Nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sài Gòn
Nguyễn Ngọc Huy
I/ Nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sài Gòn
Trong "Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị" của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là
củi thổi, Gòn: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong
Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàigòn thì Ðại Nam Quốc
Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.
Ðịnh nghĩa Sàigòn của quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên
Sàigòn trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là
Sàigòn hiện nay thì trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận
nhờ hai người Anh là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ
theo lời những người này thuật lại thì Sàigòn và Bến Nghé (mà các tác giả
trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách
xa nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh
phủ, còn Sàigòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Hoa
kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes
Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2).
Vậy, Sàigòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác
nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông
Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàigòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng
làm trung tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại
quốc phát âm hơn Sàigòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi
Bến Nghé là Sàigòn, còn vùng trước đó gọi là Sàigòn thì được gọi là Chợ
Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Ðằng
Trong, cho là dường như đã có từ đời vua Gia Long.
Cũng theo quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên
Sàigòn có nghĩa là củi gòn. Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này
mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức.
Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người
Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn
thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885.
Sau ông Trương Vĩnh Ký, còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong
thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sàigòn Chợ
Lớn hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sàigòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei
Kor tức là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người
Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú
Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào
(mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai
Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des
kapokiers).
Thuyết về nguồn gốc tên Sàigòn của các học giả Việt Nam trên đây sau này
đã bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn
Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng
có thể có nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là
Rừng Gòn.
Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đã tìm
được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này.
Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam.Bu.Chia
xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas
Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng hậu la` con gái chúa Sãi
(Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa
Nguyễn.
Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng
của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do
tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay
thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có
nghĩa là thành phố.
Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa
vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của
các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã
theo ý kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng
Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía
tây (tribut de l'ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây
nếu đọc theo V.N là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát
âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã
dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là khi Cam Bu
Chia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa
Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi
vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).
Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàigòn Năm
Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua
bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi
được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi
họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa
Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để
ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao
dốc trên có đe ngăn nước. Ðề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa
phát âm theo giọng Quảng Ðông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn.
Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sàigòn chính do Thầy Ngồnn mà ra.
Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng
Sển cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sàigòn của ta và khi viết ra Hán văn
thì họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.
Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sàigòn:
1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng
Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi gòn.
2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sàigòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây
Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây.
3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sàigòn do tiếng Thầy Ngồnn tức là Ðề
Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có
đê ngăn nước. Còn về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó
chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàigòn sau khi
tên này được dùng đẻ chỉ đất Bến Nghé cũ.
Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thật sự, không
cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những
người nêu ra các thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa
danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa
danh này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:
Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng
Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ
gọi lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng
Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư,
đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã
nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải
Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai
Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau
voói người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu
cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kếo đến và người
Khmer phải bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống,
tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.
Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến
Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu.
Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua
Cam.Bu.Chia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey
rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và
có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.
Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi
mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều
đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng
Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v Mặt
khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân
đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên
nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là
Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến
Nghé.
Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể
suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa
của Sàigòn không ổn.
Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì
các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa phương
này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để
thành Sàigòn, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã
gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân,
Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ
sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã
dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà
gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn
Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm
chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ
mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy
Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán
Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày
xua rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng,
Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi
viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt
đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng
phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.
Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.
Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và
nguồn gốc tên Sàigòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn
Phát cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon,
mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi
không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa
của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói
thì tên Sàigòn do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo
giọng Việt Nam như thông lệ.
Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề
này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng
Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử
giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người
Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ
kiện sau đây để suy luận:
1. Vào đầu thế kỷ 17, nước Cam Pu Chia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện
nay) uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống
lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái
chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đến năm
1623 lại đẻ cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàigòn, Chợ
Lớn ngày nay.
2. Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mãi thạnh vượng từ năm
1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn
phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước
vùng này chưa có mua bán gì nhiều.
3. Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông
Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy,
lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước
đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.
4. Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn
bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Pu Chia đã dễ dàng
cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng
và quyền lợi thuế vụ lớn thì vua Cam Pu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc
lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của
chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng gì? Có thể một trong
những món hàng được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây
gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để
có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn để đem
về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng
này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều
cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức
Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này
là Sàigòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.
5. Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người
thì nói là Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử
Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie
Nokor là thành phố của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm
Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những
chỗ không ổn.
Nếu Prei Kor có nghĩa là Rùng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng
như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở
dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp
với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng
thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây
thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành
Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì.
Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó
chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia chua
chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ,
không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay
rừng của vua được.
Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không
vững. Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-
Chia cho chúa Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều gòn
và là nơi mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến
đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua
hay thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này
chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại
tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả
thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giải quyết được: đó là
một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn,
và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự.
Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi
không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây.
Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái
lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn
yêu dấu của chúng ta.
(Viết vào thập niên 80).
Nguyễn Ngọc Huy
Bài Tóm lược:
Nguồn gốc cái tên Sài Gòn
Địa danh Sài Gòn tuy đã được nhắc đến rất nhiều trong văn thơ và ca dao ở
Việt Nam, nhưng nguồn gốc của nó vẫn còn là đề tài tranh luận. Có nhiều
giả thuyết về nguồn gốc tên gọi này. Cho đến nay, nguồn gốc của tên "Sài
Gòn" vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Thành phố đã đổi tên năm 1976. Chữ
"Thành phố" là một phần trong tên gọi của đơn vị hành chính "Thành phố H
C M ".
Đề Ngạn
Ông Vương Hồng Sến cho rằng "Sài Gòn" bắt nguồn từ người Hoa. Năm
1778 người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Hòa) vì giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị
quân Tây Sơn tàn sát phải rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé), chọn
vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau
thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 họ lại bị quân nhà Tây Sơn tàn sát một lần
nữa. Ít lâu sau họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là "Tai-
Ngon", hoặc "Tin-Gan", phát âm theo giọng Quảng Đông là "Thầy Ngồn"
hay "Thì Ngòn", đọc theo giọng Việt là "Đề Ngạn". Họ dùng danh từ "Tây
Cống" hoặc "Xây-cóon", "Xi-cóon" để ám chỉ vùng người Việt ở tức chợ
Bến Thành ngày nay.
Củi và Bông gòn
Có thuyết nói rằng "Sài Gòn" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và
"Gòn" là chữ Nôm chỉ cây bông gòn.
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gòn là tiếng Nam
chỉ bông gòn. Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông
gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu
vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận. Theo ý tôi, hình như
tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành
phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó."
CẢNG SAIGON
(Trương Vĩnh Ký, Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong
Excursions et Reconnaissance X. Saigon, Imprimerie Coloniale 1885)
Tương tự có nhiều thuyết cho rằng "Sài Gòn" từ chữ "Prey Kor" ("Rừng
Gòn") hay "Kai Gon" ("Cây Gòn") mà ra.
Theo hoiquanphidung.com