Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu sử và những câu chuyện về Bác Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.59 KB, 24 trang )

Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969)
17:01:00, 15/12/2006

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong
nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày
19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu
nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong
trào đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự
do, hạnh phúc cho đồng bào.
Với tình cảm yêu nước thương dân vô hạn, năm 1911 Người đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để
tìm con đường giải phóng dân tộc.
Từ năm 1912 - 1917, Nguyễn Tất Thành đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi,
sống hoà mình với nhân dân lao động, Người thông cảm sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao
động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Người sớm nhận thức được
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới. Người đã hoạt động tích cực nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc giành tự do, độc lập.
Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp hoạt động trong phong trào Việt kiều, phong trào công
nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp
gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là
quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội
Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội
Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4-1922, Hội xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ


chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo của Người đã
được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản năm 1925. Đây là một công trình nghiên
cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải
phóng.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, Người làm việc trong Quốc tế Cộng sản.
Tháng 10 năm 1923, tại Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội
đồng Quốc tế Nông dân. Người là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch
của Hội đồng. Người tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên
lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Người kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I.
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng
dân tộc.

Tháng 11 năm 1924 với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và Uỷ viên Đoàn
Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại Quảng Châu Nguyễn Ái
Quốc vừa làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôđin của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên;
vừa tìm hiểu và tiếp xúc với những người Việt Nam đang hoạt động tại đây. Nguyễn Ái Quốc đã chọn
1
một số thanh niên Việt Nam yêu nước, trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng. Các bài
giảng của Người được tập hợp in thành cuốn sách “Đường Kách mệnh” - một văn kiện lý luận quan
trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra tuần báo “ Thanh niên ”, tờ
báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó đi Béclin
(Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế
quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á.
Từ tháng 7 năm 1928 đến tháng 11 năm 1929, Người hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước
ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long, thuộc Hồng Kông.
Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt

Nam (Hội nghị của Đảng tháng 10 năm 1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), đội tiên phong
của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo Cao trào Cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô viết - Nghệ Tĩnh, cuộc tổng diễn tập đầu tiên
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Mùa xuân năm
1933, Người được trả tự do.
Từ 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại
Mátxcơva. Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi chỉ đạo
phong trào cách mạng trong nước.
Tháng 10 năm 1938 Người rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về
nước.
Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Người về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.
Tháng 5-1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định
đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức lực
lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8-1942, lấy tên Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam
thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành
động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng
Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù,
Người đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người được trả tự do.
Tháng 9-1944, Người trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12-1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các
nước Đồng minh. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo
đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi
nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8-1945, Người lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2-9-
1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Người đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà, Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
2
Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn
ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh
thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước, cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam
tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành
thắng lợi.
Tháng 2-1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng nhằm
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân
dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ (1954), giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III, họp vào tháng 9 năm 1960, Người khẳng định: “Đại
hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình, thống nhất nước
nhà”. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt
Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không
sợ ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Từ năm 1965 đến tháng 9-1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt
Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền
Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử, căn dặn
những việc nhân dân Việt Nam phải làm để xây dựng đất nước sau chiến tranh. Người viết: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”.
Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh
phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pari ngày 27-1-
1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Mùa xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện được mong ước thiêng liêng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng Mác - Lênin ở Việt Nam,
sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn
gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô
cùng khiêm tốn, giản dị.
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí
Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất.
3
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Bác không đồng ý với nghị quyết của Bộ Chính trị về tổ chức kỉ niệm ngày sinh của Người
09:04:00, 11/05/2007
Câu chuyện sau đây do đồng chí Nguyễn Văn Lương, nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, BCH TW
Đảng kể lại.
Năm 1969, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về việc tổ chức bốn ngày kỷ niệm lớn: Kỷ niệm lần thứ 40 ngày
thành lập Đảng ta, kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Lênin, mừng thọ Hồ Chủ tịch 80 tuổi và kỷ niệm lần
thứ 25 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hồi đó, sức Bác đã yếu. Để giữ gìn sức khỏe của
Bác, Bộ Chính trị đề nghị: Khi bàn những việc quan trọng của Đảng và Nhà nước thì mời Bác chủ trì, còn

khi bàn những việc thứ yếu thì cứ bàn rối báo cáo lại. Bác cũng đồng ý như vậy. Khi Bộ Chính trị bàn việc
tổ chức kỷ niệm bốn ngày lễ lớn thì Bác không dự. Nghị quyết đó ra từ tháng 4. Đến ngày 8-7 thì đăng trên
báo Nhân dân. Mọi việc lớn hay nhỏ, khi Bộ Chính trị đã bàn xong đều báo cáo lại. Riêng việc này, các
đồng chí cũng ngại rằng nếu Bác biết thì thể nào cũng không để tổ chức kỷ niệm ngày sinh của mình.
Hôm đó, đọc báo xong, Bác gọi các đồng chí trong Bộ Chính trị vào, Bác chỉ vào tờ báo Nhân dân để
trên bàn và hỏi: Nghị quyết này các chú bàn bao giờ mà tại sao không cho Bác biết? Bác nói đại ý: tất cả
các Nghị quyết của Đảng đều do Bộ Chính trị quyết định tập thể. Gần đây, Bác mệt, có một số cuộc họp
không dự được. Đó là khuyết điểm của Bác. Khi đọc nghị quyết đăng trên báo, Bác tán thành nhiều điểm.
Chỉ có việc riêng của Bác, Bác không đồng ý. Ai cũng biết Bác là Chủ tịch Đảng ta. Đọc nghị quyết này,
người ta sẽ nghĩ rằng Bác chủ trì phiên họp Bộ Chính trị để bàn việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của mình
cho linh đình. Thế là không đúng. Bác ngừng một lúc, giở tờ báo, chỉ tay vào một đoạn trong nghị quyết và
nói: Lênin là bậc thầy của cách mạng thế giới. Bác chỉ là học trò của Lênin? Sao các chú lại đặt việc riêng
của Bác ngang với những việc lớn của Đảng và Nhà nước? Bác lại chỉ tay vào một đoạn nữa trong nghị
quyết và hỏi các đồng chí trong Bộ Chính trị: Sao các chú cho in sách của Bác nhiều thế? Bây giờ nước nhà
còn thiếu thốn, sách học, giấy học cho các cháu còn thiếu, thế mà sách báo của ta, kể cả sách của Bác, thì in
lu bù. Nên bớt đi, cái gì cần lắm hãy in, để giấy cho các cháu học. Nói xong, Bác lại lấy ngón tay dò dò trên
tờ báo. Thi ra vẫn chưa hết! Chỉ tay vào một chỗ trong nghị quyết, ghi việc xây dựng và tu bổ những nhà
bảo tàng, nhà lưu niệm của những địa phương cơ sở cách mạng Bác nói: việc này cũng cần thiết, nhưng Bác
nghỉ nước ta đang có chiến tranh, nhà cửa của nhân dân bị tàn phá nặng nề, chúng ta nên để dành vật liệu
trước hết xây dựng nhà ở cho nhân dân, trường học cho các cháu và nhà giữ trẻ. Khi đời sống nhân dân
sung túc, lúc đó ta hãy xây dựng bảo tàng này, bảo tàng nọ.
Từ một nghị quyết của Bộ Chính trị, Bác chỉ ra nhiều bài học rất thấm thía. Bác rất khiêm tốn, không
muốn đề cao cá nhân mình, lúc nào Người cũng chỉ nhận mình là học trò của Lênin vĩ đại. Mỗi việc làm của
Bác đều vì dân vì nước. Ngay cả đến khi sắp từ biệt thế giới này, Bác vẫn còn căn dặn: "Sau khi tôi đã qua
đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".
Nhờ Bác, chúng ta nhớ những lời Bác dạy. Mọi chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước đều
xuất phát từ điều kiện thực tế của đất nước, và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Trích từ sách: Bác Hồ sống mãi với chúng ta, t.2.
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
4

Cây xanh bốn mùa
00:24:00, 11/05/2007
Bác Hồ rất thông cảm với sự vất vả của nhân dân. Tìm hiểu cụ thể đời sống của nhân dân, của
những người lao động là một nếp làm việc quen thuộc của Bác. Một hôm, Bác gọi đồng chí phục vụ đến
và nói:
- Có những đêm nằm nghỉ nghe thấy tiếng chổi tre quét đường phố rất khuya, Bác nghĩ rằng mùa
đông, các cô chú công nhân quét đường vất vả lắm. Chú thử tìm cách điều tra cụ thể rối nói lại cho Bác
biết.
Vâng lời Bác, một đêm nọ, đồng chí phục vụ lững thững dạo theo hè phố từ lúc người công nhân
bắt đầu làm việc cho đến lúc dừng tay. Một tối làm việc như vậy họ phải đi đoạn đường khá dài, làm việc
thầm lặng và rất vất vả.
Câu chuyện công việc của người công nhân quét đường trong đêm đông được báo cáo lại với Bác
rất tỉ mỉ.
Nghe đồng chí phục vụ nói, Bác suy nghĩ hồi lâu rồi bảo:
- Chú nhớ nhắc những cơ quan có trách nhiệm phải có chế độ cấp phát quần áo lao động để bảo vệ
sức khỏe cho các cô các chú ấy, nhắc nhở cán bộ phụ trách các cấp phải quan tâm đúng mức đến anh chị
em làm nghề vất vả này.
Thời gian trôi qua
Lần ấy, Bác có việc đi sang nước bạn. Nước bạn đang mùa đông lạnh giá, hầu hết cây cối đều trụi
lá. Người bỗng phát hiện ra một loài cây vẫn xanh. Bác hỏi cán bộ địa phương, được biết đúng là loài cây
có sức sống tốt, bốn mùa đều xanh tươi.
Người quyết định xin giống cây ấy mang về Việt Nam. Về nước, Bác trao giống cây đó cho người
làm vườn và nói:
- Đây là loại cây mà mùa đông ít rụng lá. Chú trồng thử xem. Nếu chịu được khí hậu nước ta và
xanh tốt thì sau này đem trồng dọc các đường phố, mùa đông vừa có cây xanh, vừa đỡ vất vả, đỡ tốn công
cho anh chị em công nhân quét đường.
Trong Phủ Chủ tịch, gần nhà sàn của Bác, hiện vẫn còn loại cây trên, không rõ tên khoa học của
loài cây ấy là gì, anh chị em vẫn thường gọi là “Cây xanh bốn mùa”.
Nhìn cây xanh bốn mùa ghi nhớ tấm lòng thương yêu nhân dân của Bác. Là Chủ tịch nước Người
bận trăm công, nghìn việc lớn. Thế nhưng những việc thường ngày xảy ra chung quanh Bác cũng không

bỏ qua. Người quan tâm một cách cụ thể và thiết thực đến điều kiện làm việc của những người công nhân.
Việc làm của Bác luôn nhắc nhở chúng ta hãy biết quan tâm chia sẻ với những khó khăn vất vả của người
khác, những người cán bộ lãnh đạo càng phải ghi nhớ điều này.

T.C.N và T.G
Trích từ sách: Bao la nhân ái Hồ Chí Minh,
Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1994.
Giản dị và tiết kiệm
20:00:34, 23/05/2007
Bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng:
Khi làm việc ở văn phòng Bác, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho
Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều. Học tập Bác đức tính
giản dị, tiết kiệm. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại, Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình
của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng
nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng
chiếc áo gối vá.
Những năm tháng giúp việc ở văn phòng Bác tôi có những kỷ niệm không bao giờ quên.
Bà còn kể rằng:
Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công tác về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt.
Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
5
- Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền nhỏm dậy bảo bà:
- Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm
thừa.
Câu chuyện bà kể khiến chúng tôi xúc động và thương Bác quá chừng. Bác thật giản dị và tiết kiệm,
chắt chiu như người cha lo cho một gia đình lớn, như cảnh nhà đông con mà còn túng thiếu.
Chiếc áo gối vá, bát cháo nấu bằng cơm nguội của vị Chủ tịch nước có tác động lớn đến suy nghĩ của
mỗi con người. Nhất là hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang mở cuộc vận động : “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, câu chuyện nhỏ trên đây chính là một nét đẹp về đạo đức Bác Hồ để

chúng ta học tập.
Có thể cho người nghèo những thứ ấy
09:15:00, 13/06/2007
Khoảng năm 1914, Bác Hồ - lúc bấy giờ gọi là Nguyễn Tất Thành - đã đến Luân Đôn - Thủ đô của
nước Anh. Ở đây có thời gian Bác phải làm phụ bếp cho khách sạn Cáctơn (1).
Ở khách sạn Cáctơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong,
có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa và đổ tất cả thức ăn thừa vào một cái thùng to rồi sau đó đem đổ đi.
Có khi những thức ăn thừa là một phần tư con gà, hay cả đĩa bánh mỳ và những miếng bít tết to tướng
Đến lượt anh Thành làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận
sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.
Thấy vậy ông đầu bếp Étcốtphie hỏi lại anh:
- Tại sao anh không đem những thức ăn này đổ vào thùng như những người khác?
- Anh Thành điềm tĩnh trả lời:
- Không nên đem vứt những thứ này đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.
Câu nói của anh Thành làm cho ông đầu bếp rất ngạc nhiên, vì ông thấy từ trước tới nay, chưa có ai ở
khách sạn này nghĩ và nói như anh Thành.
Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu
thương của anh đối với những người nghèo.
(1) Một khách sạn nổi tiếng ở Luân Đôn do ông Étcốtphie người Pháp làm đầu bếp.
Trích từ sách: Vũ Kỳ- Thư ký Bác Hồ kể chuyện.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Những đêm giao thừa Bác đến với người nghèo
09:36:00, 13/06/2007
6
Xuân Tân Tỵ, năm 1941, Bác mới được đặt chân trở về giữa lòng Tổ quốc thân yêu sau đúng 30 năm
trời ra đi tìm đường cứu nước (1911-1941). Hành trang theo Bác trở về vẻn vẹn chỉ có một chiếc va ly
xách tay bằng mây, trong đựng hai bộ quần áo đã cũ và tập tài liệu Con đường giải phóng tập hợp những
bài giảng trong lớp huấn luyện ở Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc) do Bác phụ trách vừa mới kết
thúc trước Tết mấy hôm.
Mùa Xuân năm ấy, từ hang Pác Bó đã ra đời một bài thơ xuân tuyệt đẹp của Bác Hồ:

"Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà"(1)
Chỉ hơn bốn năm sau, ngày 2-9-1945, sơn hà của Tổ quốc đã được thu về một mối, từ Lạng Sơn đến
mũi Cà Mau. Hồ Chí Minh trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Và mùa
Xuân độc lập đầu tiên, Xuân Bính Tuất năm 1946 đã trở về trên toàn cõi đất nước với một sắc màu khác
lạ làm gợi nhớ đến một thời Nghiêu Thuấn xa xưa. Vào thời khắc mọi gia đình quây quần bên nhau chuẩn
bị đón giao thừa thì vị Chủ tịch nước xắn quần, bước thấp bước cao đến các ngõ hẻm ở phố Sinh Từ, phố
Hàng Lọng để được chính mắt nhìn thấy cảnh Tết vừa, Tết nghèo của bà con lao động Hà Nội mới vừa
thoát khỏi ách thực dân phong kiến.
Chính trong cuộc "vi hành" đêm Ba mươi Tết của mùa Xuân độc lập đầu tiên đó, Bác Hồ đã chứng kiến
cảnh gia đình một người đạp xích lô "Tết mà không có Tết" ngoài một nén hương đang cháy dở trên bàn,
còn chủ nhà thì đang đắp chiếu nằm mê mệt vì ốm. Bác đã xúc động lấy khăn lau nước mắt, lặng lẽ bước
ra khỏi nhà, bảo đồng chí thư ký ghi lại địa chỉ để hôm sau báo cáo cho đồng chí Chủ tịch Hà Nội biết.
Cũng đêm Ba mươi Tết Bính Tuất đó, đúng giờ giao thừa, khi Đài Tiếng nói Việt Nam truyền khi khắp
đất nước lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì chính Người lại đang vui Xuân cùng
nhân dân ở đền Ngọc Sơn, trong vai một cụ già cùng cháu đi hái lộc.
Lần đầu tiên nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước, được hưởng một mùa Xuân mới mẻ, giao thừa nghe
đọc thư chúc Tết của Bác Hồ:
"Hỡi đồng bào cả nước!
Hôm nay là mùng một Tết năm Bính Tuất, ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt lành" (2).
Cuối thư là một bài thơ ngắn:
"Trong năm Bính Tuất mới
Muôn việc đều tiến tới
Kiến quốc chóng thành công
Kháng chiến mau thắng lợi" (3)
Kể từ mùa Xuân đầu tiên đó, suốt 24 năm làm Chủ tịch nước, mỗi lần Tết đến, Xuân về, Bác lại nghĩ
đến dân, lo sao cho dân có một mùa xuân ấm no, hạnh phúc. Thường thì trước Tết ba tháng, Bác đã nhắc

các cơ quan, các ngành chuẩn bị Tết cho dân. Riêng Bác cũng tự mình chuẩn bị sớm ba việc. Tìm ý thơ
cho bài thơ mừng năm mới, nhắc văn phòng chuẩn bị thiếp "Chúc Mừng Năm Mới" để kịp gửi đến những
nơi xa xôi nhất, kể cả bộ đội ở các vùng rừng núi, hải đảo xa xôi và cán bộ công tác ở nước ngoài.
7
Và cuối cùng là một chương trình đi thăm dân không thể thiếu đối với Bác, một chương trình riêng mà
chỉ Bác và các đồng chí cảnh vệ biết.
Tối Ba mươi Tết năm 1960, Bác đến thăm gia đình mẹ con chị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng
Chĩnh, Hà Nội. Chiều mùng hai Tết năm 1961, Bác đến Văn Miếu dự buổi bình thơ Xuân của các cụ.
Mùng hai Tết năm 1962, Bác đến thăm các cháu học sinh miền Nam ở Hải Phòng. Chiều 29 Tết năm
1963, Bác cải trang thành một cụ già theo cháu đi chợ hoa và chợ Đồng Xuân Tất cả đều bí mật bất ngờ
và do đó bao giờ cũng tạo hiệu quả lớn.
Như Tết năm 1960, nếu Bác chỉ đến thăm các gia đình theo chương trình của các cơ quan đã bố trí thì
làm sao Chủ tịch nước biết được gần đến giao thừa rồi mà chị Tín vẫn còn phải đi gánh nước thuê đổi gạo
để sáng mai mùng một Tết có cơm ăn cho bốn đưa con của mình. Gặp Bác, chị Tín xúc động để rơi cả đôi
thùng gánh nước xuống đất, run run cầm lấy bàn tay của Bác:
- Cháu không ngờ lại được Bác đến thăm
Chỉ nói được vậy, chị đã oà lên khóc nức nở.
Vị Chủ tịch nước đã an ủi chị:
- Bác không đến thăm những gia đình như cô thì thăm ai
Và Bác đã vào nhà thăm hỏi khá lâu năm mẹ con chị Tín. Gọi là nhà nhưng đâu có phải là nhà mà là một
cái chái như một túp lều. Chồng chị Tín là công nhân khuân vác ở bến Phà Đen đã mất cách đó bốn năm,
còn chị thì cho đến lúc này vẫn chưa có việc làm ổn định. Cảnh nghèo của gia đình đã phũ phàng hiện ra
trước mắt Bác. Trên chiếc bàn gỗ mục chỉ có một nải chuối xanh và một gói kẹo. Đúng là "Ba mươi Tết
mà không có Tết". Cách đây 15 năm, Tết độc lập đầu tiên, Bác đã đau lòng chứng kiến cảnh một gia đình
"Tết mà không có Tết" ở ngõ hẻm Sinh Từ. Đó là khi đất nước mới thoát khỏi vòng nô lệ. Còn bây giờ,
kháng chiến đã thắng lợi, hoà bình đã sáu năm, mà lại còn cái cảnh này sao? Không phải ở đâu xa mà ở
ngay Thủ đô Hà Nội Vậy còn bao nhiêu gia đình như thế này ở khắp mọi miền đất nước? Cứ ngồi nghe
báo cáo thì đâu cũng là no ấm, tươi vui
Đêm ấy, trên đường về, ngồi trên xe, Bác Hồ trầm ngâm suy nghĩ. Vẻ đăm chiêu thoáng hiện trên
gương mặt của Người. Bác đã từng tâm sự với các đồng chí phục vụ: "Một ngày dân chưa đủ ăn, áo chưa

đủ mặc, các cháu chưa được học hành, mọi người còn khổ thì Bác ăn không ngon, ngủ không yên".
Về đến nhà, các đồng chí Bộ Chính trị đang chờ Bác để chúc mừng năm mới. Mọi người băn khoăn khi
thấy Bác không vui. Bác kể lại hoàn cảnh gia đình chị Tín cho mọi người nghe. Cuối câu chuyện Bác nói
"Ta có chính quyền trong tay, nhưng chính quyền đó chưa thực sự là do dân, vì dân. Một số lãnh đạo các
địa phương còn quan liêu và nặng về hình thức. Họ không chịu đi sâu, đi sát quần chúng, nên phục vụ
quần chúng chưa tốt. Nếu chúng ta chỉ nghe báo cáo của họ thì sẽ không bao giờ nắm được chính xác tình
hình để có chủ trương, nghị quyết đúng đắn. Đảng quan liêu, chính quyền quan liêu, thực sự là một nguy
cơ đối với đất nước chúng ta.
Trích từ sách: Vũ Kỳ - Thư ký Bác Hồ kể chuyện.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005

(1) Hồ Chí Minh: Sdd, t. 3, tr. 195
(2) Hồ Chí Minh: Sdd, t. 4, tr. 169
(3) Hồ Chí Minh: Sdd, t. 3, tr. 169
8
Nghĩa nặng tình sâu
09:46:12, 13/06/2007
Năm 1957, Bác Hồ trở về thăm quê hương. Từ xa trên con đường đất đỏ, mọi người nhìn thấy xe Bác
đến vừa vỗ tay hoan hô vừa reo hò rộn rã.
Xe đến, Bác xuống xe vẫy chào bà con đến đón. Các cháu thiếu nhi ùa ra vây quanh Bác.
Các đồng chí lãnh đạo địa phương định đưa Bác vào nhà khách trước, nhưng Bác đã ngăn lại và nói:
- Tôi xa nhà, xa quê đã lâu, nay mới có dịp về, tôi phải về nhà tôi trước.
Nói rồi Bác đi thẳng về ngôi nhà quê nội. Bác dừng lại trước ngõ mới làm, đưa mắt nhìn bao quát khu
vườn quen thuộc một lượt, rồi Bác đi men theo hàng rào râm bụt. Bác bảo:
- Trước đây đường vào nhà tôi đi theo ngõ này.
Vào đến sân, Bác nhìn ngôi nhà tranh quen thuộc của gia đình đã được đồng bào địa phương dựng lại
trên nền đất cũ và nói:
- Tôi nhớ chỗ này còn có hàng cây, nay đâu rồi các chú?
Sau đó, Bác đi ra cửa sau chỉ vào chỗ hàng rào nói:
- Nhà tôi trước có cây ổi ngọt ở đây quả sai lắm.

Khi ra ngõ gặp một cụ già, Bác nhìn cụ già rất cảm động và hỏi:
- Có phải ông Điền không?
Bác đi nhanh tới cụ già rồi nắm lấy tay cụ hỏi bằng một giọng ấm áp;
- Anh Điền, anh vẫn khoẻ chứ?
Bác nói chuyện với cụ Điền một hồi lâu, rồi sau đó đi sang quê ngoại.
Đứng giữa ngôi nhà tranh đơn sơ, nơi Bác đã sinh ra và lớn lên, Bác thân mật trò chuyện cùng bà con
quê nhà.
- Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người ta xa nhà, lúc trở về thì mừng mừng, tủi
tủi. Nhưng tôi không buồn, không tủi. Tôi rất vui. Vui vì khi tôi ra đi nhân dân còn là nô lệ, bọn đế quốc
phong kiến đè đầu cưỡi cổ. Bây giờ tôi về thì đất nước đã được giải phóng, nhân dân đã được tự do. Nói
rồi Bác đọc hai câu thơ:
Quê hương nghĩa nặng tình sâu
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
Trích từ sách: Vũ Kỳ - Thư ký Bác Hồ kể chuyện.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Tấm huân chương cao quí
09:50:19, 13/06/2007
Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá II, họp đúng vào dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 73 ngày sinh của Bác kính yêu.
9
Trong kỳ họp này, các đại biểu đã nhất trí đề nghị Quốc hội trao tặng Bác Hồ Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý
nhất của Nhà nước ta. Biết tin ấy, Bác Hồ rất cảm động.
Bác nói: "Tôi vừa nhận được một tin tức làm tôi rất cảm động và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân
chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội.
Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi chưa nhận Huân chương ấy. Vì sao? Vì Huân chương là để thưởng người có công huân,
nhưng tôi tự xét chưa có công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội".
Bác nhắc đến đồng bào miền Nam đang sống khổ cực dưới chế độ dã man của đế quốc Mỹ và tay sai, đang anh dũng kiên
quyết đấu tranh thắng lợi và Bác nói tiếp "miền Nam thật là xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc" và xứng đáng
được tặng Huân chương cao quý nhất, vì những lẽ đó, tôi xin Quốc hội đồng ý thế này: Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân
chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng vui mừng".

Năm 1967, Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô quyết định tặng Bác Huân chương Lênin - Huân chương cao quý nhất của
Nhà nước Xô viết - nhưng Bác cũng đã từ chối, hẹn đến ngày đất nước Việt Nam thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà.
Nhưng đến ngày ấy Bác đã đi xa. Và cho đến lúc ra đi, trên ngực Bác vẫn không một tấm Huân chương.
Trích từ sách: Vũ Kỳ - Thư ký Bác Hồ kể chuyện.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Bác Hồ với việc sử dụng nhân tài
19:57:09, 26/08/2007
Lần đầu tiên Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh là lúc ông cùng kiều bào
ta ở Pháp ra sân bay đón Bác - năm 1946, khi ấy Người sang thăm nước Cộng hoà Pháp với tư cách là
thượng khách của Chính phủ Pháp.
Ông có vinh dự được tham gia đoàn đại biểu thay mặt Hội Việt kiều tại Pháp đến thăm Bác, nghe Bác
kể về tình hình trong nước và đề nghị kiều bào ta báo cáo tình hình hoạt động. Ông đã cùng với Bác đi
thăm bà con Việt kiều, thăm Đảng Cộng sản Pháp và các danh lam, thắng cảnh. Trong các cuộc đi thăm
đó, Bác ăn mặc rất giản dị. Bác đi dép cao su, nơi nào có sân sạch là bác ngồi xuống, nhân dân lao động
và trẻ em quây quần xung quanh Bác. Bà con Việt kiều ở Pháp lúc đó rất tin tưởng ở Người.
Sau một thời gian cùng Bác đi thăm các nơi, một hôm Bác nói với ông:
- Ngày kia Bác về nước, chú có về cùng Bác?
Bác không hỏi là ông có muốn về hay không. Tuy vậy, đối với ông, việc về nước đã được chuẩn bị từ
lâu, nên không có gì cập rập. Ngoài ông ra, còn có hai người cùng về với Bác là: Võ Quy Huân và bác sĩ
Trần Hữu Tước.
Bác cháu cùng nhau về nước trên một chiếc tàu chiến của Pháp. Sau khi về nước một thời gian ngắn,
Bác giao cho ông chức Cục trưởng Cục quân giới.
Trong kháng chiến chống Pháp, những năm đầu Bác gửi thư cho ông, động viên và nhắc nhở là trong
chiến tranh nhân dân phải làm sao để các địa phương có thể tự túc được lương thực và huy động được lực
lượng tại chỗ, có vũ khí tiêu diệt Pháp. Chúng ta phải tự sản xuất lấy vũ khí. Đó là quan điểm chiến tranh
nhân dân.
Năm 1950, Bác chỉ định ông kiêm chức Thứ trưởng Bộ Công thương, ông có dịp gặp Bác thường xuyên
ở các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Có lần, Bác nói với ông, đại ý:
- Nếu vì những lý do nào đó mà cản trở công việc của chú, thì chú hãy báo cáo cho Bác biết.
10

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những ý kiến do ông đề xuất đều
được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng chấp nhận, tạo điều kiện thuận lợi làm
việc.
Khi chúng ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bác nói:
- Tôi đem chú Nghĩa về để kháng chiến. Bây giờ cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt, chưa biết diễn biến
sẽ ra sao, chú Nghĩa đang ở Hà Nội, tại sao không mời chú ấy tham gia quốc phòng.
Sau đó, Bác chỉ định ông làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, với tư cách là Thư ký quốc phòng.
Ba tháng sau, đồng chí Lê Đức Thọ mời ông tới nhà riêng và nói:
- Anh làm ba nhiệm vụ một lúc thì nặng quá, cho nên chức vụ "chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật
Nhà nước" để trên cử người khác thay.
Sau này, ông mới biết là Bác không đồng ý. Bác nói với các đồng chí trong Bộ Chính trị:
- Chú Nghĩa hồi kháng chiến chống Pháp làm bao nhiêu nhiệm vụ mà cũng làm được (Cục trưởng Cục
Quân giới, Cục trưởng Cục Pháo binh, Thứ trưởng Bộ Công thương). Tại sao sau mấy chục năm chú ấy
lại không làm được ba việc?
Cách đối xử của Bác với đồng chí Trần Đại Nghĩa đã thể hiện sự chung thuỷ, có trước có sau - một
trong những đức tính quý báu của Người. Đức tính quý báu ấy là tấm gương để chúng ta học tập.
Câu chuyện trên đây còn là bài học về sử dụng nhân tài. Hiện nay ở nước ta đã và đang có hiện tượng
chảy máu chất xám. Nếu không có sự thay đổi thì hiện tượng này sẽ còn tiếp diễn. Những sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi của các trường đại học trong nước đều không muốn làm cho các cơ quan nhà nước, vì thu
nhập thấp. Các em vào làm ở các công ty liên doanh của nước ngoài có lương cao. Còn sinh viên có học
bổng đi học tại các nước, nhiều em không trở về nước làm việc, bởi chế độ đãi ngộ, lương và điều kiện
làm việc thấp. Như vậy chúng ta đã lãng phí rất lớn, bởi số tiền đưa các em đi đào tạo ở nước ngoài không
phải là nhỏ, trong lúc đó đất nước ta còn nghèo.
Vậy mà ngay từ năm 1946, khi mới giành được độc lập, đất nước ở trong tình thế vô cùng khó khăn,
Bác đã mọi tìm cách thu hút nhân tài để phục vụ đất nước. Bài học này cho đến nay vẫn còn nguyên giá
trị.
Trích theo sách: Kỷ niệm về Bác, Nxb. thông tấn, H, 2005, tr.71
Bác đi thăm rừng Cúc Phương
11:16:00, 31/07/2007
Câu chuyện nhỏ sau đây do đồng chí Việt Phương, nguyên thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng,

người sống cùng với Bác trong Khu di tích Phủ Chủ tịch kể lại.
Tháng 2-1969, Bác muốn đi thăm rừng quốc gia Cúc Phương. Một số đồng chí lãnh đạo giới thiệu ở
đó có nhiều cái hay. Anh em mới xin: Thôi, chuyến này đi thăm rừng Cúc Phương, Bác đi máy bay lên
thẳng cho đỡ mệt. Bác không đồng ý, Người nói: “Các chú cho hễ là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước thì đi
đâu muốn dùng phương tiện gì thì dùng à? Không phải thế đâu. Để Bác khoẻ lên, Bác đi ô tô đến thăm
rừng Cúc Phương. Máy bay lên thẳng, để khi nào có người của chúng ta bị tai nạn hoặc bị đau nặng ở
vùng hẻo lánh khó chạy chữa thì dùng máy bay lên thẳng đón về nơi trung tâm có bệnh viện lớn. Hoặc lúc
nào nước sông lên to, mùa bão cần đi hộ đê thì lấy máy bay lên thẳng mà dùng. Chứ không phải bất kỳ đi
đâu, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước cứ dùng máy bay lên thẳng mà đi”. Bác nhất định không dùng, và vì
thế nên có một nguyện vọng của Bác là đi thăm rừng Cúc Phương, cuối cùng Bác không thực hiện được.
Là Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, Bác không dành cho mình một đặc ân nào cả. Bác chỉ nghĩ đến công
việc chung, nghĩ cho nhiều người. Câu chuyện nhỏ về việc dùng các phương tiện đi lại của Bác cũng nhắc
nhở cán bộ, nhân dân về những việc cần tránh, trong đó có việc dùng xe công như thế nào. Còn nhớ ngay
11
từ lúc nước nhà vừa độc lập, ngày 17 tháng 10 năm 1945, Bác đã có thư gửi uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng, sớm cảnh báo những việc ó thể xảy ra cần tránh, đó là: “Ăn muốn cho ngon, mặc muốn
cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức.
Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên, cho đến các cô các cậu uỷ viên cũng dùng xe hơi của công”.
Điều Bác nhắc nhở từ hơn nửa thế kỷ trước, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Nhân dân phản đối. Ống kính
của các nhà báo đã ghi lại biết bao nhiêu biển số xe công, trong giờ làm việc lại ở chợ biên giới, hội hè,
chùa triền
Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ, hãy bắt đầu từ những việc cụ thể nhất, và cán bộ phải là người
gương mẫu thực hành trước.
Nguyên tắc đạo đức "Nói thì phải làm" của Bác Hồ
20:52:00, 26/08/2007
Tiến Linh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng gần 40 năm, nhưng Người đã để lại cho muôn đời con cháu
mai sau một di sản tinh thần vô giá, đó là hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về Đảng cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết; về quân sự; Nhà nước của
dân,do dân,vì dân; về văn hoá và đạo đức

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh các nhà khoa học đã thống nhất và rút ra những nội dung cơ bản của
văn hoá đạo đức Hồ Chí Minh, đó là: trung với nước, hiếu với dân, phẩm chất đạo đức quan trọng nhất,
bao trùm nhất, là tình yêu thương đối với con người; là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và tinh thần
quốc tế trong sáng, đồng thời cũng khẳng định ba nguyên tắc đạo đức của Người: nói thì phải làm; xây đi
cùng với chống và tu dưỡng đạo đức suốt thời. Trong bài viết này chúng tôi xin đi sâu vào nguyên tắc đầu
tiên của đạo đức trong tư tuởng Hồ Chí Minh là "Nói thì phải làm".
Ngay từ những năm 20, khi còn bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tại lớp huấn luyện chính trị
ở thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, nơi đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc ấy lấy bí danh là Lý Thuỵ) đã có bài giảng về "Tư cách một người cách
mệnh". Trong bài giảng của mình Hồ Chí Minh đã nêu lên những đức tính cần phải có của một người
cách mạng, đó là: đối với mình, đối với người và đối với công việc, trong đó đối với mình được Người
đặt lên hàng đầu, bởi cái khó nhất của con người là phải đấu tranh với chính bản thân mình. Từ cuối cùng
của cả ba vấn đề mà Bác nêu lên trong bài giảng này đều là từ "phải", một từ có ý nghĩa bắt buộc trong
việc rèn luyện tư cách đạo đức, phong cách, lối sống và công việc của mỗi người. Bác viết
"Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hoà mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
12
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng tham muốn về vật chất.
Bí mật"1…

Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong sự
nghiệp cách mạng của mình, Bác có nhiều tác phẩm cũng như bài nói, bài viết về vấn đề này, như "Sửa
đổi lối làm việc", “Đạo đức cách mạng", "Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn", "Cần kiệm liêm chính", "cần
tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh" v.v
Từ những ngày đầu cách mạng chuẩn bị cho công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước thì "Tư
cách một người cách mệnh" tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ về những chuẩn mực của tư cách đạo đức, tác
phong lối sống, đối nhân xử thế và cách làm việc.
Bài báo cuối cùng Bác viết về đạo đức là "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân",
nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng (3-2-1969) khi sức khỏe của Người đã giảm sút.
"Nói thì phải làm", chỉ với bốn từ đơn giản tưởng chừng như rất dễ thực hiện ấy, nhưng suốt cả cuộc
đời mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng phấn đấu làm gương cho sự thống nhất giữa tư tưởng,
lời nói với hành động và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quanh vinh và Bác Hồ
vĩ đạI, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi đó
có vai trò to lớn của đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đại đa số chiến sĩ cách mạng là
người có đạo đức: Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì làm gương mẫu:
gian khổ, chất phác, kính trọng của công Đạo đức ấy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ
thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong"2.Và với bản thân mình, Bác đã làm đúng như khi trả
lời các nhà báo nước ngoài năm 1946 "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành"3.
Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với hành động, lời nói đi đối với
việc làm, là điều không dễ, nó đòi hỏi cần phải có sự cố gắng, bền bỉ và một quyết tâm, bởi bất kỳ công
việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay bé, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn
đấu thì cũng không thể thành công được. Kết quả công việc là thước đo của mỗi người. Với các cán bộ,
đảng viên và những người làm công tác lãnh đạo thì lời nói với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết,
vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo.
Trong đạo đức việc nêu gương là vô cùng cần thiết, vì " Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền"4.

Lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được nhiều người
hưởng ứng và làm theo. Để làm được điều đó, khi đề ra công việc tránh cách nói chung chung, đại khái và
khó hiểu, cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Ngược lại nói nhiều
làm ít hoặc nói mà không làm thì sẽ chỉ mang lại những kết quả phản tác dụng. Nếu chính mình tham ô
mà bảo người khác liêm khiết thì không được. Nếu rói rằng phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, mà
bản thân mình lại lười biếng, không hoàn thành những công việc được giao, không tiết kiệm, sống hoang
phí, xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều thiếu thốn , luôn tìm cách tham ô tiền
của Nhà nước và nhân dân thì những lời nói đó sẽ không có tác dụng giáo dục.
13
Với trình độ giác ngộ và dân trí ngày càng cao, không phải cứ nghe cán bộ nói là quần chúng sẽ làm
theo mà họ xem việc cán bộ làm. Bác Hồ đã chỉ ra rằng nhân dân chỉ quý mến những người có phẩm chất
và tư cách đạo đức tốt, vì vậy muốn hướng dẫn họ thì mình phải làm mực thước "Cần phải óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh Phải
thật thà nhúng tay vào việc"5.
Mỗi người, mỗi ngành, mỗi giới, mỗi tầng lớp nhân dân đều có những công việc, nhiệm vụ, cách làm
và trách nhiệm riêng. Do đó khi gặp các đồng chí lãnh đạo của từng ngành Bác đều chỉ ra cách làm sao
cho thiết thực, nhanh, gọn và đạt hiệu quả cao.
Với cán bộ và chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, Bác căn dặn "Các đồng chí cán bộ của Đảng ở các cấp
phải cố gắng tiến bộ hơn, để lãnh đạo bộ đội. Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu.
Giữ gìn kỷ luật, học tập kỹ thuật, luyện quân lập công, xung phong hãm trận, thân ái đoàn kết, nói tóm
lại, mỗi việc trong bộ đội, cán bộ đều phải làm gương. Như thế thì quân đội ta sẽ là một quân đội vô địch,
và kháng chiến nhất định thành công" 6.
Còn với công nhân, những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, thì Bác nhắc: "Phải nâng
cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi, nghỉ sớm, không ốm cũng
cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ luật lao động. Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua; nhà máy
không có kỷ luật lao động, không phải là nhà máy tốt. Kỷ luật lao động không phải Bác đưa ra hay ở đâu
đưa đến, mà chính là các cô, các chú bàn bạc, thông qua, tự giác thi hành. Thông qua rồi, ai không theo
không được”7.
Các cán bộ cần phải đi sâu đi sát, kiểm tra đôn đốc kết quả của việc thực hiện những công việc đã đề
ra, không thể làm theo lối quan liêu, như cách "Tỉnh gửi giấy về huyện, huyện gửi giấy về xã. Giấy không

thể che rét cho trâu bò được”8.
Lực lượng thanh niên, những chủ nhân tương lai của nước nhà, những người có vai trò rất lớn trong sự
thịnh vượng hay suy yếu của đất nước, Bác đã chỉ ra cho họ những việc cần phải làm, những đức tính tự
mình phải rèn luyện để có thể đảm đương được các trọng trách đó. Theo Bác mỗi thanh niên, nhất là mỗi
cán bộ phải kiên quyết làm cho bằng được những điều sau đây:
a) Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta,còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường
người ta hưởng trước
b) Các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được.
c) Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý.
d) Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.
e) Quyết tâm làm gương về mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
f) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết"9
Năm 1959, khi nói chuyện với giáo viên tại lớp học chính trị về nhiệm vụ vẻ vang của các thầy cô giáo
trong công tác giáo dục đào tạo thế hệ trẻ, Bác nhấn mạnh "Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn
hoá, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức.Ví như bảo học trò
phải dậy sớm mà giáo viên thì trưa mới dậy. Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với
trẻ con"10.
Cả cuộc đời mình Bác rất quan tâm đến việc rèn luyện tư cách đạo đức, tác phong của các cán bộ, đảng
viên, đến lời nói phải đi đôi với việc làm và bản thân Bác là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng, về kiệm liêm chính để chúng ta học tập và noi theo.
14
Sinh thời Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, tác phong làm việc, từ cách ăn mặc cho đến
những sinh hoạt hàng ngày, ngay cả khi Người đã là Chủ tịch nước. Tác phong giản dị ấy mang lại một sự
gần gũi, một ấn tượng khó quên với những ai đã được gặp Bác dù chỉ một lần. Vì Bác của chúng ta cao
mà không xa, mới mà không lạ, lớn mà không làm ra vĩ đại, toả sáng mà không choáng ngợp, gặp lần đầu
mà như thân thuộc từ lâu, bình dị, khiêm nhường trong công việc và trong khi giao tiếp với mọi người.
Bác ăn mặc rất giản dị và tiết kiệm "Chỉ có hai bộ áo quần ka-ki, một cái khăn tay vải to và hai đôi bí
tất. Khi ở Pa-ri về người ta thấy Hồ Chủ tịch mặc một bộ ka-ki đã vá. Có người yêu cầu Chủ tịch thay bộ
áo quần khác. Chủ tịch đáp: "Nhiều đồng bào ta, nều được bộ áo quần như thế này cũng là tốt lắm. Thế
thì việc gì tôi phải thay"11.

Đôi dép cao su của Bác, bộ quần áo ka ki sờn Bác vẫn dùng hàng ngày, khi biết các đồng chí phục vụ
định thay, Bác không đồng ý. Chiếc bút chì mòn vẹt Bác dùng để theo dõi tin tức trên báo. Những trang
bản thảo được Bác viết ở mặt sau của những tờ tin tham khảo của VNTTX. Chiếc ô tô Bác đi công tác, đi
thăm đồng báo chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là loại xe bình thường, Bác không dùng điều hoà nhiệt độ
do các đồng chí cán bộ ngoại giao đang công tác ở ngoài biếu, mặc dù ngôi nhà Bác đang ở lúc đó (nhà
54, lúc này Bác chưa chuyển sang nhà sàn) rất nóng. Bác đề nghị chuyển chiếc điều hoà nhiệt độ ấy cho
các đồng chí thương bệnh binh đang điều trị tại các trại điều dưỡng hoặc quân y viện. Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở trong ngôi nhà sàn đơn sơ, giản dị và đến khi
cách mạng thành công, trở về Thủ đô, Bác cũng chỉ ở trong ngôi nhà nhỏ của một người thợ điện, sau đó
chuyển sang ở nhà sàn, chứ không ở ngôi nhà to, sang trọng của toàn quyền Đông Dương. Bác dành ngôi
nhà sang trọng đó làm nơi đón tiếp khách của Đảng và Nhà nước. Những bữa ăn thanh đạm của Người
"Thường là dưa cà, đôi khi có thịt".
Sự tiết kiệm của Bác không chỉ thể hiện ở tác phong hay lối sống mà còn thể hiện trong việc sử dụng
đội ngũ cán bộ. Là Chủ tịch nước, nhưng những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, đi theo Bác
cũng chỉ là tổ công tác có ít người nhưng kiêm đủ mọi công việc. Cách mạng tháng Tám thành công, trở
về Thủ đô, nhưng các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ chủ tịch cũng rất ít. Những khi đi công tác xa, Bác
thường tạo điều kiện để các đồng chí phục vụ được về thăm gia đình, điều này thể hiện sự quan tâm của
Bác và cũng là một hình thức tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian.
Bác luôn luôn đòi hỏi các cán bộ, đảng viên phải tin yêu, quý trọng con người, phải kính già yêu trẻ và
Bác là tấm gương mẫu mực về tôn trọng con người. Với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế ở
khắp năm châu Bác dành trọn vẹn những tình cảm thương yêu, tình đồng chí, tình bạn và tình người thân
thiết. Bác đã từng khẳng định: Lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân loại không giờ thay đổi.
Gần tám mươi năm trôi qua, bài giảng về tư cách một người cách mạng, về đạo đức cách mạng, về
"Nói thì phải làm" của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Trong kháng chiến cũng như trong
công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước hôm nay, nhiều cán bộ, đảng viên, nhiều người đã làm tốt những
lời Bác dạy, đã có rất nhiều tấm gương tiêu biểu về sự hy sinh, lòng nhân ái, về cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư Đó là những con người luôn luôn đi đầu trong chiến đấu, lao động sản xuất và nghiên cứu
khoa học. Họ đã biết mang đức và tài của mình ra để cống hiến cho đất nước ngày càng nhiều hơn về vật
chất lẫn tinh thần. Song bên cạnh đó chúng ta cũng nhận thấy rằng còn có không ít những cán bộ, đảng
viên, đặc biệt một số cán bộ có chức, có quyền vẫn chưa làm đúng những lời dạy của Bác. Nạn tham ô,

tham nhũng, hối lộ, lãng phí, xa xỉ, quan liêu, công thần, cửa quyền ngày càng nhiều. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút về tư tưởng, chính trị và đạo đức, bị tha hoá về lối sống. Tình trạng
đạo đức giả, nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo, không phải là ít. Tình trạng
đó đã gây nên sự giảm sút lòng tin và uy tín của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Để có một xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân dân thực sự được hưởng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
đất nước ngày càng mạnh giàu, hơn lúc nào hết lối sống mình vì mọi người, mọi người vì mình, phương
châm và nguyên tắc sống "Nói thì phải làm" cần phải được thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Làm đựơc như vậy là chúng ta đã làm tốt những điều mà lúc còn sống Bác Hồ luôn mong muốn
và căn dặn.

15
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.2, tr.260.
2. Sdd, t.7, tr.568
3. Sdd, t.4, tr.161
4. Sdd, t.1, tr. 263
5. Sdd, t.5, tr. 699
6. Sdd, t.5, tr. 394
7. Sdd t.8, tr.341
8. Sdd, t.12, tr. 213
9. Sdd, t.5, tr.185-186.
10.Sdd, t.9, tr. 492
11. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975; tr:
148.
Những lời dạy của Bác về đạo đức
14:42:00, 01/04/2007
Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hoà mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.

Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng tham muốn về vật chất.
Bí mật.
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
16
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể.
- Đường cách mệnh, 1927.
- Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr.
260.

Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông,
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công.

- Nghe tiếng giã gạo, t. 3,
tr. 350.

Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ
tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của
quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm
một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các
cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi.
- Trả lời các nhà báo nước ngoài,
21-1-1946, t. 4, tr. 161.

Những lỗi lầm chính là:
1. Trái phép
2. Cậy thế
3. Hủ hoá
4. Tư túng
5. Chia rẽ
6. Kiêu ngạo
Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm, thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên,
ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã
phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa.
- Thư gửi Ủy ban nhân dân các
17
kỳ tỉnh, huyện và làng,
17-10-1945, t. 4, tr. 57, 58.

1- Mình đối với mình : Đừng tự mãn, tự túc; nếu tự mãn, tự túc thì không tiến bộ. Phải tìm
học hỏi cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo, học lấy điều hay của người ta. Phải siêng năng tiết kiệm.

2- Đối với đồng chí mình phải thế nào? Thân ái với nhau, nhưng không che đậy những
điều dở. Học cái hay sửa chữa cái dở. Không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên
ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị
- Bài nói chuyện với cán bộ
tỉnh Thanh Hoá,
20-2-1947, t. 5, tr. 54.

Chúng ta phải kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm sau đây:
a. Địa phương chủ nghĩa
b. Óc bè phái…
c. Óc quân phiệt, quan liêu
d. Óc hẹp hòi
e. Ham chuộng hình thức
f. Làm việc lối bàn giấy
g. Vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm
h. Ích kỷ, hủ hoá
- Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ,
1-3-1947, t. 5, tr. 71 - 74.

Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, v.v , mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ
địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch
bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ
địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó.

Chúng ta chống bệnh chủ quan, chống bệnh hẹp hòi, đồng thời cũng phải chống thói ba
hoa. Vì thói này cũng hại như hai bệnh kia. Vì ba thứ đó thường đi với nhau.
- Sửa đổi lối làm việc, 10-1947,
t. 5, tr. 238, 239, 299.

Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,

không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
18
- Sửa đổi lối làm việc, 10-1947,
t. 5, tr. 252-253.

Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là
một dân tộc văn minh tiến bộ.
Dân tộc ta đang kháng chiến và kiến quốc, đang xây dựng một Đời sống mới trong nước
Việt Nam mới. Chẳng những chúng ta phải cần, kiệm, chúng ta còn phải thực hành chữ Liêm.
- Cần Kiệm Liêm Chính, 6-1949,
t. 5, tr. 642.

Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
- Cần Kiệm Liêm Chính, 6-1949,
t. 5, tr. 631.

Chúng ta hay nể nả. Mình chỉ biết mình thanh liêm là đủ - Quan niệm: Thanh cao tự thủ
không đủ. Tất cả chúng ta phụ trách trước nhân dân trong anh em phải có phê bình và tự phê
bình phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo phê bình và tự phê bình.
- Lời phát biểu trong phiên họp Hội đồng Chính phủ,
11-1950. Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tất cả chúng ta phải thi hành phê bình và tự phê bình một cách liên tục và thực thà Có thế
ta mới tiến bộ Nhưng nhận lỗi chưa đủ, phải kiên quyết sửa lỗi.

- Lời phát biểu trong phiên họp Hội đồng Chính phủ,
11-1950. Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Cải tạo thế giới là việc to, phải trường kỳ gian khổ.
Kháng chiến để cải tạo nước nhà cũng phải trường kỳ và gian khổ. Muốn cải tạo mình,
cũng phải trường kỳ và gian khổ, chứ không phải là dễ đâu.
Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước
hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được.
19
Ai cũng thấy siêng năng, trong sạch là tốt. Điều đó không ai chối cãi được. Thế mà vì sao
vẫn không làm hay không làm được? Chẳng những không làm được mà còn làm trái lại? Đó là vì
cái tâm mình không chính.
Phải thấy kẻ địch trong mình ta nó mạnh lắm. Đế quốc bên ngoài có thể dùng súng dùng
đạn để đánh được kẻ địch trong người không thể dùng lựu đạn mà ném vào được; nó vô hình, vô
ảnh, không dàn ra thành trận, luôn luôn lẩn lút trong mình ta. Nó khó thấy, khó biết, nên khó
tránh. Nhưng đã biết việc phải thì kiên quyết làm.

Có hai con đường ở thế giới, ở trong nước và ở trong mình.
Theo con đường ác thì dễ dàng, nhưng lăn xuống hố.
Theo con đường thiện thì khó nhọc, nhưng vẻ vang.
Quyết tâm là làm được.
Cái gì khó bằng làm cách mạng, bằng đánh Tây, bằng cải tạo xã hội? Thế mà ta làm được.
Cán bộ có quyết tâm thì cải tạo được mình, được nước nhà, được xã hội.
- Bài nói tại lớp chỉnh Đảng
Trung ương khoá 2, 3-1953,
t. 7, tr. 59, 60, 62, 63.

Khiêm tốn là một đạo đức mà mọi người cách mạng phải luôn luôn trau dồi.
- Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn,
ký tên C.B.

- Báo Nhân Dân, số 194, t
ừ 13 đến 15-6-1954, t. 7, tr. 296.

Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.
Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
Có thể những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất
phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi.
Cho nên bom đạn của địch không nguy hiểm bằng "đạn bọc đường" vì nó làm hại mình
mà mình không trông thấy.
Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hoá, thì phải luôn thực hiện 4 chữ mà Bác
thường nói. Đó là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
- Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản
Thủ đô, 5-9-1954, t. 7, tr. 346, 347.

Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.
20
Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến
đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm.
Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu
dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được.
- Bài nói chuyện tại Hội nghị
sản xuất cứu đói,
13-6-1955, t.7, tr. 572.

… Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thần, tự tư, tự lợi.
- Bài nói chuyện tại Đại hội
đại biểu toàn quốc Đoàn
Thanh niên Lao động Việt Nam,

2-11-1956. - T. 8, tr. 263.

… Chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể, và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã
hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt.
- Đạo đức cách mạng,
12-1958, t. 9, tr. 282.
Đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách
của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu
trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng
cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.

Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.

Đạo đức cách mạng là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung
thành phục vụ giai cấp công nhân và nông dân lao động, tuyệt đối không thể lừng chừng.

Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống
mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu
cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng.

21
Đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết
làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên
phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn ngừa và kiên quyết
chống lại chủ nghĩa cá nhân.


Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
- Đạo đức cách mạng, 12-1958,
t. 9, tr. 285, 286, 288, 290.
Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi
ích chung của tập thể. "Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy". Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư
nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, v.v Nó là kẻ thù
hung ác của đạo đức cách mạng.
- Bài nói chuyện tại Đại hội
lần thứ III của Đoàn
Thanh niên Lao động Việt Nam,
24-3-1961, t. 10, tr. 306.

Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình, hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu
khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội.

Tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp, mà
ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ.

Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu gương "Cần, kiệm, liêm,
chính" không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân, phải chống bệnh
quan liêu, mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng phí.

Cán bộ và đảng viên lại càng phải có tinh thần ấy(1) phải gạt bỏ những thái độ sai lầm
như: thoả mãn với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có, có ít nhiều
tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hoài nghi những sáng kiến bình thường của quần
chúng; lười biếng, không tích cực học tập cái mới, v.v
Những tư tưởng, tác phong xấu cần chống lại là:
- Chủ nghĩa cá nhân,

- Quan liêu, mệnh lệnh,
- Tham ô, lãng phí,
- Bảo thủ, rụt rè.
22
- Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, 3-1961, t.10, tr. 310,
313, 314, 315.
(1) Tinh thần dám nghĩ, dám làm, tinh thần tập thể, tinh thần kỷ luật, ra sức học tập, sáng tạo, tìm tòi cái mới,
ủng hộ cái mới.
Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn luôn nhớ:
"Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên".
- Bài nói tại kỳ họp Hội đồng
Chính phủ cuối năm 1966,
24-12-1966, t. 12, tr. 185.

Chớ bỏ qua những việc mà các chú tưởng là tầm thường tất cả những việc làm như vậy
đều nói lên tinh thần yêu nước, đạo đức trong sáng, thuần phong mỹ tục của nhân dân ta. Chúng
ta đánh giặc và xây dựng xã hội mới bằng những việc làm muôn hình muôn vẻ của hàng chục
triệu con người như thế, chứ không phải chỉ bằng một vài việc làm nổi bật và vang dội của một số
cá nhân anh hùng.

Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây
dựng con ngươì. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo dục lẫn
nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết
phục rất lớn.
Ra sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng và sống với nhau có tình có nghĩa. Lấy gương
người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính
là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất.

Muốn giáo dục nhân dân, làm cho mọi người đều tốt cả thì cán bộ, đảng viên phải tự giáo

dục và rèn luyện hằng ngày

Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách
mạng.

Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt
nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống
mới.
- Ý kiến về việc làm và xuất bản
loại sách "Người tốt việc tốt",
6-1968, t. 12, tr. 550, 551.
23
554, 557, 558.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
- Di chúc, 1969, t.12, tr. 498.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho dời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
- Di chúc, 10-5-1969,
t. 12, tr. .510.
24

×