Ðề tài: Tìm hiểu tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn
Thi
Những đứa con trong gia đình
o Phân tích tác phẩm"Những Đứa Con Trong Gia Đình" của
Nguyễn Thi.
Bài gợi ý:
I. Về thể loại - loại hình
Là một truyện ngắn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam
1945 - 1975, Những đứa con trong gia đình hiển nhiên mang đậm
tính sử thi và giàu cảm hứng lãng mạn (xem thêm phần viết về tính
sử thi ở bài Rừng xà nu). Tuy vậy, nói đến tác phẩm này, người ta
không thể không nói đến tính hiện thực sâu sắc của nó. Nguyễn Thi
quả là một nhà văn hiện thực chủ nghĩa đích thực. Trong khi chịu sự
chi phối của bối cảnh sáng tạo chung, ông vẫn kiên trì theo đuổi
những nguyên tắc sáng tạo của mình, cố gắng tái hiện cho được
diện mạo chân thực của hiện thực thông qua những tính cách điển
hình, hoàn cảnh điển hình. Để xây dựng các tính cách điển hình,
hoàn cảnh điển hình đó, ông rất chú ý tới mối quan hệ giữa tính cá
thể, cá biệt và tính khái quát của hình tượng. Sự chính xác và sống
động của các chi tiết luôn được đề cao. Chi tiết nào cũng gây ấn
tượng, như được lấy "trực tiếp" từ đời sống, nóng hổi, giàu sức biểu
hiện, giàu tính thẩm mỹ. Chính công việc chuẩn bị tư liệu chu đáo,
cẩn thận, việc ghi chép miệt mài những điều mắt thấy tai nghe vào
sổ tay đã hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Thi ở phương diện này. Đọc
từng trang viết của ông, ta cảm nhận được một trữ lượng dồi dào
những kinh nghiệm sống thấp thoáng ở phía sau. Truyện ngắn mà
nhiều khi có sức chứa của một tiểu thuyết lớn. Tham vọng khái quát
của nhà văn luôn được thể hiện thông qua cách ông sử dụng nhiều
thủ pháp nghệ thuật khác nhau, nhưng tham vọng đó không hề
khiến ông quên đưa ra những đường nét chạm khắc rạch ròi về nhân
vật, bối cảnh. Sự hứng thú quan sát, miêu tả ngôn ngữ, tâm lí nhân
vật, sự vận dụng đầy ý thức ngôn ngữ Nam Bộ trong trần thuật có
mối liên hệ lô gích với động cơ sáng tạo này. Ngoài ra, việc học tập
kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết hiện đại phương Tây trên vấn
đề tái hiện dòng ý thức của nhân vật cũng được chú ý đúng mức, tạo
1
nên những trang viết xuất thần, hiếm quý (đoạn miêu tả dòng hồi
tưởng, suy nghĩ của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại trên trận
địa là một ví dụ cụ thể, điển hình).
Tuy là một truyện ngắn hoàn chỉnh, có cấu trúc chặt chẽ, nhưng rất
có thể, với chính Nguyễn Thi, Những đứa con trong gia đình vẫn
còn mang nhiều tính tư liệu. Phải chăng, trong khát vọng sáng tạo
của nhà văn, đây mới chỉ là bước chuẩn bị cho một công trình đồ sộ
hơn, xứng tầm với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mà ông
mong muốn được hoàn thành. Cảm nhận được điều đó, độc giả ngày
nay không thể không thấy tiếc nuối khi nghĩ về sự ra đi quá sớm của
Nguyễn Thi - một hiện tượng "bùng nổ về tài năng" (đánh giá của
Nguyên Ngọc) trong thế hệ các nhà văn trưởng thành sau cách
mạng tháng Tám.
II. Tiếp cận văn bản
Nguyễn Thi là một nhà văn - chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp
sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời
chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu
Thân 1968. Trong di sản văn học viết về chiến tranh của ông, có tác
phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất
thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả
của nó là một tài năng văn học lớn.
Từng sống ở Nam Bộ trước Cách mạng và sau này lại tham gia
chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất hiểu con người và
cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân
đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt.
Ông đã trút tấm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học
đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu
sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.
Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất
sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978.
Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng
một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng đối với quân
giặc. Chiến và Việt - hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của
tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng
2
chiến chống Pháp) còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn
lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau
này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của họ).
Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có
khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở
đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có ý nghĩa cá
biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những
mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này.
Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có
ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta thấy ý đồ nghệ
thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình mà đề cập
những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói
lên điều đó : "Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như
sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó.
Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước
bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt
của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con
sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị
em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước
ta". Thông thường, sự khái quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như
vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào
cuộc sống.
Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí
giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi
chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em
Chiến - Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào đến
chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ
từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có
chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông
Định Thuỷ. Cuốn sổ - ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền
thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về
truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con
cháu. Chú nói : "Chừng nào bây trọng trọng (lớn lớn) tao giao cuốn
sổ cho chị em bây". Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy
ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ
vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến và
Việt lập được lại không liên quan tới cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự
việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là
thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.
3
Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của
ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng
như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện
thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên,
cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ
nhớ với "giọng hò đã đục và tức như gà gáy" ("Chú hay kể sự tích
của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy
câu"). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay
nhưng chứa đựng một cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em
Chiến, Việt tuy thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như
lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông
được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương
tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông
nước, lăn lộn với ruộng vườn và thuỷ chung một dạ với cách mạng.
Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của chị em Chiến,
Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người
đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng.
Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng
chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà
nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, "bà
đén dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về" ; nào chuyện bà bế con,
dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về
tới quận ; nào chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng
nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã "đẩy xuồng ra tuôt
giữa sông" Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to
bản "phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân" hoặc "dùa đàn con
lại đàng sau tránh đạn" đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh
một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.
Hai nhân vật được khắc hoạ đậm nét trong tác phẩm là Chiến và
Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút
nào". Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu
khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt
từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng
thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói
với em : "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi
thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !". ở cô, khả
năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng
em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ,
4
chu đáo, "nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút
sững sờ, "nhìn hai cháu thiệt lâu" rồi nói : "Khôn ! Việc nhà nó thu
được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề
nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi
trước". Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước
đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác
được những việc lớn của đất nước.
Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù
đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính chất của
một cậu bé. "Cậu Tư" này trong gia đình có điệu cười "lỏn lẻn" rất
dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ
chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm
vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị "Tôi nói chị tính sao cứ tính
mà". Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa
nghịch "chụp một con đom đóm úp trong lòng tay" và thú vị quan
sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng "in hệt má" của chị. Vào bộ đội
rồi, cậu ta "giấu chị như giấu của riêng vậy" vì sợ mất chị trước
những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính
của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná
thun (súng cao su) - một vật bất li thân từng gắn bó từ ngày cậu "để
đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt
trong vườn, đi tìm chim". Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến
đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháp tiêu
diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò
đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với
tâm niệm : "Tao sẽ chờ mày ! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả
khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn
được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày ! Mày
chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy". Có
bao nhiêu là quyết tâm, bao nhiêu là niềm trìu mến với đồng đội,
bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc
thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi
còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé
vừa đến tuổi thành niên.
Nhìn chung, trong khi xây dựng nhận vật, Nguyễn Thi rất quan tâm
đến việc cá thể hoá. Nhân vật nao cũng có những nét riêng, độc đáo
hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và
Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người
5
đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có ý thức nhấn mạnh điểm giống
nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời
Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về
Việt : "Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi !". Nói lên điểm giống
nhau ở đây tức là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia
đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống
rất mực tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí
giải được sức mạnh tinh thần nào đã giúp các nhân vật vượt qua
được những thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy
cũng là điểm nút khiến cho mọi chi tiết, sự việc được mô tả trong
tác phẩm quy tụ lại, thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định
những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh
chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ
miệng má Việt, vì vậy, có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết
lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một
hình thức rất mực giản dị - giản dị đến bất ngờ (chẳng hạn câu của
má Viêt : "người chết có cái vui của người chết, nếu không, người
ta sanh con ra làm gì ?"). ở đây, có thể nhận ra một đặc điểm trong
sáng tác của Nguyễn Thi : tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí
của chính cuộc đời - một cuộc đời được tái hiện sinh động qua
những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm
cho điều vừa nói bằng vào chi tiết "cực đắt" sau đây mà nhà văn đã
đưa vào cuối tác phẩm : chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn
thờ má sang gửi nhà chú Năm : "Chị Chiến đứng ra giữa sân, k**
cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo
sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của
mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu.
Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù
cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt
khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân
chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình
rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó
đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất
cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường
hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác". Khó mà
không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức
cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta : có yêu thương, có căm
thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng
cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố
tâm linh Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm
6
mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương "trữ tình" này thường chỉ
được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quý, để lại
trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa.
Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa
con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã
thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa
chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc
biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức
của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của
người tỉnh táo đã khó mà ở đậy lại là tâm lí của con người luôn nằm
trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt
ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc
trạng thái "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" đó của nhân vật. Bốn lần
Việt "tỉnh dậy" trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được
nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường,
mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầu phụ thuộc rất
nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ.
Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách có
lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên,
Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ "Khi đổ ếch vào
thùng, chú Năm thế nào cũng sang". Thế là hình ảnh chú Năm hiện
lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa của nó. Lần
thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun,
rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập
ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ
"chuyển vùng" sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy
lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên
hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành
nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên
nhà chú Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm
lí con người. Ông đã kh** l** tạo cho tác phẩm một hình thức kết
cấu độc đáo tương đồng với "kết cấu" của những giấc mơ chập
chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc
một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật.
Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn
ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân
vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn
ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách
7
xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó : "Việt" (chứ không phải là
"anh" hay "chú bé"), "chị Chiến" (chứ không phải là "cô", "chị"),
"chú Năm" (chứ không phải là "ông Năm"), "má" (chứ không phải
là "má Việt") Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời
trần thuật (chưa kể đến lời nói thực thụ của nhân vật): "Chú ít nói,
nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới", "Thím Năm vừa khóc vừa
kể thôi là kể", "Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng
thèm dòm, hai mắt hứ một cái "cóc", rồi đi thẳng" Thật khó kể hết
được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương
Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam Bộ. Cần phải thấy rằng cách sử
dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm
lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không
khí của một vùng, của một thời
Đề : Vẻ đẹp con người Nam bộ trong kháng chiến chống Mỹ qua tác
phẩm Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi.
Bài viết tham khảo:
Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không
khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng.
Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách
mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật
trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con
người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương,
trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức
của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự
nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch
tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu
chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự
liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến
và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột
thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống,
8
nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã
góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê
hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ
hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến
chống Mỹ.
Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương
của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh
Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy
giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ
thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái
chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt
gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu
thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó
cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì
những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với
mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành
với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường
như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và
má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc.
Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những
nét riêng độc đáo.
Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ
hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải
qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít
nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của
tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa
cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam
bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và
kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở
người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ
những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng
thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra,
những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông
cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em
Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia
cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của
9
tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ
anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong
người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người
đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội
khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy
đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng
súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ
trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng
chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với
đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong
giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu
lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng
sống vì cách mạng.
Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế
hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh
đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu
tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung
phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông
quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù
cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại
người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia
đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà
thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị
em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn
toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê
hương đau thương và anh dũng.
Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong
trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống
má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn
rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em.
Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt.
Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng
không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái
gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên.
Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán
xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân
10
thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp
nghe theo sự cắt đặt của chị.
Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là
hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú
Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành
trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng
này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè
nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành
cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác
phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù
quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu
thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi
có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu
thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu
thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần
ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp
anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ.
Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh
chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người
cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương
yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa
cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh
đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống
Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu
nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng
lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu
nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật
xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những
đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự
trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng
của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương
cho thế hệ sau noi theo.
11
Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi
Tác giả
Họ và tên: Nguyễn Hoàng Ca, bút danh là Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Thi.
Sinh năm 1928 tại Nam Định. Vào Sài Gòn từ nhỏ. Là nhà văn quân đội, hy
sinh trong cuộc Tổng tiến công tết Mậu Thân, tại mặt trận Sài Gòn (1968).
Tác phẩm: Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962), “Người mẹ cầm súng”,
“Những sự tích ở đất thép”, “Mẹ vắng nhà”, “Những đứa con trong gia
đình”,…
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi đậm đà màu sắc dân gian mà hiện
đại, lối kể chuyện tự nhiên như cách cảm, cách nghĩ của người nông dân
Nam Bộ; nhân vật được trình bày trong mỗi quan hệ phức tạp và sự vận
động phát triển đầy ấn tượng: trẻ trung, bộc trực, mãnh liệt đáng yêu.
Tóm tắt
Việt quê ở Bến Tre. Chị gái là Quyết Chiến, hai chị em cùng đi bộ đội một
ngày. Trong một trận đánh lớn trong rừng cao su, Việt dùng thủ pháo diệt
một xe bọc thép Mĩ. Nhưng Việt đã bị thương nặng, ngất đi trên chiến
trường, bị lạc đơn vị ba ngày đêm. Tỉnh rồi lại mê, mê rồi lại tỉnh, anh nhớ
lại những kỷ niệm vui, buồn tuổi thơ, nhớ lại ba má, anh chị em, nhớ chú
Năm. Cả ba lẫn má đều hy sinh trong chiến tranh. Việt và chị Chiến ra đi
đánh giặc để báo thù cho ba má, để giải phóng quê hương, tiếp tục trang sử
anh hùng của gia đình. Anh Tánh dẫn tiểu đội đi tìm Việt suốt 3 ngày, mấy
lần đụng địch, lục suốt mặt trận dài dặc mới gặp được Việt và đưa về bệnh
viện quân y. Lúc vết thương sắp lành, anh Tánh giục Việt viết thư cho chị
Chiến.
Chủ đề
Ca ngợi khí thế ra trận và khí phách anh hùng của tuổi trẻ miền Nam trong
12
thời chống Mĩ. Đánh giặc để trả thù nhà cũng là để giải phóng quê hương.
Nhân vật
1. Chiến là đứa con gái không khác mẹ tí nào: gan góc, đã nói là làm,
chăm chỉ, đảm đang, tháo vát. Ba má hy sinh rồi, là chị gái trong nhà nên
sớm biết lo toan, thu xếp việc nhà, gửi bàn thờ má… trước lúc ra trận. Tuy
có lúc còn tranh giành với em, nhưng rất thương em, hay nhường em. Chiến
ra trận với lời thề quyết chiến: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!” Chú Năm
khen ngợi: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được
rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”.
2. Việt là một thằng nhỏ gan, ra trận khi mới 17 tuổi. Hồn nhiên, hiếu
động, rất thương chị nhưng hay tranh giành với chị, không sợ Mĩ mà lại sợ
ma… Rất yêu thương đồng đội. Dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu,
dùng thủ pháo diệt xe bọc thép Mĩ. Bị thương nặng, mặt mũi chân tay đẫm
máu, mắt bị thương không nhìn thấy được, đói khát; chỉ còn một viên đạn đã
lên nòng, sẵn sàng tử chiến với giặc. Rất thương ba má, nung nấu mối thù
nhà, quyết đánh giặc để trả thù cho ba má, để giải phóng quê hương. Việt là
đứa con yêu quý của gia đình. Câu hò của chú Năm gửi gắm bao tình cảm
tốt đẹp đối với Việt: “khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông
dài cá lôi của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định,
ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”.
Đoạn văn hay nhất, đằm thắm chất chữ tình, hàm chứa chiều sâu triết lí
… “Con sông náo ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn
rộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia
đình ta cũng chảy về một biển, mà biển thì rộng bằng cả nước ta và ra ngoài
cả nước ta”.
13
Tìm hiểu tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi
Tìm hiểu tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi
I/Tìm hiểu chung
1.Tác giả
+ Đặc điểm sáng tác: Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự
xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ.
Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc
điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó là:
- Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt
bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu
rất cao- những con người dường như sinh ra để đánh giặc.
- Tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa.
2.Tác phẩm
a.Hoàn cảnh ra đời:Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu
ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn- chiến sĩ ở Tạp chí Văn
nghệ Quân giải phóng (tháng 2 năm 1966). Sau được in trong Truyện và kí
NXB Văn học Giải phóng, 1978.
b -Tóm tắt tác phẩm theo nhân vật chính và cốt truyện.:
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có
mỗi thù sâu nặng với Mĩ-nguỵ: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ
Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe doạ, hạch
sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại
Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm, và một người chị nuôi đi lấy chồng
xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình và những đau thương mất
mát nặng nề do tội ác của Mĩ-nguỵ gây ra đối với gia đình Việt đều được
chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình.
14
Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi
thân mật là câu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị, đặc biệt là với tiểu đội trưởng
Tánh, như tình ruột thịt. Ở anh luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, quyết
lập được nhiều chiến công để cùng chị Chiến trả thù cho ba má.
Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe
bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại
nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh trở về với những kỉ niệm
thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh
Tánh,
Lần thứ tư tỉnh dậy, trong đầu anh còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ.
Tiếng súng rộ lên đã đưa anh bò lên phía trước. Anh hồi tưởng lại ngày má
chết rồi, hai chị em đã tranh nhau ghi tên tòng quân, được chú Năm nói hộ
cả hai chị em đều được tòng quân một lần.
Đêm trước ngày lên đường, hai chị em bàn bạc thu xếp việc nhà. Chị chiến
thể hiện sự chu đáo sắp đặt việc nhà “in má vậy”. Rồi Việt lại ngất đi.
Tánh cùng tiểu đội đi suốt ba ngày mới tìm được Việt trong một lùm cây
rậm và suýt nữa thì bị ăn đạn của “câu Tư”, bởi dù đã kiệt sức không bò đi
được nữa nhưng một ngón tay Việt vẫn đang đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng
và anh tưởng là quân địch tới. Nếu Tánh không lên tiếng ngay, có lẽ Việt đã
nổ súng.
Việt được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến, sức khoẻ dần hồi phục.
Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến kể lại chiến công của mình. Việt
nhớ chị chiến, muốn viết thư nhưng không biết viết sao. Việt cũng không
muốn kể chiến công của mình vì tự thấy chưa thấm gì với thành tích của đơn
vị và những ước mong của má.
c.Tình huống truyện: Đây là câu chuyện của gia đình anh giải phóng quân
tên Việt. Nhân vật này rơi vào một tình huống đặc biệt: trong một trận đánh,
bị thương nặng phải nằm lại giữa chiến trường. Anh nhiều lần ngất đi tỉnh
lại, tỉnh rồi lại ngất. Truyện được kể theo dòng nội tâm của nhân vật khi đứt
(ngất đi) khi nối (tỉnh lại).
Tóm lại: tình huống truyện dẫn đến một cách trần thuật riêng của thiên
truyện theo dòng ý thức của nhân vật.
15
d. Chủ đề:
Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền
thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách
mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa
truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh
thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.
e. Chất sử thi:
- Thể hiện qua cuốn sổ của gia đình với truyền thống yêu nước, căm thù
giặc, thủy chung son sắt với quê hương.
+ Cuốn sổ là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một
dân tộc trong cuộc chiến chống Mĩ.
+ Số phận của những đứa con, những thành viên trong gia đình cũng là số
phận của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt.
- Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc đang
hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.
+ Mỗi nhân vật trong truyện đều tiêu biểu cho truyền thống, đều gánh vác
trên vai trách nhiệm với gia đình, với Tổ quốc trong cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại.
II. Luyện tập:
Đề : Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có
nêu lên quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi
vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, "mà
biển thì rộng lắm […], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".
Chứng minh rằng, trong thiên truyện của Nguyễn Thi, quả đã có một dòng
sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ
tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt.
Gợi ý:
Bài viết cần có những ý cơ bản sau:
1. Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một
khúc.
16
Có thể hiểu:
+ Chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi được, làm được "khúc"
của mình trong dòng sông truyền thống. Con không chỉ là sự tiếp nối huyết
thống mà phải là sự tiếp nối truyền thống.
+ Không thể hiểu khúc sau của một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn
đã sinh ra nó. Cũng như vậy, ta chỉ có thể hiểu những đứa con (Chiến, Việt)
khi hiểu truyền thống gia đình đã sinh ra những đứa con ấy.
Chứng minh:
+ Truyền thống ấy chảy từ các thế hệ ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa
con, mà kết tinh ở hình tượng chú Năm:
- Chú Năm không chỉ ham sông biển mà còn ham đạo nghĩa. Trong con
người chú Năm phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.
- Chú Năm là một thứ gia phả sống luôn hướng về truyền thống, sống với
truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống (trong
những câu hò, trong cuốn sổ gia đình).
+ Hình tượng người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống:
- Một con người sinh ra để chống chọi với gian nguy, khó nhọc "cái gáy đo
đỏ, đôi vai lực lưỡng, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi". "người sực mùi lúa gạo"
thứ mùi của đồng áng, của cần cù mưa nắng.
- Ấn tượng sâu đậm nhất là khả năng ghìm nén đau thương để sống, để che
chở cho đàn con và tranh đấu.
- Người mẹ không biết sợ, không chùn bước, kiên cường và cao cả.
+ Những đứa con, sự tiếp nối truyền thống:
- Chiến mang dáng vóc của mẹ, cách nói in hệt mẹ.
- So với thế hệ mẹ thì Chiến là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng
chảy xa hơn khúc sông trước. Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng
17
chưa có dịp cầm súng, còn Chiến mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội cầm
súng trả thù cho ba má.
- Việt, chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô tư.
- Chất anh hùng ở Việt: không bao giờ biết khuất phục; bị thương chỉ có một
mình vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù.
- Việt đi xa hơn dòng sông truyền thống: không chỉ lập chiến công mà ngay
cả khi bị thương vẫn là người đi tìm giặc. Việt chính là hiện thân của sức trẻ
tiến công.
2. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, "mà biển thì
rộng lắm […], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".
+ Điều đó có nghĩa là: từ một dòng sông gia đình nhà văn muốn ta nghĩ đến
biển cả, đến đại dương của nhân dân và nhân loại.
+ Chuyện gia đình cũng là chuyện của cả dân tộc đang hào hùng chiến đấu
bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.
Tiếp cận văn bản "Những đứa con trong gia đình"
I. Về thể loại - loại hình
Là một truyện ngắn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 -
1975, Những đứa con trong gia đình hiển nhiên mang đậm tính sử thi và
giàu cảm hứng lãng mạn (xem thêm phần viết về tính sử thi ở bài Rừng xà
nu). Tuy vậy, nói đến tác phẩm này, người ta không thể không nói đến tính
hiện thực sâu sắc của nó. Nguyễn Thi quả là một nhà văn hiện thực chủ
nghĩa đích thực. Trong khi chịu sự chi phối của bối cảnh sáng tạo chung,
ông vẫn kiên trì theo đuổi những nguyên tắc sáng tạo của mình, cố gắng tái
hiện cho được diện mạo chân thực của hiện thực thông qua những tính cách
điển hình, hoàn cảnh điển hình. Để xây dựng các tính cách điển hình, hoàn
18
cảnh điển hình đó, ông rất chú ý tới mối quan hệ giữa tính cá thể, cá biệt và
tính khái quát của hình tượng. Sự chính xác và sống động của các chi tiết
luôn được đề cao. Chi tiết nào cũng gây ấn tượng, như được lấy "trực tiếp"
từ đời sống, nóng hổi, giàu sức biểu hiện, giàu tính thẩm mỹ. Chính công
việc chuẩn bị tư liệu chu đáo, cẩn thận, việc ghi chép miệt mài những điều
mắt thấy tai nghe vào sổ tay đã hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Thi ở phương
diện này. Đọc từng trang viết của ông, ta cảm nhận được một trữ lượng dồi
dào những kinh nghiệm sống thấp thoáng ở phía sau. Truyện ngắn mà nhiều
khi có sức chứa của một tiểu thuyết lớn. Tham vọng khái quát của nhà văn
luôn được thể hiện thông qua cách ông sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật
khác nhau, nhưng tham vọng đó không hề khiến ông quên đưa ra những
đường nét chạm khắc rạch ròi về nhân vật, bối cảnh. Sự hứng thú quan sát,
miêu tả ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, sự vận dụng đầy ý thức ngôn ngữ Nam
Bộ trong trần thuật có mối liên hệ lô gích với động cơ sáng tạo này. Ngoài
ra, việc học tập kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết hiện đại phương Tây
trên vấn đề tái hiện dòng ý thức của nhân vật cũng được chú ý đúng mức,
tạo nên những trang viết xuất thần, hiếm quý (đoạn miêu tả dòng hồi tưởng,
suy nghĩ của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại trên trận địa là một ví dụ
cụ thể, điển hình).
Tuy là một truyện ngắn hoàn chỉnh, có cấu trúc chặt chẽ, nhưng rất có thể,
với chính Nguyễn Thi, Những đứa con trong gia đình vẫn còn mang nhiều
tính tư liệu. Phải chăng, trong khát vọng sáng tạo của nhà văn, đây mới chỉ
là bước chuẩn bị cho một công trình đồ sộ hơn, xứng tầm với cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc mà ông mong muốn được hoàn thành. Cảm nhận
được điều đó, độc giả ngày nay không thể không thấy tiếc nuối khi nghĩ về
sự ra đi quá sớm của Nguyễn Thi - một hiện tượng "bùng nổ về tài năng"
(đánh giá của Nguyên Ngọc) trong thế hệ các nhà văn trưởng thành sau cách
mạng tháng Tám.
II. Tiếp cận văn bản
Nguyễn Thi là một nhà văn - chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã
để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi
sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản văn
học viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới
ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm
mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn.
Từng sống ở Nam Bộ trước Cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu
19
trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có
thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong
cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tấm huyết xây dựng họ thành
những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm
thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.
Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất
của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về
những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách
mạng và có những mối thù riêng đối với quân giặc. Chiến và Việt - hai chị
em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị
địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp) còn mẹ thì chết vì trúng
đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người
chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết
của họ). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có
khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng
như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có ý nghĩa cá biệt. Có biết bao
người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như
thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được
nhắc tới mấy lần trong truyện có ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ
cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình
mà đề cập những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói
lên điều đó : "Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi
chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông
nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát
mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông
đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng
lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả
nước ta". Thông thường, sự khái quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy.
Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống.
Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải
chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những
sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Chiến - Việt, từ chuyện
người nào bị giặc giết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao.
Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên
gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ
trên sông Định Thuỷ. Cuốn sổ - ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy
truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về
truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú
nói : "Chừng nào bây trọng trọng (lớn lớn) tao giao cuốn sổ cho chị em bây".
20
Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ
là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói
mọi chiến công mà Chiến và Việt lập được lại không liên quan tới cuốn sổ
gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu
của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong
phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang
sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện
nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ.
Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với "giọng hò đã đục và tức như gà
gáy" ("Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng
hò lên mấy câu"). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay
nhưng chứa đựng một cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt
tuy thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác
phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật
chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh
của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và thuỷ chung
một dạ với cách mạng. Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của
chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là
người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng.
Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung
con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi
theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, "bà đén dòm dòm rồi bỏ luôn
vào rổ, cắp về" ; nào chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong
tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận ; nào chuyện bà tần tảo sớm hôm
làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã
"đẩy xuồng ra tuôt giữa sông" Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai
bàn tay to bản "phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân" hoặc "dùa đàn con
lại đàng sau tránh đạn" đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một
người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.
Hai nhân vật được khắc hoạ đậm nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến
là chị. Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào". Ngay cả Việt
cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn
để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã
đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong
ngày tòng quân, cô nói với em : "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân
con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !". ở cô,
21
khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em
đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo,
"nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, "nhìn
hai cháu thiệt lâu" rồi nói : "Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước
nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì
đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước". Câu nói của chú Năm thể hiện sự
yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành,
có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.
Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc
còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính chất của một cậu bé. "Cậu
Tư" này trong gia đình có điệu cười "lỏn lẻn" rất dễ thương. Cậu ta thường
ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ
đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị "Tôi nói
chị tính sao cứ tính mà". Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai,
Việt vẫn đùa nghịch "chụp một con đom đóm úp trong lòng tay" và thú vị
quan sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng "in hệt má" của chị. Vào bộ đội rồi,
cậu ta "giấu chị như giấu của riêng vậy" vì sợ mất chị trước những lời gạ
gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái
võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun (súng cao su) - một vật
bất li thân từng gắn bó từ ngày cậu "để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất
từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim". Tuy còn rất trẻ con
như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng
thủ pháp tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt
quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với
tâm niệm : "Tao sẽ chờ mày ! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu
rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày.
Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày ! Mày chỉ giỏi giết gia đình
tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy". Có bao nhiêu là quyết tâm, bao
nhiêu là niềm trìu mến với đồng đội, bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ
thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững
chạc trong khi còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một
cậu bé vừa đến tuổi thành niên.
Nhìn chung, trong khi xây dựng nhận vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc
cá thể hoá. Nhân vật nao cũng có những nét riêng, độc đáo hiện lên mồn một
trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và Việt nói khác chị Chiến.
Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng
có ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần
qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để
22
người má ấy nói về Việt : "Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi !". Nói lên
điểm giống nhau ở đây tức là nói đến nét bền vững trong truyền thống một
gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất
mực tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức
mạnh tinh thần nào đã giúp các nhân vật vượt qua được những thử thách lớn
lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng là điểm nút khiến cho mọi
chi tiết, sự việc được mô tả trong tác phẩm quy tụ lại, thống nhất ở tinh thần
chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong
chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm
hay từ miệng má Việt, vì vậy, có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí
của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức
rất mực giản dị - giản dị đến bất ngờ (chẳng hạn câu của má Viêt : "người
chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì ?"). ở
đây, có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác của Nguyễn Thi : tính triết lí
rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời - một cuộc đời được tái hiện
sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh
thêm cho điều vừa nói bằng vào chi tiết "cực đắt" sau đây mà nhà văn đã đưa
vào cuối tác phẩm : chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang
gửi nhà chú Năm : "Chị Chiến đứng ra giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống,
cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả
thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt
ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh
giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt
khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị,
Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế.
Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.
Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân
vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng
này sang bưng khác". Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này.
Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta : có yêu
thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt
nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm
linh Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn
Nguyễn Thi, mùi hương "trữ tình" này thường chỉ được dùng rất dè sẻn,
nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quý, để lại trong lòng người đọc những
cảm nghĩ sâu xa.
Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong
gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó
qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi
23
bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ
chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa.
Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đậy lại là tâm lí của con người
luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật
đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng
thái "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" đó của nhân vật. Bốn lần Việt "tỉnh dậy"
trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ
thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong
bước khởi đầu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả
hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một
cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên,
Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ "Khi đổ ếch vào thùng, chú
Năm thế nào cũng sang". Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu
hò và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng
cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành
trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa
mất, thế là nỗi nhớ "chuyển vùng" sang hình ảnh của người má thân yêu.
Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến
Việt liên hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành
nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà
chú Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người.
Ông đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng
với "kết cấu" của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng
được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật.
Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ
trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình
và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của
người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương,
gắn bó : "Việt" (chứ không phải là "anh" hay "chú bé"), "chị Chiến" (chứ
không phải là "cô", "chị"), "chú Năm" (chứ không phải là "ông Năm"), "má"
(chứ không phải là "má Việt") Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa
phương của lời trần thuật (chưa kể đến lời nói thực thụ của nhân vật): "Chú
ít nói, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới", "Thím Năm vừa khóc vừa
kể thôi là kể", "Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm,
hai mắt hứ một cái "cóc", rồi đi thẳng" Thật khó kể hết được những ví dụ
sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn
ngữ Nam Bộ. Cần phải thấy rằng cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây
trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất
ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, của một thời
24
Những đứa con trong gia đình thể hiện khá rõ tài năng của Nguyễn Thi trên
nhiều mặt : khả năng khái quát cao, khả năng dựng cảnh, dựng người và mô
tả tâm lí sâu sắc, khả năng vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ đầy linh hoạt, biến
hoá và cả chất triết lí rất riêng, toát lên từ chính hiện thực chứ không phải từ
những lời trữ tình ngoại đề của tác giả. Tất nhiên, những phương diện tài
năng ấy không biểu lộ riêng rẽ. Chúng hoà lẫn vào nhau hết sức tự nhiên đưa
đến sức thuyết phục lớn cho tác phẩm, làm cho độc giả khi đọc tác phẩm
không còn thấy đó là văn mà chỉ thấy đó là cuộc đời.
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
-Nguyễn Thi-
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
+ Nguyễn Thi (1928- 1968) tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở Hải
Hậu- Nam Định.
+ Nguyễn Thi còn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn. Sáng tác của
Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Ông được
tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
+ Đặc điểm sáng tác: Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự
xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ.
Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc
điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó là:
- Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt
bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu
rất cao- những con người dường như sinh ra để đánh giặc.
- Tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa.
Các nhân vật trong Những đứa con trong gia đình từ ba má Việt, chú Năm
đến chị em Việt đều tiêu biểu cho những đặc điểm trên.
25