Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nguyên tố Selen ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.41 KB, 16 trang )

Nguyên tố Selen
34

asen ← selen → brôm
S



Se



Te


Bảng đầy đủ


Tổng quát
Tên, Ký hiệu, Số selen, Se, 34
Phân loại phi kim
Nhóm, Chu kỳ, Khối 16, 4, p
Khối lượng riêng, Độ cứng

(xám) 4810 kg/m³, 2,0
Bề ngoài xám đen ánh kim
Tính chất nguyên tử
Khối lượng nguyên tử 78,96(3) đ.v.C
Bán kính nguyên tử (calc.)

115 (103) pm


Bán kính cộng hoá trị 116 pm
Bán kính van der Waals 190 pm
Cấu hình electron [Ar]3d
10
4s
2
4p
4

e
-
trên mức năng lượng 2, 8, 18, 6
Trạng thái ôxi hóa (Ôxít) 6, 4, 2, 1
[1]
, -2 (axít mạnh)

Cấu trúc tinh thể lục giác
Tính chất vật lý
Trạng thái vật chất rắn
Điểm nóng chảy 494 K (430 °F)
Điểm sôi 958 K (1.265 °F)
Trạng thái trật tự từ không dữ liệu
Thể tích phân tử ? ×10
-6
m³/mol
Nhiệt bay hơi 95,48 kJ/mol
Nhiệt nóng chảy (xám) 6,69 kJ/mol
Áp suất hơi 100 k Pa tại 958 K
Vận tốc âm thanh 3350 m/s tại 293 K
Thông tin khác

Độ âm điện 2,55 (thang Pauling)
Nhiệt dung riêng 321,20 J/(kg·K)
Độ dẫn điện ? /Ω·m
Độ dẫn nhiệt 0,519 W/(m·K)
Năng lượng ion hóa 1. 941,0 kJ/mol
2. 2.045,0 kJ/mol
3. 2.973,7 kJ/mol
Chất đồng vị ổn định nhất
Bản mẫu:Đồng vị Se
Đơn vị SI và STP được dùng trừ khi có ghi chú.
Selen là một nguyên tố hóa học với số nguyên tử 34 và ký hiệu hóa học Se. Nó là
một phi kim, về mặt hóa học rất giống với lưu huỳnh và telua, và trong tự nhiên rất
hiếm thấy ở dạng nguyên tố. Đối với sinh vật, nó là độc hại khi ở liều lượng lớn,
nhưng khi ở liều lượng dấu vết thì nó là cần thiết cho chức năng của tế bào trong
phần lớn, nếu như không là tất cả, các động vật, tạo thành trung tâm hoạt hóa của
các enzym glutathion peroxidaza và thioredoxin reductaza (gián tiếp khử các phân
tử bị ôxi hóa nhất định trong động vật và một số thực vật) và ba enzym deiodinaza
đã biết (chuyển hóa các hoóc môn tuyến giáp lẫn nhau). Nhu cầu về selen ở thực
vật phụ thuộc tùy theo loài, với một số thực vật dường như không cần nó.
[2]


Selen nguyên tố trong các dạng thù hình khác nhau: đen, xám, đỏ.
Selen được cô lập tồn tại dưới vài dạng khác nhau, ổn định nhất trong số đó là
dạng bán kim loại (bán dẫn) màu xám ánh tía và nặng, về mặt cấu trúc là chuỗi
polyme tam giác. Nó dẫn điện dưới ánh sáng tốt hơn trong bóng tối và được sử
dụng trong các tế bào quang điện (xem phần thù hình dưới đây). Selen cũng tồn tại
trong nhiều dạng không dẫn điện: thù hình màu đen tương tự như thủy tinh, cũng
như một vài dạng kết tinh màu đỏ được tạo ra từ các phân tử vòng 8 nguyên tử,
tương tự như người chị em nhẹ hơn là lưu huỳnh.

Selen được tìm thấy ở lượng có giá trị kinh tế trong các quặng sulfua như pyrit,
trong đó nó thay thế phần nào cho lưu huỳnh trong chất nền của quặng. Các
khoáng vật chứa selenua hay selenat cũng đã được biết tới nhưng chúng khá hiếm.
Phổ biến

Một mẫu quặng chứa Selen
Selen có mặt tự nhiên trong một số dạng hợp chất vô cơ, bao gồm selenua, selenat
và selenit. Trong đất, selen thông thường nhất hay xuất hiện trong các dạng hòa
tan như selenat (tương tự như sulfat), và bị thẩm thấu rất dễ dàng vào các con sông
do nước chảy.
Selen có vai trò sinh học và được tìm thấy trong các hợp chất hữu cơ như dimethyl
selenua, selenomethionin, selenocystein và methylselenocystein. Trong các hợp
chất này selen đóng vai trò tương tự như lưu huỳnh.
Selen được sản xuất phổ biến nhất từ selenua trong nhiều loại quặng sulfua, chẳng
hạn từ các khoáng vật của đồng, bạc hay chì. Nó thu được như là phụ phẩm của
quá trình chế biến các loại quặng này, từ bùn anôt trong tinh lọc đồng và bùn từ
các buồng chì trong các nhà máy sản xuất axít sulfuric. Các loại bùn này có thể
được xử lý bằng nhiều cách để thu được selen tự do.
Các nguồn tự nhiên chứa selen bao gồm các loại đất giàu selen, và selen được tích
lũy sinh học bởi một số thực vật có độc như các loài cây họ Đậu trong các chi
Oxytropis hay Astragalus. Các nguồn chứa selen do con người tạo ra có việc đốt
cháy than cũng như khai thác và nung chảy các loại quặng sulfua.
[3]

Đồng vị
Selen có 6 đồng vị tồn tại trong tự nhiên, năm trong số này là ổn định: Se
74
, Se
76
,

Se
77
, Se
78
, Se
80
. Ba đồng vị cuối cùng này cũng có trong sản phẩm của quá trình
phân rã hạt nhân, cùng với Se
79
là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã là 295.000
năm, và Se
82
có chu kỳ bán rã rất dài (cỡ khoảng 10
20
năm, bị phân rã nhờ phân rã
beta kép thành Kr
82
) và đối với các mục đích thực tế có thể coi là ổn định. 23 đồng
vị không ổn định khác cũng được nêu đặc trưng.
Lịch sử và nhu cầu toàn cầu
Selen (tiếng Hy Lạp σελήνη selene nghĩa là "Mặt Trăng") được Jöns Jakob
Berzelius phát hiện năm 1817, ông tìm thấy nguyên tố này gắn liền với telua (đặt
tên theo Trái Đất).
Sự tăng trưởng trong nhu cầu tiêu thụ selen theo dòng lịch sử là do sự phát triển
dần dần của các sử dụng mới, bao gồm các ứng dụng trong pha trộn cao su, tạo
hợp kim thép và các bộ lọc (nắn dòng) điện dùng selen. Vào năm 1970, selen
trong các bộ lọc điện đã được thay thay thế phần lớn bằng silic và việc sử dụng nó
như là chất quang dẫn trong các máy photocopy đã trở thành ứng dụng hàng đầu
của nó. Trong thập niên 1980, ứng dụng chất quang dẫn bị suy giảm (mặc dù nó
vẫn còn ở quy mô lớn) do ngày càng nhiều máy photocopy sử dụng các chất quang

dẫn hữu cơ được sản xuất ra. Hiện nay, sử dụng lớn nhất của selen trên toàn thế
giới là trong sản xuất thủy tinh, tiếp theo là các sử dụng trong hóa chất và chất
nhuộm. Sử dụng trong lĩnh vực điện tử, mặc dù còn một số ứng dụng tiếp diễn,
nhưng vẫn tiếp tục suy giảm.
[4]

Năm 1996, nghiên cứu hiện còn tiếp diễn chỉ ra mối tương quan thực giữa nhu cầu
bổ sung selen và sự ngăn ngừa ung thư ở người, nhưng ứng dụng trực tiếp đại trà
của phát hiện quan trọng này cũng không bổ sung một cách đáng kể vào nhu cầu
selen do người ta chỉ dùng các liều nhỏ. Vào cuối thập niên 1990, việc sử dụng
selen (thường cùng với bitmut) như là chất bổ sung vào công nghệ hàn chì cho các
dạng đồng thau để đạt được các tiêu chuẩn môi trường không chứa chì đã trở
thành quan trọng. Hiện tại, tổng sản lượng selen toàn thế giới vẫn tiếp tục tăng một
cách khiêm tốn.
Selen và sức khỏe
Mặc dù có độc khi dùng liều lượng lớn, nhưng selen lại là chất vi dinh dưỡng thiết
yếu cho động vật. Ở thực vật, nó có như là khoáng chất đứng ngoài cuộc, đôi khi
với tỷ lệ gây độc trong cỏ cho gia súc (một số loài thực vật có thể tích lũy selen
như là phương tiện phòng ngự chống lại việc động vật ăn chúng, nhưng các loài
thực vật khác như các loài nói trên đây lại cần selen và sự tăng trưởng của chúng
chỉ ra sự hiện diện của selen trong đất).
[5]
Nó là thành phần hợp thành của các axít
amin bất thường như selenocystein và selenomethionin. Ở người, selen là chất
dinh dưỡng dấu vết với chức năng của phụ phối tử cho việc khử các enzym chống
ôxi hóa như các glutathion peroxidaza và một vài dạng nhất định của thioredoxin
reductaza tìm thấy ở động vật và một số thực vật (enzym này có trong mọi sinh vật
sống, nhưng không phải mọi dạng của nó trong thực vật đều cần selen).
Glutathion peroxidaza (GSH-Px) xúc tác cho một số phản ứng nhất định trong đó
loại bỏ các dạng ôxy hoạt hóa như perôxít:

2 GSH+ H
2
O
2
GSH-Px → GSSG + 2 H
2
O
Selen cũng đóng vai trò trong chức năng của tuyến giáp bằng cách tham dự như là
phụ phối tử cho ba hoóc môn tuyến giáp đã biết là các deiodinaza.
[6]

Selen cho dinh dưỡng đến từ các loại quả hạch, ngũ cốc, thịt, cá và trứng. Quả
hạch Brasil (Bertholletia excelsa) là nguồn dinh dưỡng thông thường giàu selen
nhất (mặc dù nó phụ thuộc vào kiểu đất, do quả hạch Brasil không đòi hỏi nhiều
selen cho nhu cầu của chính nó). Các hàm lượng cao có trong nhiều dạng thực
phẩm như thận, cua và tôm hùm, theo trật tự như đã đề cập.
[7]
Danh sách các thực
phẩm giàu selen có thể tìm thấy tại Bảng dữ liệu các chất bổ trợ selen trong dinh
dưỡng.
Độc tính
Mặc dù selen là chất vi dinh dưỡng thiết yếu nhưng nó lại có độc tính nếu dùng
thái quá. Việc sử dụng vượt quá giới hạn trên của DRI là 400 microgam/ngày có
thể dẫn tới ngộ độc selen.
[8]
Các triệu chứng ngộ độc selen bao gồm mùi hôi của
tỏi trong hơi thở, các rối loạn đường tiêu hóa, rụng tóc, bong, tróc móng tay chân,
mệt mỏi, kích thích và tổn thương thần kinh. Các trường hợp nghiêm trọng của
ngộ độc selen có thể gây ra bệnh xơ gan, phù phổi và tử vong.
[9]


Selen nguyên tố và phần lớn các selenua kim loại có độc tính tương đối thấp do
hiệu lực sinh học thấp của chúng. Ngược lại, các selenat và selenit lại cực độc hại,
và có các tác động tương tự như của asen. Selenua hiđrô là một chất khí có tính ăn
mòn và cực kỳ độc hại.
[10]
Selen cũng có mặt trong một số hợp chất hữu cơ như
dimethyl selenua, selenomethionin, selenocystein và methylselenocystein, tất cả
các chất này đều có hiệu lực sinh học cao và độc hại khi ở liều lượng lớn. Selen
kích thước nano có hiệu lực tương đương, nhưng độc tính thấp hơn
nhiều.
[11][12][13][14][15][16][17]

Ngộ độc selen từ các hệ thống cung cấp nước có thể xảy ra khi các dòng chảy của
các hệ thống tưới tiêu mới trong nông nghiệp chảy qua các vùng đất thông thường
là khô cằn và kém phát triển. Quá trình này làm thẩm thấu các hợp chất selen tự
nhiên và hòa tan trong nước (như các selenat) vào trong nước, chúng sau đó có thể
tích lũy đậm đặc hơn trong các vùng "đất ẩm ướt" mới khi nước bay hơi đi. Nồng
độ selen cao sinh ra theo kiểu này đã được tìm thấy như là nguyên nhân gây ra một
số rối loạn bẩm sinh nhất định ở chim sống trong các vùng đất ẩm ướt.
[18]

Thiếu hụt
Thiếu hụt selen là tương đối hiếm ở các cá nhân có chế độ dinh dưỡng đầy đủ. Nó
có thể xảy ra ở các bệnh nhân với chức năng ruột bị tổn thương nghiêm trọng hay
ở những người phải trải qua chế độ dinh dưỡng ngoài ruột tổng thể. Ngoài ra,
những người phụ thuộc vào thực phẩm gieo trồng trên các vùng đất thiếu hụt selen
cũng có thể có rủi ro này. Tại Hoa Kỳ, DPI cho người lớn là 55 µg/ngày. Tại
Vương quốc Anh nó là 75 µg/ngày cho đàn ông và 60 µg/ngày cho đàn bà.
Khuyến cáo 55 µg/ngày dựa trên sự thể hiện đầy đủ của glutathion peroxidaza

huyết tương. Selenoprotein P
[19]
là chỉ thị tốt hơn về tình trạng dinh dưỡng selen,
và sự thể hiện đầy đủ của nó đòi hỏi trên 66 µg/ngày.
[20]

Thiếu hụt selen có thể dẫn tới bệnh Keshan, là bệnh có tiềm năng gây tử vong.
Thiếu hụt selen cũng góp phần (cùng thiếu hụt iốt) vào bệnh Kashin-Beck.
[21]

Triệu chứng chính của bệnh Keshan là chết hoại cơ tim, dẫn tới sự suy yếu của
tim. Bệnh Kashin-Beck tạo ra sự teo dần đi, thoái hóa và chết hoại của các mô chất
sụn.
[22]
Bệnh Keshan cũng làm cho cơ thể dễ bị mắc các bệnh tật do các nguồn gốc
dinh dưỡng, hóa sinh học hay nhiễm trùng. Các bệnh này chủ yếu phổ biến ở một
số vùng tại Trung Quốc nơi mà đất thiếu hụt selen nghiêm trọng. Các nghiên cứu
tại tỉnh Giang Tô đã chỉ ra sự suy giảm trong việc mắc các bệnh này nhờ cung cấp
selen bổ sung.
Selen cũng là cần thiết để chuyển hóa hoóc môn tuyến giáp thyroxin (T4) thành
dạng hoạt hóa hơn là triiodothyronin, và vì thế thiếu hụt selen có thể sinh ra các
triệu chứng của giảm hoạt động tuyến giáp, bao gồm cực kỳ mệt mỏi, trì độn tinh
thần, bệnh bướu cổ, chứng ngu độn và sẩy thai hồi quy.
[9]

Các hiệu ứng sức khỏe mâu thuẫn
Ung thư
Một vài nghiên cứu cho rằng có liên kết giữa ung thư và thiếu hụt
selen.
[23][24][25][26][27][28][29]

Một nghiên cứu được thực hiện về hiệu ứng của
bổ trợ selen đối với sự tái phát của ung thư da không chứng minh có tần
suất suy giảm của sự tái phát ung thư da, nhưng thể hiện sự xảy ra suy giảm
đáng kể của ung thư tổng thể.
[30]
Selen dinh dưỡng ngăn ngừa kích thích về
mặt hóa học cho các tác nhân gây ung thư trong nhiều nghiên cứu ở động
vật gặm nhấm.
[31]
Trong các nghiên cứu này, các hợp chất hữu cơ chứa
selen có hiệu lực cao hơn và ít độc hại hơn so với các muối selen (ví dụ
selenoxyanat, selenomethionin, quả hạch Brasil giàu selen, tỏi hay cải bông
xanh làm giàu selen). Selen cũng có thể giúp ngăn ngừa ung thư bằng tác
động như là chất chống ôxi hóa hay bằng cách gia tăng hoạt động miễn
dịch. Không phải mọi nghiên cứu đều đồng ý về tác động chống ung thư
của selen. Một nghiên cứu về mức selen có tự nhiên trong trên 60.000
người đồng ý tham gia đã không chỉ ra mối tương quan đáng kể giữa các
mức này với ung thư.
[32]
Nghiên cứu SU.VI.MAX
[33]
kết luận rằng sự bổ
sung liều thấp (với 120 mg axít ascorbic, 30 mg vitamin E, 6 mg beta
caroten, 100 µg selen, 20 mg kẽm) tạo ra sự sụt giảm 31% trong tỷ lệ bị
ung thư và sự sụt giảm 37% trong mọi nguyên nhân gây tử vong ở đàn ông,
nhưng không tạo ra kết quả đáng kể nào đối với đàn bà.
[34]
Nghiên cứu
SELECT
[35]

hiện tại đang điều tra về tác động của bổ trợ selen và vitamin E
đối với tỷ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, selen đã được chứng
minh là có hỗ trợ hóa học trị liệu bằng cách gia tăng tính hiệu lực của phép
điều trị, làm giảm độc tính của các loại thuốc hóa học trị liệu và ngăn ngừa
sức đề kháng của cơ thể với thuốc.
[36]
Một trong các nghiên cứu
[37]
chỉ ra
rằng chỉ trong vòng 72 giờ thì hiệu lực của điều trị bằng các loại thuốc hóa
học trị liệu, như Taxol và Adriamycin, cùng với selen là cao hơn đáng kể so
với điều trị chỉ dùng mỗi thuốc. Kết quả thu được được thể hiện trong nhiều
tế bào ung thư (vú, phổi, ruột non, ruột già, gan).
HIV/AIDS
Một vài nghiên cứu chỉ ra có liên quan về mặt địa lý giữa các khu vực có
đất thiếu hụt selen với tỷ lệ cao của khả năng nhiễm HIV/AIDS. Ví dụ,
phần lớn khu vực châu Phi hạ Sahara có đất chứa tỷ lệ thấp selen, tuy nhiên
Senegal lại không như thế và cũng có mức thấp hơn đáng kể trong tỷ lệ
nhiễm AIDS so với phần còn lại của châu lục này. AIDS dường như làm
cho có sự sụt giảm chậm nhưng tăng dần lên đối với mức selen trong cơ
thể. Sự sụt giảm trong mức selen trong cơ thể có phải là kết quả trực tiếp
của quá trình sao chép của HIV
[38]
hoặc liên quan chung hơn với sự hấp thụ
bất thường tổng thể các chất dinh dưỡng ở bệnh nhân AIDS hay không vẫn
còn là đề tài gây tranh cãi.
Mức selen thấp ở các bệnh nhân AIDS có tương quan trực tiếp với sự suy
giảm số lượng các tế bào miễn dịch và tiến triển bệnh cùng rủi ro tử vong
gia tăng.
[39]

Selen thông thường đóng vai trò của chất chống ôxi hóa, vì thế
mức selen thấp có thể gia tăng sức căng ôxi hóa đối với hệ miễn dịch, dẫn
tới sự suy giảm nhanh hơn của hệ miễn dịch. Những người khác lại cho
rằng HIV mã hóa selenoenzym glutathion peroxidaza ở người, điều này tiêu
hao hết selen ở nạn nhân. Mức selen bị hao kiệt dẫn tới sụt giảm các tế bào
T hỗ trợ CD4, tiếp tục làm suy yếu hệ miễn dịch.
[40]

Không phụ thuộc vào nguyên nhân làm hao kiệt selen ở các bệnh nhân
AIDS, các nghiên cứu chỉ ra rằng thiếu hụt selen có liên quan mạnh tới tiến
triển của bệnh và rủi ro tử vong.
[41][42][43]
Bổ trợ selen có thể giúp giảm nhẹ
các triệu chứng của AIDS và làm giảm rủi ro tử vong. Cần lưu ý rằng
chứng cứ cho tới nay không gợi ý rằng selen có thể giảm rủi ro nhiễm hay
tần suất lan truyền của AIDS, mà chỉ có thể điều trị các triệu chứng của
những người đã nhiễm HIV.
Đái đường
Một nghiên cứu được kiểm soát tốt chỉ ra rằng selen có liên quan tích cực
với rủi ro phát triển bệnh đái đường típ II. Do mức selen cao trong huyết
thanh có liên quan tích cực với sự phát triển của bệnh đái đường và do thiếu
hụt selen là khá hiếm nên việc bổ trợ không được khuyến cáo cho những
người có dinh dưỡng đầy đủ.
[44]

Sản xuất và các thù hình
Selen là phụ phẩm phổ biến trong tinh luyện đồng hay trong sản xuất axít
sulfuric.
[45][46][47]
Việc cô lập selen thường phức tạp do sự có mặt của các hợp chất

và các nguyên tố khác. Nói chung sản xuất bắt đầu bằng tác dụng với cacbonat
natri để sản xuất selenit natri. Selenit natri sau đó bị axít hóa bằng axít sulfuric để
tạo ra axít selenơ. Axít selenơ cuối cùng tác dụng với điôxít lưu huỳnh để tạo ra
selen nguyên tố vô định hình có màu đỏ.
Selen được sản xuất theo các phản ứng hóa học này là chất bột có màu đỏ gạch, vô
định hình, không hòa tan trong nước được nấu chảy nhanh sẽ tạo thành dạng như
thủy tinh có màu đen, thông thường được bán trong công nghiệp dưới dạng bánh.
Ứng dụng phi sinh học
Hóa học
Selen là chất xúc tác trong nhiều phản ứng hóa học và được sử dụng rộng
rãi trong nhiều phản ứng tổng hợp hóa học trong công nghiệp lẫn trong
phòng thí nghiệm. Nó cũng được sử dụng rộng rãi trong xác định cấu trúc
của các protein hay axít nucleic bằng tinh thể học tia X.
Sản xuất và vật liệu
Ứng dụng lớn nhất của selen trên toàn thế giới là sản xuất thủy tinh và vật
liệu gốm, trong đó nó được dùng để tạo ra màu đỏ cho thủy tinh, men thủy
tinh và men gốm cũng như để loại bỏ màu từ thủy tinh bằng cách trung hòa
sắc xanh lục do các tạp chất sắt (II) tạo ra.
Selen được sử dụng cùng bitmut trong hàn chì cho đồng thau để thay thế
cho chì độc hại hơn. Nó cũng được dùng trong việc cải thiện sức kháng mài
mòn của cao su lưu hóa.
Công nghiệp điện tử
Do các tính chất quang voltaic và quang dẫn nên selen được sử dụng trong
kỹ thuật photocopy, các tế bào quang điện, thiết bị đo độ sáng và tế bào
năng lượng mặt trời. Nó đã từng được sử dụng rộng rãi trong các bộ nắn
dòng. Các ứng dụng này phần lớn đã bị thay thế bằng các thiết bị dùng silic
hay trong quá trình bị thay thế. Ngoại lệ đáng chú ý nhất là trong các thiết
bị bảo vệ điện, trong đó khả năng truyền tải dòng điện cường độ lớn của các
bộ triệt dòng dùng selen làm cho nó đáng giá hơn so với các điện trở biến
thiên dùng ôxít kim loại.

Nhiếp ảnh
Selen được dùng trong kỹ thuật tạo sắc thái trong nhiếp ảnh, và nó được
bán như là chất tạo sắc thái bởi nhiều nhà sản xuất giấy ảnh như Kodak và
Fotospeed.
Ứng dụng sinh học
Y học
Chát gọi một cách lỏng lẻo là sulfua selen, SeS
2
, thực tế là disulfua selen
hay sulfua selen (IV), là thành phần hoạt hóa trong một vài loại dầu gội đầu
chống gàu.
[48]
Hiệu ứng của thành phần hoạt hóa là giết chết nấm da đầu
Malassezia. Thành phần hoạt hóa này cũng được dùng trong mỹ phẩm dùng
cho da để điều trị nấm da Tinea do nhiễm các loài nấm chi Malassezia.
[49]

Dinh dưỡng
Selen được sử dụng rộng rãi trong điều chế vitamin và các chất bổ sung
dinh dưỡng khác, với liều nhỏ (thường là từ 50 tới 200 microgam trên ngày
cho người lớn). Một ài loại cỏ làm thức ăn cho gia súc cũng được tăng
cường selen.
Hợp chất
 Selenua gali indi đồng Cu(Ga,In)Se
2

 Selenua thủy ngân (HgSe)
 Selenua hiđrô (H
2
Se)

 Selenua chì (II) (PbSe)
 Điôxít selen (SeO
2
)
 Axít selenic (H
2
SeO
4
)
 Axít selenơ (H
2
SeO
3
)
 Các sulfua selen: Se
4
S
4
, SeS
2
, Se
2
S
6

 Selenit natri (Na
2
SeO
3
)

 Selenua kẽm (ZnSe)
Selen cũng tồn tại ở trạng thái ôxi hóa +3, nhưng chỉ trong dạng cation Se
4
12+
; các
hợp chất Se (III) kiểu khác vẫn chưa được biết đến.
[50]



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×