Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

NGUỒN GỐC TRUYỆN CỐ TÍCH VIỆT NAM - Phần 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.97 KB, 13 trang )

NGUỒN GỐC TRUYỆN CỐ TÍCH VIỆT – NAM
Phần 3
Hãy lấy hai truyện làm lệ chứng:
1. Truyện Ông già họ Lê (số 153), qua so sánh thấy rõ là tiếp thu từ
truy    ện Tờ di chúc (án thứ 46) trong Bao Công kỳ án Trong truyện
gốc này, chứng cứ Bao Công dựa vào chỉ vẻn vẹn có mấy câu chữ Hán có ý
nghĩa "lưỡng đao luận" nếu không nói là mơ hồ[23]. Cho nên để xây dựng
lại cũng cốt truyện ấy nhưng với lý lẽ chắc nịch hơn, tác giả Việt-nam đã
đưa thêm vào một tình tiết rút trong truyện Gia sản một bức tranh ở sách
Kim c    ổ kỳ quan . Chắc chắn đối với thính giả là người Việt-nam,
thì ví thử không có tờ di chúc thật nằm trong pho tượng, mảnh giấy có 21
chữ Hán của ông già để lại sẽ chẳng có nghĩa lý gì cả[24].
2. Truyện Nữ hành giành bạc (số 38) cũng tiếp thu từ truyện Nhờ câu
đối mà tra ra án (án thứ 34) của Bao Công kỳ án     [25]. Đem đối
chiếu hai truyện, sẽ thấy truyện của ta có tình huống và sự tiến triển mạch
lạc hơn, lô-gích hơn. Mặt khác, truyện của ta loại bỏ được yếu tố huyền ảo
vốn có trong truyện gốc, nó chỉ làm tăng phần siêu hình mà nhẹ phần lý trí,
là phần người nghe đang mong đợi. Tóm lại, nó đã được hoán cải tuy có vẻ
nhẹ nhàng nhưng lại đổi mới kết cấu của truyện cũ.
Hai trường hợp dưới đây cho thấy việc đi tìm cội nguồn truyện cổ tích
quả là vấn đề khó, càng tìm những cội nguồn xa xôi lại càng khó khăn.
Truyện Người lấy ếch (số 129) sơ bộ tìm hiểu có thể kết luận là vay
mư   ợn của cốt truyện Thần ếch xanh trong Liêu trai chí d    ị .
Như Từ điển thần thoại Trung-quốc của Uéc-ne (Werner)[26] có nói đến,
người dân Nam Trung-quốc đặc biệt có tục sùng bái đối với loài ếch. Họ lập
miếu thờ chúng, chẳng hạn hiện tượng còn thấy ở các tỉnh Giang-tô, Trấn-
giang, v.v Ở đây người ta cầu xin thần ếch xanh phù hộ cho mình buôn
bán phát tài và tránh các bệnh tật Vì vậy, có thể tin truyện Thần Ếch Xanh
   trong Liêu trai chí d    ị bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân
gian hay ít ra Bồ Tùng Linh cũng dựa vào tín ngưỡng mà hư cấu nên.
Nhưng truyện của Việt-nam tuy có một số tình tiết tương tự với truyện


của Liêu trai chí d    ị vẫn có cơ sở để nghĩ rằng nó cũng thoát thai từ
trong tín ngưỡng của người Việt nếu như truyện đó không chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ một truyện nào khác ngoài truyện của Liêu trai. Hiện nay ở Việt-
nam đã không còn tục thờ thần ếch, hơn nữa, người Việt-nam lại là dân tộc
có tập quán dùng ếch làm thức ăn. Song từ xưa dân ta vẫn cho loài ếch là vật
linh thiêng, biết trước mưa gió, cũng linh thiêng không kém gì cóc. Ở Nghệ -
Tĩnh mãi đến ngày nay nông dân vẫn có thói quen xem xương đùi ếch để
đoán trước trời có mưa hay không, và mưa vào khoảng nào trong tháng. Lại
có câu: Ếch oa gọi ra mưa rào". Sách Thoái thực ký văn của Trương Quốc
Dụng có chép: "Nay tục cho rằng [năm nào] ếch (điền oa) kêu sớm mà tiếng
kêu nhộn nhịp thì được mùa, kêu muộn mà thưa thớt thì mất mùa. Lại những
con cóc [thiềm thừ] và nhái xanh [thanh oa] trong những tháng nắng mà [cất
tiếng] kêu thì có cái triệu sắp mưa"[27]. Không những thế, trước chúng ta
vào đầu thế kỷ, Đờ Grút (De Groot) đã sớm nói đến ý nghĩa của ếch nhái đối
với tín ngưỡng của các dân tộc phương Đông, nó là biểu tượng của sự phồn
thực. Điều này còn được trống đồng chứng minh[28]. Tiếp theo, Pen-li-ô (P.
Pelliot) cũng thông báo một nhận xét khi ông dịch quyển Chân lạp phong
th     ổ ký ra tiếng Pháp[29]: từ thế kỷ XIII, người Khơ-me
(Khmer) ở phía Nam Đông-dương cũng không có tục bắt ếch nhái làm thức
ăn. Sự việc đó hẳn có liên quan ít nhiều đến tín ngưỡng.
Những tài liệu cũng như ý kiến về ếch nhái nói trên sẽ giúp ta tìm hiểu
tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Việt xa xưa liên quan đến truyện
Người lấy ếch. Đáng tin cậy hơn nữa là, trong truyện của chúng ta, nhân vật
nàng ếch lại mang cái tên là Bạch Nga Long và là con gái của Long Hải
Vương, tức là ếch nhưng lại có quan hệ trực tiếp đến nòi rồng. Những cái tên
này tuy có vẻ chẳng có gì là quan trọng, nếu gặp người kể chuyện ưa nói
phiếm chỉ, rất có thể đã bỏ qua. Nhưng thật may mắn, nó lại được bảo lưu
đến nay để cấp cho chúng ta một thông tin có thể liên quan đến nguồn gốc
truyện Người lấy ếch, nếu ta liên hệ truyện cổ tích này với một câu tục ngữ
của dân tộc Mông-cổ phản ánh một quan niệm cổ truyền của họ: Rắn và ếch

là những con vật thù ghét nhau, song chúng đều có họ hàng với Long vương
cả". Hơn cả chúng ta, người Mông-cổ tin rằng ếch có nhiều tài phép, ví dụ
có thể làm ra mưa đá. Nó hút lấy nước vào bụng rồi bằng phép huyền bí,
biến nước ấy thành những trận mưa đá, v.v [30].
Như vậy phải chăng truyện Người lấy ếch của ta là do cha ông chúng
ta sáng tạo, có sự trùng hợp ngẫu nhiên hay cố ý nào đó với truyện Liêu trai
chí d    ị ? Hay phải chăng truyện ấy vốn có gốc từ một vùng xa xôi
nào đó (ví dụ Mông-cổ) rồi bằng một con đường nào đó truyền đến Vìệt-
nam? v.v Tưởng cũng cần chờ sự tìm tòi nghiên cứu thêm của các nhà cổ
tích học.
Truyện Tinh con chuột (số 115) của ta kể câu chuyện một con chuột
sống lâu năm thành tinh nhân khi chủ nhà đi vắng hóa thân thành một người
giống hệt như chủ lén lút đi lại với vợ chủ. Cho đến khi việc vỡ lở vẫn
không chịu thôi. Do đó y đã gây ra vụ án oái oăm, nếu không có thần lực của
Phù Đổng thì cả vua lẫn quan đều bó tay. Truyện này có nhiều dị bản quốc
tế như của Lào, Khơ-me (Khmer), Ấn-độ, Trung-quốc, v.v , nhưng có lẽ
bản của Trung-qu    ốc trong Bao Công kỳ án , tức là truyện Con mèo
mặt ngọc (án thứ 4) là gần với ta hơn cả. Phải chăng truyện của ta trực tiếp
bắt nguồn tư cốt truyện này? Xem xét kỹ truyện của Trung-quốc ta thấy
nhân vật phản diện ở truyện này gồm đến 5 con yêu"[31] chuột chứ không
phải 1 như truyện của ta Cũng ở đây nữa, tình tiết của truyện Trung-quốc
không đơn giản như truyện của ta và các dị bản quốc tế khác, diễn biến câu
chuyện mỗi lúc một phức tạp làm cho người đọc có ấn tượng là tác giả Bao
Công kỳ án đã đi quá xa một truyện kể thông thường, có nghĩa là phần nào
đã tiểu thuyết hóa nó. Chính vì thế, chúng tôi ngờ truyện Con mèo mặt ngọc
là dựa trên cơ sở một truyện dân gian (cũng có thể là dựa trên một dị bản nào
đó tương đồng với truyện của ta) rồi phát triển thành, chứ không phải truyện
của ta vay mượn" truyện trong Bao Công kỳ án và rút số lượng nhân vật
phản diện từ năm xuống một. Căn cứ vào kết cấu và hình tượng của truyện,
có thể suy luận rằng, nếu truyện của ta có nguồn gốc ngoại lai chăng nữa thì

cũng có thể chịu ảnh hưởng của Ấn-độ gián tiếp qua truyện của Khơ-me
(Khmer), hoặc của Lào.
Mặt khác, theo Lê-vi (A. Lévi) trong Nghiên cứu truyện [cổ tích] và
tiểu thuyết Trung-quốc thì truyện trên của Trung-quốc, ngoài Bao Công kỳ
án     ra đời vào năm 1597, còn thấy chép trong Tây dương ký    ,
sách này có l   ẽ do La Mậu Đăng soạn (bài tựa đề năm 1597). Như
vậy về mặt niên đại, truyện của Trung-quốc chỉ có thể được ghi chép hoặc
biên soạn vào cuối thế kỷ XVI còn truyện của ta vốn được lưu truyền rộng
rãi trong dân gian[32], mô-típ của nó còn để dấu vết lại trong truyện Hà Ô
Lôi ở Lĩnh-nam chích quái (sưu tập từ đời Trần), bản thân nó được biên soạn
hoàn chỉnh trong sách Thánh Tông di thảo. Và nếu đúng sách này là di thảo
của Lê Thánh Tông thì dễ thường câu chuyện còn được hoàn chỉnh trước
truyện của Trung-quốc gần nửa thế kỷ[33]. Đó là nhận xét rút ra từ văn bản
học. Nhìn chung ở cả hai phía, ý kiến đều có sự ăn khớp nhất định. Mặc dầu
vậy, vấn đề vẫn cần được nghiên cứu sâu thêm.
Tóm lại, kho tàng truyện cổ tích Việt-nam thực tế có chịu ảnh hưởng
của truyện cổ tích Trung-quốc. Nhưng sự tiếp nhận của người Việt là có
chọn lựa và có chừng mực. Rất ít khi cha ông ta sử dụng cả cốt truyện mà
chỉ vay mượn từng bộ phận. Khi được lắp ghép, hoán cải, mỗi bộ phận
thường trở thành những truyện khỏe mạnh, thích hợp với cảm quan thẩm mỹ
của dân tộc.
5. Đối với Ấn-độ, một nhận xét đầu tiên dễ được chấp nhận là kho
tàng truyện cổ tích Việt-nam thường tiếp thu ở họ hầu hết những truyện cổ
tích thuộc tiểu loại thần kỳ. Sự thật là vậy. Nhiều truyện thần kỳ của chúng
ta nếu không có mặt trong sách Pan-cha-tan-tơ-ra (Panchatantra), một sưu
tập những truyện giáo huấn khá phổ biến do Vi-nu-xác-man (Vinoussarman)
biên soạn thì cũng có thể có mặt trong các bộ kinh Tam tạng, Đại tạng, hay
là bộ sách lớn Ka-tha-xa-rít-xa-ga-ra (Kathâsaritsâgara: Biển truyện) do Sô-
ma Đê-va (Soma Déva) sưu tập.
Truyện Tiêu diệt mãng xà (số 148) nói về một nhân vật anh hùng giao

chiến với mãng xà - con vật chuyên ăn thịt phụ nữ, được nhà vua định kỳ
cung đốn hằng năm. Truyện này rất phổ biến ở nhiều địa phương trong nước
ta, với những hình tượng biến đổi khác nhau (ví dụ mãng xà có khi là rết
thần, có khi là lợn thần, có khi là muỗi thần, cũng có khi là quỷ Xương
Cuồng, ma Rai, bà Dằn, v.v ); cách giết là bằng dao kiếm, nhưng cũng có
khi bằng mẹo, bằng hun lửa, hoặc bằng cứt gà, v.v Có lẽ đây là câu chuyện
gắn với một cổ tục xa xăm: việc hiến tế bằng máu người mà dường như ở
Việt-nam dưới thời phong kiến vẫn còn lưu tàn tích. Nhưng Tiêu diệt mãng
xà cũng lại là mô-típ quen thuộc của kho tàng cổ tích từ Á sang Âu. Riêng ở
Trung-quốc, Ê-béc-hac-đơ (W. Ếberkhard) giới thiệu cho ta đến 14 dị bản.
Vậy cốt truyện từ lâu đã mang tính quốc tế. Sách Sưu th   ần ký từng
chép nó vào khoảng thế kỷ IV. Nhưng trong Sưu thần ký lại không thấy chép
phần sau của truyện vốn cũng phổ biến không kém gì phần đầu (tức là từ chỗ
nhân vật anh hùng đi tìm mảnh kiếm gãy giắt trong đầu mãng xà làm cho sự
dối trá của nhân vật cản trở bị bại lộ). Ở truyện Ấn-độ, thay cho mảnh kiếm
là khúc đuôi mãng xà; ở truyện Áp-ga-nit-xtăng (Afghanistan) cũng như
trong Tờ-rít-xtăng và I-dơn (Tristan et Iseult) thì nhân vật anh hùng sớm cắt
được cái lưỡi quái vật; cả ở truyện của dân tộc Ja-rai (Djarai) là nhờ cô gái
(nạn nhân được cứu) giữ được vỏ gươm và đuôi khố ân nhân , nói chung
đều là dấu hiệu để người được cứu nhận ra ân nhân thực của mình. Chính vì
thế, chúng tôi cho rằng truyện này là do người Việt-nam tiếp thu được của
Ấn-độ hơn là của Trung-quốc.
Truyện Người dân nghèo và Ngọc hoàng (số 136) của ta là một câu
chuyện có cấu trúc rất chặt chẽ, hình tượng nhân vật và mọi tình tiết đều
mang tính dân tộc đậm đà, tính tư tưởng cũng khá nổi. Mục đích của nhân
vật chính là đi tìm Ngọc hoàng để hỏi sự việc cho chính mình "Không ai
giàu ba họ, không ai khó ba đời", nhưng dọc đường, anh đã nhận lời hỏi giúp
người khác thêm ba câu nữa. Gặp Ngọc hoàng, trước tiên hỏi hộ cho người,
còn câu hỏi của mình thì để lại sau cùng, ngờ đâu ý định đó không thực hiện
được, vì Ngọc hoàng chỉ giải đáp ba lần rồi vì bực mình bỏ về trời. Nhưng

chính kết quả của những lời giải đáp cho người lại vô tình làm sáng tỏ vấn
đề của đương sự, vì tiến triển về sau của câu chuyện đều giúp cho nhân vật
lần lượt đạt được nguyện ước: nhận viên ngọc để có sự thông minh, nhận
vàng để được đi thi đỗ cao, và cuối câu chuyện cũng lấy được cô gái câm do
chính mình "khai khẩu" sau khi đỗ Trạng.
Thế nhưng cốt truyện của truyện này lại là cái "chung" rất phổ biến
của quốc tế, mà mỗi dân tộc thường có nhiều dị bản (Trung-quốc có 11 dị
bản, Nhật-bản 18 ). Tuy vậy, theo Ê-béc-hac-đơ (Éberkhard) thì truyện
Trung-quốc là từ Ấn-độ truyền sang. Tuy mang sắc thái dân tộc tính khá
đậm, truyện của ta cơ bản lại phù hợp với sơ đồ cốt truyện mẫu của Ấn-độ
được trình bày trong bảng tra cứu của A-ác-nơ (A. Aarne) và Tôm-xông (S.
Thompson)[34], chỉ có khác là hình tượng nhân vật thay đổi hẳn: Ngọc
hoàng → ở sơ đồ là nhà thông thái; con ba ba thắc mắc vì sống trên một
nghìn năm mà chưa hóa kiếp được → ở sơ đồ là con cá bị các con cá con cắn
xé; cây cam → ở sơ đồ là cây táo. Truyện của chúng ta có thêm tình tiết
nhân vật chính đi thi đỗ Trạng là hình thức sinh hoạt đặc thù của cổ tích dân
tộc mà sơ đồ dĩ nhiên không có. Còn nói chung, những câu hỏi trong truyện
của ta rất chuẩn so với những câu hỏi của sơ đồ.
Truyện Con chim khách mầu nhiệm (số 124) cũng là một cốt truyện
mang cái "chung" phổ biến của quốc tế, lấy đề tài về một con chim kỳ lạ,
nhờ ăn được thịt nó (hoặc ăn tim gan, hoặc ăn đầu, hoặc ăn thịt hai con trống
mái, hay đen trắng ) nên hai anh em nhân vật chính trở nên có số làm vua
trên hai vương quốc hoặc mỗi sáng nhả ra hai trứng vàng, hoặc nhặt được
hai quả trứng vàng ). Người Khơ-me (Khmer) cũng có một truyện tương tự
nhưng hình tượng nghệ thuật và diễn tiến của câu chuyện lại không giống
hẳn. Ê-béc-hac-đơ (W. Éberkhard) thì cho cốt truyện này không lưu hành ở
Trung-quốc[35] mà phổ biến ở Ấn-độ. Trong bản Sách dẫn về mô-típ văn
học dân gian[36], Tôm-xông (S. Thompson) cũng cho là có nguồn gốc từ
Ấn-độ. Có thể truyện của ta chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những truyện khá
gần gũi của Ấn-độ và Ba-tư (Iran) chăng?

Thực ra, truyện Con chim khách mầu nhiệm của chúng ta có phần gần
gũi với truyện A-rớ Y-răng của người Cham-pa hơn là truyện của người
Khơ-me (Khmer). Điều đó kết hợp với suy luận của Cô-xcanh (E.Cosquin)
đã dẫn ở trên gợi cho chúng tôi ý nghĩ rằng phần lớn truyện của Ấn-độ được
truyền gián tiếp vào ta qua con đường Cham-pa hơn là con đường Khơ-me.
Còn nhiều truyện nữa như Thạch Sanh (số 68), Bạc hơn cầm thú
(Khảo dị số 48), v.v đều có chứa đựng những mô-típ phổ biến của quốc tế
nhưng sắc thái biểu hiện thì có nhiều nét gần gũi với truyện Ấn-độ, có lẽ bắt
nguồn từ Ấn-độ.
Lại cũng có một số hình tượng hoặc tình tiết thần kỳ nằm lẫn trong
một số cốt truyện nào đấy mới đọc qua không có gì đáng nói, nhưng nếu
truy tìm kỹ sẽ thấy đó là truyền thống sáng tác chịu ảnh hưởng từ bên ngoài.
Ví dụ hình tượng rắn hoá thành vàng (hay ngược lại vàng hóa ra rắn khi lọt
vào tay kẻ không có số được hưởng). Hình tượng này chỉ giới hạn trong một
vài mô-típ quen thuộc lưu hành ở một số dân tộc; chẳng hạn gần gũi với ta ở
vùng Đông nam Á thì có các bản của người Kinh, Mường, Tày, Miến-điện
(Myanmar) (Xem Khảo dị, số 151). Hóa ra chúng đều tiếp thu từ một "bản
gốc": bản trong Tạp bảo tạng kinh, vốn được dịch ra chữ Hán từ năm 472.
Có nghĩa là về mặt thời gian, "bản gốc" được nhập tịch theo lối truyền miệng
vào các dân tộc nói trên, có thể còn sớm hơn nữa, mà cội nguồn phát sinh
phải là nơi ra đời của đạo Phật.
Hình tượng rắn (hay chằn tinh) phun lửa trong Sự tích công chúa Liễu
Hạnh (số 137), Thạch Sanh (số 68), v.v cũng vậy. Theo A-ni-kin (V. P.
Anikine) thì nên liên hệ đặc điểm này của con rắn cổ tích với việc thờ
lửa[37]. Cả hình tượng rắn phun lửa lẫn việc thờ lửa đều có thể dễ dàng tìm
thấy trong kho tàng truyện cổ cũng như phong tục cổ ở Ấn-độ nếu như ta
không muốn tìm xa hơn, chẳng hạn ở châu Phi.
Một loại hình tượng cũng không thể bỏ qua là tướng người của các
nhân vật cổ tích. Chúng là những dấu hiệu đáng kể, mách bảo cho ta nhiều
điều về xuất xứ của các quan niệm tín ngưỡng mà dân gian vẫn lưu truyền.

Ví dụ "tay dài quá gối, răng liền một hàng, trên trán có ba đường chỉ ngang"
là tướng của Ba Vành (số 101), dấu hiệu báo tin một nhân vật phi thường,
trong đó "cánh tay dài quá gối" thường đi cùng với "đôi vành tai dài và dày",
vốn là hai trong những tiêu chí về hình ảnh đức Phật (kể cả hình ảnh mẫu
dùng để tạo tượng Phật) được đưa đến Trung-quốc (và có thể cả Việt-nam)
vào những thế kỷ đầu công nguyên[38]. Nhà văn dân gian Việt-nam sở dĩ
không muốn sử dụng tiêu chí thứ hai "hai vành tai dài và dày" gán cho tướng
mạo nhân vật Ba Vành vì có lẽ tiêu chí này mang dạng vẻ từ bi đạo mạo,
không phù hợp với tướng mạo của một nhân vật có hành động bạo nghịch.
Còn như số lượng quá nhiều nốt ruồi trên cơ thể nhân vật chính của
truyện Vua Heo (số l04), cũng là thứ dấu hiệu dùng để chỉ con người phi
thường (quý tướng). Tướng quý này có lẽ lại chịu ảnh hưởng từ phía Trung-
quốc vì trong sách sử xưa của họ có ghi nhận nhân vật Hán Cao Tổ với "dị
tướng": ở vế bên phải có 72 cái nồi ruồi[39].
Nhưng nếu như các tiêu chi về tướng mạo vừa nói vốn có nguồn gốc
ngoại lai, thì cái tướng "răng liền một hàng, trên trán có ba đường chỉ
ngang" lại có thể xuất phát từ bản địa, tuy chưa thành một thứ tiêu chí ổn
định. Chỉ riêng "chòm lông xoăn" mọc ở hai bên chân nhân vật cho phép
nhân vật có tài phi thân, thì theo chúng tôi, tuy không phải là vắng bóng
trong các hình tượng cổ tích quốc tế (như đã có dịp nói đến trong Khảo dị số
101) nhưng không có ý nghĩa biểu tượng cho tướng mạo. Hơn nữa đặt vào
cốt truyện của Việt-nam, "chòm lông xoăn" này lại là một hình ảnh giữ vị trí
cái "nút" nghệ thuật có liên quan đến sự tiến triển và kết thúc câu chuyện (sự
phản bội của hai nhân vật cản trở, bộ hạ Ba Vành). Là bộ phận quan trọng
cấu thành của cốt truyện, nên tất yếu nó gửi gắm dụng ý tìm tòi sáng tạo của
tác giả.
Tóm lại, kho truyện cổ tích phong phú của Trung-quốc và Ấn-độ từ
lâu đời vẫn là nguồn cảm hứng quan trọng cho người Việt trong nghệ thuật
sáng tạo truyện kể, đã đóng góp nhiều chất liệu quý báu vào kho tàng truyện
cổ tích Việt-nam. Nếu như một bên (Trung-quốc) mang đến yếu tố của

truyện thần kỳ và thế sự thì một bên (Ấn-độ) lại truyền vào hầu hết những
truyện thần kỳ, làm đa dạng thêm khả năng tưởng tượng của thế giới cổ tích
chúng ta.

×