Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Dùng thuốc lợi tiểu trong điều trị suy tim mạn tính potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.45 KB, 8 trang )

Dùng thuốc lợi tiểu trong điều trị
suy tim mạn tính
Từ trước đến nay, thuốc lợi tiểu vẫn là thuốc chọn lựa đầu tiên
khi đã có triệu chứng suy tim, với mục đích giảm triệu chứng ứ huyết và
phù ngoại biên
Thiazid
Đây là thuốc chọn lựa đầu tiên đối với suy tim nhẹ, suy tim mạn.
Thường bắt đầu bằng liều thấp, tăng dần với suy tim nặng hơn trước khi đổi
qua lợi tiểu quai hoặc kết hợp với lợi tiểu quai. Thiazid thường kém hiệu quả
khi chức năng thận giảm, có thể dùng 25-50mg hydrochloro-thiazid. Khuynh
hướng hiện nay là dùng kết hợp với thuốc ức chế men chuyển (ƯCMC) dạng
angiotensin II mỗi khi dùng lợi tiểu (trừ khi có chống chỉ định) vì ƯCMC sẽ
ức chế kích hoạt hệ renin-angiotensin gây nên bởi việc sử dụng lợi tiểu.
Ngoài ra, ƯCMC cũng có tác dụng lợi tiểu gián tiếp bằng cách ức chế
aldosteron và được xem như một dạng lợi tiểu giữ kali. Nếu bệnh nhân (BN)
không dung nạp thuốc ƯCMC trong quá trình điều trị (ho khan kéo dài) thì
thay thế bằng thuốc ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II. Thuốc ức chế
AT1 cũng nên được lựa chọn đối với BN tiểu đường, nhất là khi BN bắt đầu
có biểu hiện của suy thận. ÐĐể thuốc lợi tiểu dễ tác dụng nên khuyên BN
nằm nghỉ 1 - 2 giờ sau khi dùng thuốc.
- Metolazon: là một lợi tiểu - thiazid nhưng có tính chất đặc biệt là có
hiệu quả ngay cả khi BN suy thận. Liều chuẩn là 5 - 20mg ngày 1 lần, tác
dụng 24 giờ. Nếu phối hợp với furosemid có thể gây lợi tiểu rất nhanh và ồ
ạt.
Furosemid
- Furosemid thường được chọn ưu tiên khi đã có suy tim nặng vì làm
mất natri nhanh, có hiệu quả ngay cả khi độ lọc vi cầu thận thấp và gây giãn
tĩnh mạch. Ở BN suy tim nặng, sự hấp thu lợi tiểu quai bị chậm lại và tác
dụng tối đa chỉ xảy ra sau 4 giờ. Sự đáp ứng của thận đối với lợi tiểu quai
cũng giảm, ảnh hưởng thải natri ở BN suy tim độ II-III giảm chỉ còn 1/3 -1/4
và thấp hơn nữa với suy tim nặng hơn. Muốn làm tăng sự đáp ứng này


không cần dùng liều thật cao (trừ khi có suy thận kèm theo) mà nên tăng số
lần dùng với liều vừa phải.
Khả dụng sinh học và thời gian bán thải của thuốc cũng quan trọng về
phương diện lâm sàng. Đối với furosemid uống, mức độ hấp thu là 50%
nhưng có thể thay đổi từ 10-100% nên khó đánh giá hiệu quả, trong khi
bumetanid và torsemid hấp thu gần trọn vẹn 80-100% nên có tác giả tin rằng
BN suy tim điều trị với lợi tiểu quai này có lợi hơn là điều trị với furosemid.
Số lần dùng trong ngày tùy thuộc thời gian bán thải. Trong khi thiazid có thể
dùng 1-2 lần /ngày do thời gian bán thải dài thì lợi tiểu quai lại có thời gian
bán thải ngắn (bumetamid 1 giờ, torsemid 3 - 4 giờ, furosemid 1 - 2 giờ) nên
tác dụng lợi tiểu thường giảm trước khi liều kế tiếp được sử dụng và trong
khoảng thời gian đó ống thận tích cực tái hấp thu natri. Do đó phải dùng lợi
tiểu quai nhiều lần trong một ngày. Ngoài ra cũng nên cho BN nằm nghỉ 1 -
2 giờ sau khi dùng thuốc để tác dụng lợi tiểu tốt hơn.
Nếu BN bị suy thận kèm theo, liều furosemid phải cao hơn. Dùng liều
lợi tiểu sao cho thích hợp là yếu tố quyết định sự thành công của điều trị và
hiệu quả của các thuốc phối hợp với lợi tiểu như: ƯCMC, giãn mạch. Lợi
tiểu với liều thấp quá sẽ gây giữ nước, làm giảm hiệu quả của ƯCMC và
tăng nguy cơ khi dùng thuốc chẹn bêta. Lợi tiểu với liều cao quá gây giảm
thể tích làm tăng nguy cơ tụt huyết áp (HA) khi dùng ƯCMC và thuốc giãn
mạch.
Rối loạn điện giải xảy ra trong khi điều trị lợi tiểu cần được xử lý tích
cực đồng thời vẫn duy trì lợi tiểu nếu BN còn ứ đọng nước. Nếu HA hơi
giảm và urê huyết tăng do dùng lợi tiểu nhưng không gây triệu chứng thì vẫn
duy trì lợi tiểu. Cần đánh giá chính xác xem HA giảm và urê huyết tăng là
do dùng lợi tiểu quá nhiều hay do suy tim nặng thêm. Nếu BN không có
triệu chứng ứ đọng nước thì có thể hiện tượng trên là do giảm thể tích, nên
giảm liều lợi tiểu khi những thay đổi về HA và chức năng thận đã rõ và gây
triệu chứng. Nếu BN còn ứ đọng nước thì có thể HA giảm và urê huyết tăng
là do suy tim nặng thêm, cần duy trì liều lợi tiểu và tăng cường tưới máu

thận bằng thuốc vận mạch hoặc thuốc dãn mạch.
Thuốc kháng aldosteron
Spironolacton phối hợp với lợi tiểu quai hoặc thiazid giúp ngăn ngừa
rối loạn điện giải ở đa số BN suy tim. Ngoài ra, còn có tác dụng ức chế sự
xơ hóa cơ tim và giảm nguy cơ tiến triển của suy tim. Nghiên cứu RALES
trên 1.663 BN suy tim nặng (độ IV) được điều trị bằng spironolacton (đến
25mg/ngày) phối hợp với thuốc cổ điển trong 24 tháng cho thấy
spironolacton làm giảm tử suất 27%, giảm nhập viện 36%. Dựa trên những
kết quả này, có thể sử dụng spironolacton liều thấp ở BN suy tim độ IV,
nhưng hiệu quả trên BN suy tim nhẹ và vừa chưa được rõ.
Về bổ sung kali khi dùng thuốc lợi tiểu
Nỗi lo ngại hạ kali huyết với các biến chứng có thể xảy ra như ngoại
tâm thu, ngộ độc digoxin đưa đến việc bổ sung kali một cách thường quy
mỗi khi dùng lợi tiểu nhất là với furosemid liều cao tiêm mạch. Thật ra
lượng kali mất trong nước tiểu khi dùng furosemid (10mM/l) tương đối thấp
(so với 25 mM/l khi dùng thiazid) và tác dụng ngắn của furosemid cho phép
cơ thể tự cân bằng lại kali và magnesium sau tác dụng lợi tiểu. Hơn nữa,
furosemid liều cao chỉ sử dụng khi có suy thận hoặc suy tim nặng với rối
loạn chức năng thải kali tại thận nên việc bổ sung kali một cách thường quy
chỉ cần với liều thấp. Nếu sử dụng lợi tiểu quai kết hợp với lợi tiểu giữ kali
như spironolacton thì không cần thiết phải thêm kali mà chỉ cần kiểm tra kali
huyết định kỳ. Cần lưu ý đến hiện tượng tăng kali máu thường xảy ra nhiều
hơn khi điều trị lợi tiểu phối hợp với các thuốc ƯCMC.


Hiện tượng nhờn (lờn) thuốc lợi tiểu
Có 2 dạng:
- Nhờn thuốc ngắn hạn là sự giảm đáp ứng với một lợi tiểu sau khi
dùng liều thứ nhất. Cơ chế chưa được rõ, có thể do sự kích hoạt angiotensin
II hoặc hệ thần kinh giao cảm, tuy nhiên nghiên cứu trên chuột cho thấy

dùng ƯCMC hoặc thuốc chẹn bêta không ngăn ngừa được hiện tượng này.
- Nhờn thuốc dài hạn: Khi sử dụng lợi tiểu quai kéo dài, dịch thoát ra
từ quai Henlé tràn về ống thận xa và làm ống thận xa phì đại (cơ chế không
rõ) và tăng sự hấp thu natri. Do đó, natri thoát ra từ quai Henlé lại được tái
hấp thu ở ống thận xa. Thiazid chẹn ống thận ngay tại điểm phì đại, do đó có
tác dụng cộng hưởng khi phối hợp với lợi tiểu quai.
Hiện tượng nhờn lợi tiểu có thể khắc phục bằng cách:
- Dùng lợi tiểu tiêm mạch, phối hợp 2 lợi tiểu (furosemid và thiazid),
sử dụng lợi tiểu phối hợp với thuốc co cơ tim.
- Dopamin liều thấp < 3 mcg/kg/phút dùng ngắt quãng có thể cải thiện
huyết động học của thận và làm tăng sự đáp ứng với lợi tiểu quai. Tuy nhiên,
nghiên cứu của Vargo và cộng sự (1996) lại kết luận là ở BN suy tim,
dopamin không làm tăng thêm sự đáp ứng đối với liều hiệu quả tối đa của
furosemid.
- Acetazolamid + lợi tiểu quai: acetazolamid (diamox), thuốc ức chế
anhydrase carbonic là lợi tiểu yếu, nhưng đã được sử dụng trên BN suy tim
sung huyết không đáp ứng với lợi tiểu quai liều cao và với BN bị kiềm
chuyển hóa. Ở những BN này, sự tái hấp thu natri gia tăng ở ống thận gần,
làm natri đến quai và ống thận xa giảm gây nên sự mất hiệu quả lợi tiểu
quai. Tuy nhiên chỉ dùng acetazolamid nếu đã dùng thiazid và lợi tiểu quai
không hiệu quả. Liều acetazolamid 500mg tiêm mạch có thể phối hợp với
furosemid truyền dịch liên tục. Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để
đánh giá hiệu quả của acetazolamid trên BN suy tim nặng.
- Truyền furosemide liên tục theo đường tĩnh mạch bằng bơm tiêm
điện với liều 1 - 2 mg/kg/24h có thể giải quyết được tình trạng trơ với thuốc
lợi tiểu nói trên ở những bệnh nhân suy tim nặng, phân số tống máu thấp và
ứ huyết nặng.

×