Tải bản đầy đủ (.ppt) (17 trang)

Tổ chức hoạt động giáo dục pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.25 KB, 17 trang )




Điều 61, Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 2/12/1998,
đã khẳng định: nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo
dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo phải
có đủ các tiêu chuẩn sau:
+ Phẩm chất, đạo đức , tư tưởng tốt.
+ Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Đủ sức khoẻ theo yêu cầu của nghề nghiệp.
+ Lý lịch bản thân rõ ràng.

I.Yêu cầu về Chuyên Môn:
- Có hiểu biết chung, sâu, rộng, đặc biệt trong các lĩnh vực sau:
+ Khoa học kỹ thuật - công nghệ
+ Chính trị, xã hội
+ Văn học nghệ thuật
+ Thể dục thể thao
+ Những tiến bộ, thông tin mới trong nước và quốc tế.
- Không ngừng học tập lý luận và tìm ra cách thức ứng dụng vào
thực tiễn, đặc biệt là ứng dụng lý luận sư phạm vào công tác giảng
dạy và giáo dục nói chung, công tác chủ nhiệm lớp nói riêng.
- Học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp, biến nó trở thành của
chính mình.
- Có những hiểu biết sâu sắc, vững chắc, hiện đại về bộ môn được
phân công giảng dạy.
- Biết trình bày bài giảng rõ ràng, hấp dẫn cho học sinh tiếp thu.

+ Có khả năng tiếp cận các đối tượng (học sinh, phụ huynh học
sinh và các đối tượng giao tiếp khác ) và có phương pháp đối
xử cá biệt.


+ Có khả năng phán đoán về đối tượng, về công việc và hiệu
quả của công việc mà mình đang tiến hành.
+ Biết xây dựng kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kế hoạch trong
công tác giảng dạy và giáo dục nói chung, công tác chủ nhiệm
lớp nói riêng.
+ Có khả năng cảm hoá, thuyết phục học sinh
+ Có uy tín đối với các em
+ Biết bộc lộ, hoặc kiềm chế tình cảm, thái độ của mình trong
những hoàn cảnh khác nhau.
II. GVCN phải có một số kỹ năng sau:

1. Năng lực tổ chức hoạt động dạy học
III. Yêu cầu về năng lực sư phạm của GVCN

Để truyền đạt kiến thức một cách rõ ràng dễ hiểu để người học dễ
tiếp thu, có hứng thú về môn học, có tư duy độc lập suy nghĩ tích
cực trong quá trình học tập. Người thầy phải hiểu biết vững chắc,
sâu rộng bộ môn đang dạy và các bộ môn tương ứng và biết vận
dụng được phương pháp giảng dạy
(Tiếp)

2. Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục

Ngoài việc truyền đạt kiến thức trên lớp những buổi sinh hoạt
lớp, ngoại khóa, diễn đàn …GVCN có những tác động tích cực
tới học sinh qua việc phối hợp các hình thức tổ chức, các
phương pháp giáo dục, giúp học sinh lĩnh hội những kiến thức
thiết thức. hình thành và phát triển toàn diện hơn về nhân
cách, phẩm chất, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ…


3.Năng lực ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện,
công cụ để diễn đạt rõ ràng,
mạch lạc, ý nghĩ, tình cảm
của người thầy để truyền thụ
kiến thức, để tác động vào
tâm tư, tình cảm của người
học. Ngôn ngữ của người
thầy phải đơn giản, rõ ràng,
dễ hiểu, có sức thuyết phục
mạnh mẽ, không nặng nề,
đơn điệu, không sai sót về
ngữ âm, ngữ pháp.

4. Năng lực sáng tạo trong công tác sư phạm
GVCN có những sáng kiến sáng
tạo, tích cực nhằm giúp học
sinh có những chuyển biến tốt
về mặt học tập cũng như ý thức
đóng góp vào cho sự phát triển
chung của toàn trường

5. Năng lực tự học, tự nghiên cứu
Không chỉ trong quá
trình dạy học và giáo
dục GVCN mới phát
huy được hết khả
năng, ngoài giờ trên
lớp GV còn tự trau dồi
kiến thức, tự nghiên

cứu ra những tri thức,
kỹ năng mới để hoàn
thiện năng lực cho
mình hơn.

Năng lực tổ chức, quản lí giáo
dục : giúp cho GVCN tổ chức điều
hành và quản lí lớp học theo yêu
cầu của nhà trường đề ra, tổ chức
công tác của bản thân theo kế
hoạch cá nhân, kế hoạch chung
của tập thể
6.Năng lực tổ chức, quản lí giáo dục

Ngoài ra còn có những yêu cầu:
+ Khả năng dẫn dắt thật khéo léo (vào đề, minh họa, diễn xuất, hài
hước, lôi cuốn …)

+ Khả năng quan sát, lắng nghe, nhạy cảm để thấu hiểu tuyệt vời.

+ Vốn sống thực tế phong phú.

Mỗi người chúng ta sinh ra trên đời đều có
một số tố chất đặc biệt để phát huy năng lực
của mình trong một lĩnh vực nào đó. Năng
lực sư phạm cũng cần có năng khiếu, tuy
nhiên nếu ý thức rèn luyện thì năng lực này
ngày càng được cải thiện. Đừng làm gì trái
qui luật, hãy cố gắng hiểu mình, hiểu ngoại
cảnh thật nhiều, rồi từ đó phát huy những tố

chất theo hướng thích hợp nhất, con thuyền
ước mơ của bạn sẽ sớm đến bến bờ hạnh
phúc và thành đạt!

1.1. Phẩm chất chính trị, đạo đức của người GVCN

Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với người GVCN. Chính nó tạo
nên sự thành công trong công tác giáo dục thế hệ trẻ của người GVCN
lớp. Đảng ta đã khẳng định giáo dục là công cụ của chuyên chính vô
sản, người giáo viên là chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng văn hoá.
Điều này đòi hỏi GVCN phải là người của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ
thể phải có các phẩm chất đạo đức sau:
+ Có niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc.
+ Tin tưởng vào sự đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo
+ Những niềm tin của người GVCN phải có cơ sở vững chắc, phải dựa
trên sự hiểu biết những quy luật của tự nhiên và xã hội.

+ Trong đạo đức của người GVCN, phải có sự thống nhất giữa nhận
thức, tình cảm, hành vi; những phẩm chất đạo đức mà người GVCN
có được phải phù hợp với các chuẩn mực xã hội hiện đại, có sự kế
thừa, phát huy những truyền thống đạo đức của dân tộc. Đó là các
phẩm chất đạo đức sau:
+ Lòng yêu thương con người, đặc biệt yêu thương trẻ em - đối
tượng trực tiếp của mình.
+ Hăng say với công việc dạy học và giáo dục.
+ Quan tâm tới công việc của nhà trường và đồng nghiệp.
+ Có trách nhiệm đối với công việc được giao (giáo dục, giảng dạy,
chủ nhiệm lớp )

+ Làm chủ được bản thân trong công việc và cuộc sống.
+ Mẫu mực trong gia đình, trong quan hệ với người khác
+ Biết giữ đúng lời hứa với mọi người, đặc biệt là đối với học sinh

×