản ứng phụ ở đường tiêu hóa như đau dạ dày,
đầy hơi, tiêu chảy, táo bón hoặc các triệu chứng đau cơ, yếu cơ, đau đầu, tuy nhiên
rất hiếm gặp.
Thuốc như “con dao hai lưỡi”, sử dụng không đúng cách sẽ gây hại.
Cần uống thuốc đều đặn, đúng theo toa, thông báo cho bác sĩ những triệu
chứng khác lạ trong quá trình điều trị.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×