Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bí Mật ở Biệt Điện Trần Lệ Xuân doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.76 KB, 4 trang )

Bí Mật ở Biệt Điện Trần Lệ Xuân


TT - Những bậc cao niên ở thành phố Đà Lạt kể rằng ngày xưa đây là nơi
không một thường dân nào được phép bén mảng. Cũng chẳng biết trong đó
thường có mặt ai và bài trí những gì.
Chỉ biết phía sau hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt ấy là sự hiện diện của những
kẻ có quyền uy bậc nhất của chính quyền chế độ cũ.


“đệ nhất biệt điện”
Vào thời hưng thịnh nhất của gia đình họ Ngô, năm 1958, vợ chồng ông “cố
vấn” đã cho khởi công xây dựng khu biệt điện. Công trình này được coi là
“sân sau” của gia đình quyền lực ấy nên được huy động tối đa trí lực, nhân
lực và vật lực.
Khu biệt điện gồm ba biệt thự là Hồng Ngọc, Bạch Ngọc và Lam Ngọc.
Bạch Ngọc là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và tướng tá chế độ Sài
Gòn. Lam Ngọc được sử dụng làm nhà nghỉ cuối tuần của gia đình ông bà
“cố vấn”. Còn Hồng Ngọc là tòa biệt thự mà bà Nhu xây tặng riêng cho bố
đẻ của mình là ông Trần Văn Chương lúc này đang là đại sứ Việt Nam cộng
hòa tại Hoa Kỳ.
Chẳng ai biết Trần Lệ Xuân đã bỏ ra bao nhiêu tiền của, nhưng vẻ kiêu sa,
lộng lẫy của công trình này vẫn hiện diện cho tới ngày nay. Chỉ là một biệt
điện cho những ngày ăn chơi, nhưng cũng thể hiện đỉnh cao quyền uy của
chủ nhân.
Khuôn viên của tòa biệt điện nằm trên diện tích 13.000m2 với đầy đủ phòng
làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ, phòng chiêu đãi Ngoài sân có hồ bơi
nước nóng, có vọng đài và một hoa viên cực đẹp do các kỹ sư đến từ đất
nước Phù Tang thiết kế, vì vậy nó còn được gọi là vườn hoa Nhật Bản. Phía
sau vườn hoa này có một hồ sen, khi bơm đầy nước thì từ mặt hồ sẽ hiện rõ
hình địa đồ Việt Nam.


Đặc biệt, để đề phòng bị tấn công bất ngờ, trong biệt thự Lam Ngọc còn có
một căn hầm trú ẩn được thi công bằng loại thép đặc biệt, có thể chống đỡ
sức công phá của hỏa lực hạng nặng. Trong căn hầm này có một đường hầm
thoát hiểm, cho đến nay người ta vẫn chỉ phỏng đoán nó dẫn ra phía phi
trường Cam Ly, cách nơi này chừng hai cây số
Trong thời gian gia đình họ Ngô trên đỉnh cao quyền lực, biệt điện Trần Lệ
Xuân là một trong những nơi được bảo vệ nghiêm ngặt nhất. Suốt ngày đêm
có hàng chục cảnh sát và vệ binh cộng hòa túc trực tuần phòng. Một con
chim lạ bay vào khu vườn cũng sẽ bị bắn hạ.
Thế nhưng, nhân nào thì quả nấy. Cuộc chính biến 1963 đã kết thúc sự “trị
vì” của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Cùng số phận với chủ nhân, tòa biệt
điện được trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây nguyên vào thời Nguyễn
Văn Thiệu nắm quyền.
Đến năm 1975, trong cuộc tháo chạy của chế độ cũ, không ít cổ vật vô giá
tại bảo tàng này đã bị tuồn ra nước ngoài, nhiều món cổ vật khác bị lấy cắp,
đập phá.
Sau ngày nước nhà thống nhất, chính quyền cách mạng đã tiếp quản và gìn
giữ nơi này như một phần tài sản quốc gia. Đầu năm 2007, Bộ Nội vụ đã
quyết định đầu tư 53 tỉ đồng để nâng cấp khu biệt điện này và thành lập tại
đây Trung tâm Lưu trữ quốc gia 4


Biệt điện Trần Lệ Xuân - Ảnh tư liệu trước 1975
Đến kho lưu trữ mộc bản triều Nguyễn
Năm 1949, khi Bảo Đại lên làm quốc trưởng của chính phủ bù nhìn thuộc
Pháp, ông ta đã chọn Đà Lạt làm hoàng triều cương thổ. Toàn bộ mộc bản
triều Nguyễn được ông vua cuối cùng của dòng họ này cho chuyển về miền
đất cao nguyên. Ban đầu, kho tàng ấy được cất giữ ở Nha Ngân khố, sau đó
chuyển đến Nhà dòng Chúa Cứu thế.
Từ năm 1983 đến nay, những tài liệu quý này tiếp tục được lưu giữ tại biệt

điện Trần Lệ Xuân. Mộc bản triều Nguyễn chính là những tấm gỗ quý được
khắc chữ Hán và chữ Nôm (chữ khắc ngược) dùng để nhân bản tài liệu nhằm
phổ biến rộng rãi ra công chúng các chuẩn mực xã hội, các điều luật bắt
buộc thần dân y tuân. Đó cũng là những bản khắc lưu truyền công danh, sự
nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử, các biến cố thời cuộc, các
cuộc tiễu trừ giặc dã
Tất cả các bản thảo nói trên đều được đích danh hoàng đế ngự lãm, phê
duyệt bằng bút tích trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong
cung đình khắc lên gỗ quý.
Theo các chuyên gia, do tính chất cực kỳ quan trọng của mộc bản, dưới thời
Minh Mạng nhà vua từng có chỉ dụ: “Sai quan Bắc thành kiểm xét các ván
in nguyên trữ tại Văn Miếu (Hà Nội) về các sách ngũ kinh, tứ thư đại toàn,
vũ kinh trực giải cùng tiền hậu chính sử và tứ trường văn thể gửi về kinh để
ở Quốc Tử Giám (kinh đô Huế)”.
Ngay sau khi đăng quang vào năm 1841, vua Thiệu Trị cũng đã ban sắc cho
thuyền binh chở toàn bộ mộc bản từ Quốc Tử Giám, Hà Nội về kinh đô Huế
để bảo quản, tu bổ
Sự ra đời của tài liệu mộc bản do Quốc sử quán đảm nhận chính. Quốc sử
quán được thành lập năm 1821.
Để chế tác tài liệu mộc bản, Quốc sử quán đã phải tuyển nhiều thợ chạm
khắc giỏi của cả nước. Những chữ được khắc lên mộc bản như chứa đựng tất
cả tâm huyết của mỗi người thợ. Mỗi chữ Hán - Nôm trên mộc bản được
khắc rất tinh xảo, sắc nét. Mỗi tấm mộc bản không những là một trang tài
liệu quý giá mà còn là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Mộc bản triều Nguyễn có nội dung rất phong phú và được chia làm chín chủ
đề gồm: lịch sử, địa lý, quân sự, pháp chế, văn thơ, tôn giáo - tư tưởng - triết
học, ngôn ngữ - văn tự, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục.
Trong khối tài liệu này có một số bộ sách rất có giá trị mà các nhà nghiên
cứu về lịch sử, địa lý, pháp luật, văn hóa của Việt Nam không thể bỏ qua
như: Đại Nam thực lục, Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long), Đại Nam nhất

thống chí Trong đó bộ sách Đại Nam thực lục là đồ sộ nhất được biên soạn
trong 88 năm (1821-1909).
Theo một số tài liệu, những bản khắc mộc bản chủ yếu sử dụng gỗ thị để
khắc, bởi gỗ thị có màu trắng, thớ gỗ mịn, nhẹ, thường được dùng để khắc
dấu không nứt mẻ, không cong vênh. Vì thế trải qua mấy trăm năm mà đến
nay mộc bản vẫn có tình trạng vật lý tốt. Ngoài ra người ta còn dùng gỗ lê,
gỗ táo để khắc mộc bản.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí - một bộ sách địa chí nổi tiếng của triều
Nguyễn: “Gỗ dùng để khắc mộc bản là gỗ cây nha đồng, thớ gỗ mịn, trắng
sáng như ngà voi”.
UÔNG THÁI BIỂU - KHẮC NIÊN


×