Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

“Sự bằng lòng với thành tựu là thách thức lớn nhất” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.51 KB, 10 trang )

“Sự bằng lòng với thành tựu là
thách thức lớn nhất”

“Chính sự bằng lòng với
những thành tựu đã đạt
được và triển vọng kinh tế
tích cực lại là thách thức
lớn nhất mà Việt Nam có
thể phải đối mặt”.
Đó là góc nhìn đáng suy nghĩ từ Báo cáo Năng lực cạnh
tranh Việt Nam 2010, do Học viện Năng lực cạnh tranh
Châu Á (Singapore) hợp tác với Viện Nghiên cứu và Quản
lý kinh tế Trung ương (CIEM) thực hiện dưới sự chỉ đạo
nội dung của GS. Michael Porter - chuyên gia uy tín trong
lĩnh vực cạnh tranh tới từ Trường kinh doanh Harvard -
được công bố ngày 30/11.
Phân tích cơ cấu kinh tế Việt Nam, các hạn chế của mô
hình tăng trưởng và kiến nghị các giải pháp, bản báo cáo
được thực hiện lần đầu tiên này cho thấy Việt Nam đang
cần những thay đổi căn bản để dẫn hướng nền kinh tế sang
một giai đoạn phát triển mới.
Dư địa tăng trưởng cao không còn nhiều
Đi từ những vấn đề căn bản nhất, Báo cáo Năng lực cạnh
tranh Việt Nam 2010 mở đầu bằng việc phân tích các yếu
tố cấu thành tăng trưởng dựa trên hàm sản xuất, bao gồm
vốn, lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tăng trưởng của nền kinh tế
đang ngày càng phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư, mà thiếu
lực đẩy từ nhân tố lao động và TFP, những nội lực tạo nên
sức cạnh tranh của nhiều nước phát triển và đang phát triển
khác.


Số liệu thống kê thời kỳ 2006-2010 chỉ ra rằng, tỷ lệ vốn
đầu tư toàn xã hội so với GDP luôn ở mức trên 40%, cao
hơn nhiều so với các nước công nghiệp mới có cùng giai
đoạn phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư lại chưa phát
huy rõ rệt đến đời sống kinh tế, xã hội.
Từ chính sự “bành trướng” của yếu tố vốn đầu tư, tỷ lệ
đóng góp vào tăng trưởng của lao động và TFP trong giai
đoạn 5-10 năm gần đây thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước
khủng hoảng kinh tế khu vực 1997-1998.
Các phân tích về tăng trưởng năng suất, đo bằng bình quân
GDP trên số lao động, cũng cho kết quả tương tự. Theo báo
cáo, tăng trưởng năng suất trong giai đoạn vừa qua chủ yếu
do chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp
chế biến thâm dụng vốn.
Với 49% lao động tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp,
quá trình chuyển dịch này vẫn có thể tiếp tục trong vài năm
tới, tuy nhiên việc chuyển dịch này chỉ là từ khu vực năng
suất và thu nhập rất thấp sang khu vực chế tạo vẫn có năng
suất và tiền lương không cao.

“Mặc dù quá trình này đã phát huy tác dụng trong thời gian
qua và vẫn có thể phát huy tác dụng thêm một thời gian
nữa, nhưng dư địa còn lại không nhiều… Việt Nam sẽ bị
mắc tại mức phát triển hiện nay nếu không có giải pháp
mới”, báo cáo nhìn nhận.
Ba mất cân đối không thể xem thường
Theo Học viện Năng lực cạnh tranh Châu Á, tăng trưởng
dựa vào tăng vốn cũng dẫn tới những hệ quả không thể xem
thường, cơ bản nhất là mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Sự gia tăng các khoản chi vượt quá khả năng (chủ yếu từ

khu vực nhà nước và doanh nghiệp) được tài trợ bằng các
nguồn vốn bên ngoài như đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều
hối, viện trợ phát triển, và các nguồn khác.
Tuy nhiên, “quan ngại về khả năng trang trải các thâm hụt
đối ngoại của Việt Nam ngày càng tăng với mức nợ công
tăng lên và dự trữ ngoại hối giảm đi đáng kể, ảnh hưởng tới
triển vọng của nền kinh tế”, báo cáo nhận định.
Việc đầu tư vượt quá tiết kiệm của nền kinh tế cũng dẫn
đến mức thâm hụt cao trong cân đối tài khoản vãng lai (do
Cán cân vãng lai = Tiết kiệm - Đầu tư), hệ quả là thâm hụt
thương mại của Việt Nam ngày càng tăng. “Mặc dù được
coi là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, Việt Nam
nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu một cách có hệ thống”, báo
cáo viện dẫn.
Một biểu hiện rõ rệt khác là lạm phát và tỷ giá hối đoái đã
trải qua nhiều giai đoạn căng thẳng trong thời gian gần đây.
Do Việt Nam vẫn duy trì tỷ giá danh nghĩa ở mức ổn định,
lạm phát dẫn tới tỷ giá thực có hiệu lực tăng lên, buộc Việt
Nam phải nhiều lần điều chỉnh.
Từ phân tích trên, báo cáo đi đến kết luận: “Những mất cân
đối này có thể gây ra hậu quả không thể xem thường. Ít
nhất là chúng tạo ra tâm lý với các nhà đầu tư rằng rủi ro
khi đầu tư vào Việt Nam là cao. Các mất cân đối vĩ mô này
có thể làm phát sinh khủng hoảng, khi niềm tin bị xói mòn
và các dòng vốn nước ngoài chảy khỏi Việt Nam”.
Theo đó, những nút thắt cổ chai này là dấu hiệu cho thấy
mô hình tăng trưởng hiện nay đang mất dần động lực. “Các
nhà hoạch định chính sách hiện nay đã nhận diện tương đối
chính xác những nút thắt này, tuy nhiên, hiệu lực thực thi
các chính sách được đưa ra cho tới nay là chưa cao”, báo

cáo nhìn nhận.
Chính sách kinh tế vĩ mô: Điểm yếu lớn
Phản ứng chính sách đối với bất ổn vĩ mô của Việt Nam
gần đây đã được quốc tế ghi nhận về tính hiệu quả nhất
định, nhưng cho tới nay vẫn thiếu một chiến lược chính
sách tổng thể để giải quyết các thách thức một cách toàn
diện, có hệ thống. Theo báo cáo, chính sách kinh tế vĩ mô
chính là một điểm yếu lớn trong những năm gần đây.
Cụ thể, chính sách tài khoá bị cản trở rất nhiều bởi các
thâm hụt cơ cấu lớn của khu vực nhà nước. Áp lực liên tục
lên tỷ giá, tỷ lệ lạm phát cao, cũng như sự phát triển nóng
của thị trường tài chính trước khi nổ ra khủng hoảng tài
chính toàn cầu là những dấu hiệu về một chính sách tiền tệ
còn có vấn đề.
Trong khi đó, các khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng,
đường xá, cảng, sân bay, năng lượng… đã được thực hiện,
nhưng tác động kinh tế - xã hội của các công trình đem lại
chưa rõ do hiệu quả thấp và thiếu trọng tâm trọng điểm
trong đầu tư.
“Đầu tư hạ tầng được dùng để bù đắp cho các tỉnh có tăng
trưởng kém hơn chứ không phải nhằm tạo ra hiệu quả và
tác động cao nhất có thể”, báo cáo chỉ rõ.
Bên cạnh đó, dù các chương trình đào tạo ngày càng nhiều,
chất lượng giáo dục vẫn còn thấp và có sự chênh lệch giữa
các cơ sở. “Quản lý nhà nước về giáo dục còn tập trung
nhiều vào việc đặt ra các rào cản gia nhập thị trường đối
với các cơ sở đào tạo nước ngoài và can thiệp hành chính,
hơn là tập trung vào đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của
hệ thống giáo dục”, sự sai lệch vai trò này cũng được báo
cáo ghi nhận.

Và dù đã có một số cải thiện trong những năm gần đây, môi
trường hành chính nói chung vẫn chưa thông thoáng. Điều
này làm hạn chế sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà
đầu tư
“Những hạn chế này đặt ra một yêu cầu cấp thiết đối với
Việt Nam là phải chuyển dịch sang một giai đoạn phát triển
mới”, Báo cáo khuyến nghị.
Đề xuất lập Hội đồng Năng lực cạnh tranh Việt Nam
Theo nhìn nhận của Học
viện Năng lực cạnh tranh
Châu Á, trọng tâm chính
sách của Việt Nam hiện vẫn
đang hướng nhiều vào duy
trì tốc độ tăng trưởng ngắn
hạn hơn là duy trì tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất
trong dài hạn, mang tính bền vững. Trong khi đó, nhiều
chính sách vĩ mô có thể kích thích tăng trưởng ngắn hạn
nhưng lại không có tác dụng hoặc thậm chí gây ảnh hưởng
tiêu cực tới tăng trưởng năng suất dài hạn của nền kinh tế.
Cơ quan này đề xuất, Chính phủ Việt Nam cần xác định
được một vai trò mới cho mình, phù hợp với yêu cầu của
một nền kinh tế thị trường năng động, đang trỗi dậy và
đang hội nhập ngày càng sâu rộng. Với vai trò này, Chính
phủ sẽ đảm nhận những công việc tạo điều kiện và đảm bảo
thị trường được vận hành theo nguyên tắc của nó.
Với các khuyến nghị cụ thể, báo cáo cho rằng, Việt Nam
cần xây dựng một cơ quan độc lập chịu trách nhiệm cung
cấp các thông tin, số liệu minh bạch và chính xác về thực
trạng của nền kinh tế và đóng vai trò quan trọng trong việc
điều phối và kết nối đồng bộ các chính sách vĩ mô giữa các

bộ, ngành.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp nhà nước phải
tuân thủ các quy định chặt chẽ về công bố thông tin như
các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là thông tin về kết quả
tài chính của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động, các mối
liên hệ về tài chính với Chính phủ.
“Dựa trên kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác, chúng tôi
đề xuất thành lập Hội đồng Năng lực cạnh tranh Việt Nam
(VCC) để đảm nhận vai trò này”, Báo cáo đề xuất.
Khi đó, chức năng nhiệm vụ và hoạt động của Hội đồng là
định hướng và điều phối các mục tiêu chính sách trung và
dài hạn, chứ không chỉ để tìm kiếm các giải pháp tình thế
nhằm đối phó và xử lý những khủng hoảng hay vấn đề
trước mắt.
Cụ thể, về quản lý ngân sách, báo cáo khuyến nghị cần đảm
bảo minh bạch và kỷ luật nhằm duy trì cán cân ngân sách
bền vững và giảm thiểu các khoản chi ngoài ngân sách;
tăng cường chất lượng và hiệu quả trong quản lý nợ công;
và cần tuân thủ nguyên tắc công khai minh bạch và giám
sát độc lập trong đầu tư công.
Phía chính sách tiền tệ phải nhất quán và có thể dự đoán
được và cần làm rõ sự phối hợp về chính sách tiền tệ giữa
cả ba cấp, Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra những tín hiệu rõ ràng về
mục tiêu chính sách chính; củng cố sự độc lập, tự chủ và
năng lực của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là một ngân
hàng trung ương.
Về quản lý thị trường tài chính, báo cáo cho rằng, Việt
Nam cần xây dựng một khung pháp lý hoàn thiện, chặt chẽ
để giảm thiểu cơ hội phát sinh các hành vi đầu cơ, đồng

thời đưa thị trường phát triển lên một cấp độ cao hơn; cần
giám sát chặt chẽ hệ thống tài chính để đảm bảo sự lành
mạnh của thị trường và các định chế tài chính.
“Việt Nam cần các chính sách để có thể giải quyết nhanh
và hiệu quả các nút thắt cổ chai tại những vùng hay những
ngành mà vấn đề đang trở nên cấp thiết nhất. Để giải quyết
triệt để nhữ

×